Thứ Sáu, 18 tháng 5, 2018

“TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH KHÔNG PHẢI LÀ KẾT QUẢ CỦA SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀO VIỆT NAM” – MỘT LUẬN ĐIỆU PHẢN KHOA HỌC, PHI THỰC TẾ

                                                  
          Vững vàng trước mọi áp lực của thời cuộc và sự chống phá của kẻ thù, trước những giá trị to lớn của Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại…Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”. Tuy nhiên, vì những mục đích thấp hèn, bọn phản động và các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để phủ nhận điều đó. Chúng thường xuyên tung ra các quan điểm sai trái, thù địch, trong đó có luận điệu “Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin” hòng xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp vai trò, công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tính cách mạng, khoa học trong tư tưởng của Người, phủ nhận mối quan hệ biện chứng giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm thực hiện mưu đồ thâm độc và dã tâm đen tối. Nhưng sự thật lịch sử là không thể phủ định, thực tiễn cách mạng Việt Nam và tất cả những ai có lương tri đều đứng về lẽ phải, đều khẳng định việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta là công lao to lớn thuộc về Chủ tịch. Bởi vì:
          Một là, trước khi xuất hiện Hồ Chí Minh, phong trào đấu tranh giải phong dân tộc của chiến sĩ yêu nước trước đó như phong trào Cần Vương, phong trào nông dân Yên Thế, Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, khởi nghĩa Yên Bái…do các chiến sĩ yêu nước như: Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học… lãnh đạo đều lần lượt thất bại do thiếu một đường lối cách mạng đúng đắn và thiếu một phương pháp luận khoa học cách mạng trước yêu cầu, nhiệm vụ mới của thời đại. Thất bại đó càng chứng minh cho chúng ta thấy việc Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tìm đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, lựa chọn con đường cứu nước theo lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin là một sự lựa chọn tất yếu, tự nhiên và hoàn toàn đúng đắn.
          Hai là, thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc, và trong công cuộc đổi mới gắn liền với sự vận dụng thiên tài chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lênin với bản chất cách mạng và khoa học, với những giá trị hiện thực mang tầm thời đại là học thuyết duy nhất từ trước đến nay đặt ra mục tiêu, chỉ rõ con đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới thoát khỏi tình trạng nô dịch, bóc lột, thoát khỏi đói nghèo và tha hóa về mọi mặt. Trước cảnh nước mất, nhà tan, đồng bào bị đọa đày, đau khổ, tình hình đất nước “đen tối như không có đường ra”, người thanh niên giàu lòng yêu nước Nguyễn Tất Thành – sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã sớm nuôi chí lớn, quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước và sau nhiều năm bôn ba khắp nơi trên thế giới Người đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm thấy ở đó “cái cẩm nang thần kỳ” và “con đường” giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Người đã truyền bá và làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Bằng sự vận dụng sáng tạo, tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ nghĩa Mác – Lênin đã phát huy tác dụng một cách đầy đủ nhất, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
          Ba là, Chủ nghĩa Mác – Lênin là một khoa học ở tầm cao trí tuệ, nó không phải là một học thuyết đóng, đã xong xuôi hẳn mà yêu cầu phải được vận dụng và phát triển không ngừng trong thực tiễn để tiếp thêm sức sống và nuôi dưỡng sự phát triển của nó. Nhưng những kẻ phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin quên rằng, là thế hệ đi sau, lẽ ra họ phải có trách nhiệm đối với lịch sử, nhưng tiếc thay họ lại chối bỏ, thoái thác trách nhiệm mà các bậc tiền nhân giao phó. Khác với những kẻ đó, xuất phát từ lý tưởng cao đẹp của mình, từ chủ nghĩa yêu nước, Người đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, đi theo con đường và lý tưởng mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã vạch ra. Và, Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo, khéo léo, tài tình những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Qua đó, đã bổ sung vào chủ nghĩa Mác – Lênin nhiều luận điểm có giá trị, giúp chủ nghĩa Mác – Lênin ngày càng hoàn thiện và phát triển.
          Những vấn đề nêu trên đã khẳng định rõ mối quan hệ biện chứng giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nên việc cho rằng “tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin” là một sự phủ nhận, xuyên tạc trắng trợn của bọn phản động và các thế lực thù địch nhằm thực hiện những mưu đồ đen tối, mục đích thấp hèn của chúng. Do vậy, những ai có lương tri và trách nhiệm đối với sự phát triển của cuộc sống, đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam và toàn thể nhân loại bên cạnh việc kiên định và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cần kiên quyết đấu tranh, bác bỏ luận điệu sai trái, phản động này.

                                   Ánh Dương

         

KỲ 2: VÌ SAO MỸ BUỘC PHẢI SỚM CHẤM DỨT CUỘC TẤN CÔNG TÊN LỬA VÀO SYRIA ?



3. Ảnh hưởng tiêu cực của cuộc tấn công lên nền kinh tế Mỹ và thế giới:
Điều này khá đơn giản và được thể hiện khác rõ qua diễn biến của các thị trường chứng khoán, đặc biệt là thị trường chứng khoán Mỹ. Sau một tuần tăng điển ngoạn mục, 3 ngày trước khi Donald Trump quyết định tấn công Syria, chỉ số thương mại S&P 500 ở thị trường chứng khóa New York đã bất ngờ giảm 0,6%. Trong khi đó, chỉ số công nghiệp Dow John mất 220 điểm, tương đương 0,9%. Chỉ số công nghệ cao Nazdaq Composit cũng mất 0,24% số điểm vừa giành được qua chuỗi tăng giá tuần trước đó. Đồng Dollar Mỹ lên giá nhưng giá vàng cũng tăng mạnh do nhiều nhà đầu tư rút khỏi thị trường vốn đế chọn “hầm trú ẩn an toàn” là vàng. Chốt phiên giao dịch ngày 13-4 theo giờ Washington, giá vàng tăng 0,7%, lên mức 1.344,40 USD/ounce. Tính chung cả tuần, giá vàng đã tăng gần 1%. Đây là tuần tăng thứ 2 liên tiếp do bất ổn gia tăng ở Syria. Tuần này giá vàng có lúc lên mức cao nhất kể từ ngày 25/1 khi căng thẳng leo thang ở Syria, Mỹ trừng phạt Nga và lo ngại chiến tranh thương mại Mỹ - Trung ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán toàn cầu cũng như chỉ số đồng USD. Những diễn biến trên thị trường vàng từ đầu năm 2018 đến nay đã buộc Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) sẽ còn phải nâng lãi suất đồng Dollar Mỹ thêm vài lần nữa trong năm nay, bởi lãi suất USD tăng sẽ tạo ra đối trọng đẻ kìm hãm đầu tư cho những tài sản như vàng.
Giá dầu mỏ cũng tăng vụt do các bên đều tăng dự trữ nguồn cung. Đóng cửa phiên giao dịch ngày thứ Sáu 13-6-2018, tại thị trường London, giá dầu thô Brent tăng 0,56 USD/thùng, đạt mức 72,58 USD/thùng. Tại thị trường New York, giá dầu thô WTI tăng 0,32 USD/thùng, chốt ở 67,39 USD/thùng. Sang đên ngày 14-4-2018, giá dầu Brent tăng 5,48 USD/thùng, tương đương 8%. Giá dầu WTI cũng tăng 8% trong tuần. Hãng truyền thông Reuters (Anh) cho biết đây là tuần tăng giá mạnh nhất của dầu thô kể từ tháng 7 năm ngoái.
Tuy nhiên, nghiêm trọng hơn cả là các nhà phân tích kinh tế dự báo rằng giá dầu trên thế giới có thể tăng lên đến trên 100 USD/thùng. Nếu kịch bản này diễn ra thì sẽ là một mối lợi to lớn đối với Nga và các nước OPEC. Nhưng đều đó sẽ là thảm hoạc cho nền kinh tế Mỹ vốn là nền kinh tế tiêu thụ xăng dầu lớn nhất toàn cầu.
Chỉ bấy nhiêu thôi đủ thấy các hàng động quân sự phiêu lưu của Mỹ, Anh, Pháp đối với Syria sẽ đẩy nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Mỹ nói riêng vào một vòng suy thoái mới rất khó khắc phục một khi Mỹ quyết tâm kéo dài không kích. Thêm một lý do để Mỹ, Anh Pháp phải thu quân không kèn không trống trên chiến trường Syria.Và cũng chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ để các giới tư bản Mỹ ở phố Wall gồm các nhóm tư bản tài phiệt, tư bản công nghiệp và tư bản công nghệ cao buộc phải thỏa thuận để “bật đèn xanh” cho Donald Trump dừng cuộc không kích.
Vậy là hơn 250 triệu USD tiền mua tên lửa cùng với hơn 300 triệu USD chi phí các khoản phục vụ hậu cần cho cuộc tấn công của Mỹ, Anh, Pháp vào Syria là tiền thuế của cử tri Mỹ, Anh, Pháp đã bay vào không khí mà không đem lại lợi lộc gì trừ việc củng cố vị thế của Đảng Cộng hòa Mỹ trong cuộc bầu cử Quốc hội giữa nhiệm kỳ vào mùa thu năm 2018.
4. Thủ đoạn bịa đặt, dựng chuyện về vũ khí hóa học để tạo cớ gây chiến thất bại tham hại.
Sát trước cuộc tấn công của Mỹ, Ah và Pháp, Tổng tham mưu trưởng quân đội Syria và tướng Yuri Yevtushenko, người đứng đầu Trung tâm hòa giải các bên tham chiến tại Syria đã cùng cho biết việc quân đội Syria, trong quá trình đánh chiếm các vị trí còn lại của phiến quân ở Đông Ghouta đã phát hiện một “phim trường” của Tổ chức “Mũ bảo hiểm trắng” do tình báo Anh Mi-6 điều khiển. Địa điểm được phát hiện nằm ở Saqba, thị trấn nhỏ phía Đông Ghouta. Quân đội Syria cũng tìm thấy các máy quay phim, các máy tính dùng để dựng phim, thiết bị thu âm cùng các thiết bị sản xuất phim ở hiện trường. Chính những thước phim này đã được tình báo Anh tung lên mạng và trở thành cái gọi là “bằng chứng” về việc quân đội Syria sử dụng vũ khí hóa học và được dùng làm cái cớ để phát động chiến dịch không kích chống Syria ngày 14-4-2018.
Trong cuộc chiến ở Syria, đặc biệt là ở Aleppo, công luận trên thế giới được biết đến bản chất hai mặt của các thành viên tổ chức “Mũ bảo hiểm trắng”. Các thành viên của tổ chức này núp dưới danh nghĩ một tổ chức nhân đạo nhưng ban ngày thì đi cứu trợ, còn ban đêm thì đi bắt cóc, cướp bóc và giết người, gây rối loạn ở hậu phương của quân đội Syria.
Không những thế, lần theo lời khai của một số nhân viên người Anh trong tổ chức “Mũ bảo hiểm trắng”, ngày 13-4-2018, Quân đội Syria và quân cảnh Nga đã phát hiện tại thị trấn Aftris, thuộc Đông Ghouta một xưởng sản xuẩ vũ khí hóa học của phiến quân JAI và một số phe phái khác. Các nhà chức trách Syria đã tìm thấy ở đây các thùng đựng hóa chất Clorine, nhiều trang phục và mặt nạn phòng hóa, các phương tiện pha chế hóa chất. Cũng trong tòa nhà này, quân cảnh Syria còn tìm thấy hàng trăm viên đạn súng cối các cỡ 61 mm, 82 mm và 120mm cùng hàng loạt đạn hỏa tiễn đất đối đất tầm ngắn đường kính 180 mm.
Tất cả những hình ảnh này được lập tức trình chiếu công khai trên kênh truyền hình của hãng thông tấn Syria SANA, các kênh truyền hình của Nga RT, Sputnik. Tuy nhiên, Mỹ và Anh đã ra lệnh cấm hãng truyền hình đối ngoại RT của Nga hoạt động ở nhiều thành phố lớn ở Anh và Mỹ. Có thể thấy đây là đọng thái chuẩn bị cho cuộc chiến theo lối “bịt miệng đối phương lại mà đánh”. Thủ đoạn này đã từng diễn ra trong Chiến tranh Việt Nam khi Richard Nixon đã ra lệnh cho máy bay B-52 Mỹ đánh phá hủy diệt Trạm phát sóng Mễ Trì của Đài Tiếng nói Việt Nam lúc rạng sáng ngày 19-12-1972. Tuy nhiên, Đài Tiếng nói Việt Nam đã chuyển sang trạm phát song dự bị và đã lên tiếng trở lại chỉ sau 9 phút ngừng phát sóng, đánh bại thủ đoạn “bịt miệng đối phương lại mà đánh” của đế quốc Mỹ.
Điều này là một trong hai lý do thúc đẩy Mỹ và Anh phải sớm phát động không kích. Ngoài việc gây sức ép đòi Syria phải thả khoảng hơn 2.000 nhân viên tình báo, cố vấn quân sự của Mỹ, Anh, Canada và Pháp, Mỹ và Anh còn có mục tiêu “xóa dấu vết”; đồng thời đổ lỗi cho Syria và cả Nga về việc sử dụng vũ khí hóa học.
Thủ đoạn đổi trắng thay đen, đánh lộn song phải trái của Mỹ và đồng minh NATO đã không thể đánh lừa dược ai khi các phóng viên của Syria và nước ngoài được mời đến thăm Trung tâm sản xuất dược phẩm Barzah ở ngoại ô phía Bắc thủ đô Damacus, nơi mà Mỹ cho rằng Syria đang sản xuất vũ khí hóa học. Đích thân ông Giám đốc Trung tâm Shaeed Shaeed và nhiều nhân viên khác cùng các phóng viên đến hiện trường để thực hiện một phóng sự mà không cần trang bị bất cứ một bộ đồ phòng hộ nào. Theo lời ông Giám đốc Trung tâm này, nếu thực sự có vũ khí hóa học ở đây thì tôi cùng các đồng nghiệp và các bạn (chỉ các phóng viên) đã chết chỉ sau vài phút có mặt tại hiện trường.
Điều tồi tệ cho Mỹ và phương Tây rằng Trung tâm Barzah lại chính là nơi mà Tổ chức Quốc tế cấm vũ khí hóa học (OPCW) sử dụng làm trụ sở để kiểm soát quá trình giao nộp và tiêu hủy vũ khí hóa học của Syria hồi năm 2013. Việc vu khống cho một trung tâm sản xuất dược phẩm là nơi sản xuất và tang trữ vũ khí hóa học để dùng tên lửa đánh sập nó không chỉ là một sự vu cáo trắng trợn đối với Syria mà còn là một trò hề bẩn thỉu, táng tận lương tâm của các thế lực hiếu chiến Mỹ và Anh. Trong khi bị cấm vận thì Trung tâm dược phẩm Barzah là một trong số ít những cơ sở hóa dược phẩm có thể sản xuất thuốc y tế của Syria để cung cấp cho người dân trong khi chiến tranh, bom đạn liên miên. Vụ việc làm mọi người nhớ đến trận bom B-52 rải thảm của không quân Mỹ đã tàn phá Bệnh viện Bạch Mai của Việt Nam vào đêm 21 rạng ngày 22-12-1972.
5- Hiệu quả quá kém cỏi và thiệt hại lớn của Mỹ trong cuộc tấn công.
Trong “Chiến dịch Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” cuối tháng Chạm năm 1972 đã làm cho không quân Mỹ thiệt hại tới 17% số lượng máy bay tham chiến bao gồm cả những chiếc bị bắn rơi lẫn những chiếc đã về được căn cứ nhưng không thể cất cánh trở lại. Cùng với nó là 43 phi công B-52 Mỹ có đi không về, 33 phi công bịn bắt làm tù binh. Số còn lại được đặc nhiệm của không quân Mỹ giải cứu. Số lượng máy bay B-52 bị loại khỏi vòng chiến đấu lớn đến mức tờ báo News Week (Tuần tin tức) của Mỹ số ra ngày 8-1-1973 đã bình luận: “Nếu cứ đưa B-52 đi đánh một loạt trận thông thường ở Bắc Việt Nam mà mỗi trận lại thiệt hại như mức đọ vừa qua thì chẳng cần phát là một thiên tài toán học cũng tiên đoán được rằng rốt cuộc, Mỹ sẽ mất hết B-52”.
Trong cuộc chiến ở Syria, đây không phải là lần đầu tiên Mỹ dùng tên lửa Tomahawk để không kích Syria. Nhằm “xoa dịu nỗi đau” khi hàng trăm cố vấn quân sự Mỹ và phương Tây bị quân đội Syria bắt sống tại Aleppo hồi mùa xuân năm 2017, Mỹ đã sử dụng 59 quả tên lửa Tomahawk tấn công sân bay quân sự Al Shayrat. Tuy nhiên, chỉ có 23 quả đến đích, phá hủy 6 máy bay quân sự, 2 khẩu đội pháo phòng không, 2 kho chứa bom đạn và nhiên liệu. Còn lại 36 tên lửa Tomahawk đã “mất tích”. Người Nga không nó gì về việc này nhưng giới quan chức quân sự Mỹ thì “lạnh gáy” khi biết rằng chúng đã bị bắn rơi trên hành trình.
Trong cuộc không kích bằng tên lửa vào Syria ngày 14-4-2018 vừa qua, Mỹ có sự tham gia giúp sức của Anh và Pháp. Tổng cộng đã có khoảng 110 quả tên lửa được phóng đi gồm các loại Tomahawk của Mỹ, Storm Shadow của Anh và SCALP của Pháp. Mặc dù có rất nhiều mục tiêu được đánh dấu trên bản đồ tác chiến của liên quân Mỹ - Anh - Pháp nhưng những kết quả đạt được lại rất kém cỏi.
Theo trung tướng Kenneth McKenzie, chỉ huy các lực lượng tình báo không ảnh (IMGSIGN) của Bộ Chỉ huy Trung tâm (Mỹ), Khu vực bị thiệt hại nặng nhất là Trung tâm hóa-dược phẩm Barzah phía Bắc thủ đô Damascus. 6 quả tên lửa Tomahawk, 4 quả tên lửa Storm Shadow và 3 quả tên lửa SCLAP đã rơi xuống vị trí này, phá hủy toàn toàn trung tâm này.
Mục tiêu tiếp theo là kho quân sự Him Shinshar tại thành phố Homs đã bị 9 quả Tomahawk, 8 quả Storm Shadow và 2 quả SCALP tấn công. Mục tiêu thứ ba là hầm ngầm quân sự Him Shinshar CW, nằm cách khu kho quân sự Him Shinshar 7 km đã bị trúng 7 quả tên lửa SCALP. Tất cả chỉ có vậy. Chúng ta biết được rằng Anh và Pháp chỉ cử mỗi nước một biên đội máy bay chiến đấu gồm 4 chiếc mỗi biên đội tham gia cuộc không kích và mỗi máy bay Tornado (của Anh) và Raffale (của Pháp) chỉ có thể mang 3 tên lửa hành trình thì coi như tất cả các tên lửa của Anh và Pháp đều đến mục tiêu. Vậy thì các quả tên lửa Tomahawk còn lại trị giá mỗi quả 2,5 triệu USD (phiên bản tăng cường) bay đi đâu ? Lần này, người Mỹ đã không dám nói gì thêm.
Trong khi đó thì tướng Igor Konachenkov, người phát ngôn Bộ Quốc phòng Nga xác nhận lực lượng phòng không Syria đã bắn hạ 71 tên lửa của đối phương. Điều đặc biệt là Nga “không trực tiếp tham chiến”. Còn lực lượng phòng không Syria thì cũng chưa phải dùng đến những vũ khí đắt tiền như S-300PMU2, S-400Triumf và các tổ hợp pháo-tên lửa Panlsir -1S để chiến đấu. Vũ khí mà Syria đã sử dụng để chống lại cuộc không kích là các loại tên lửa mà Mỹ và phương Tây cho là lạc hậu như S-125 Pechora, S-200D Dubna, Buk-1/2M, 9K33 Osa, 2K12 Kvadrat và kể cả hệ thống pháo phòng không tự hành ZSU-23-4 Shilka.
Tỷ lệ thiệt hại tới trên 65% phương tiện bay tấn công là tỷ lệ thiệt hại chưa từng có trong một trận tập kích đường không trong lịch sử chiến tranh hiện đại. Nên nhớ rằng suốt 12 ngày đêm cuối tháng Chạp năm 1972 ở miền Bắc Việt Nam, không quân Mỹ chỉ chịu thiệt hại tới 17% các phương tiện bay tấn công chủ yếu là các máy bay B-52. Thế nhưng tỷ lệ ấy đã làm cho Richard Nixon không chịu nổi và phải dừng cuộc tập kích. Còn trong ngfay 14-4-2018, tỷ lệ thiệt hại tới 65% dù không kèm theo thiệt hại về người cũng đủ để cả Nhà Thắng, cả Lầu năm Góc, cả Điện Capitol, cả Điện Élyser và Số 10 phố Downing phải rung chuyển. Và điều không thể khác ắt sẽ diễn ra, Mĩ và đồng minh Anh – Pháp phải dừng cuộc tấn công sau khi tuyên bố vớt vát rằng đã “dạy cho Syria một bài học”.
Tuy nhiên, trên thực tế thì giống như ở Việt Nam 46 năm trước, những kẻ đi dạy bài học cho người khác đã bị những người bị dạy học dạy lại cho một bài học nhớ đời !

Thứ Năm, 17 tháng 5, 2018

XÂY DỰNG XÃ HỘI DÂN CHỦ ĐA ĐẢNG CÁI BẪY CHÍNH TRỊ CỦA CÁC THẾ LỰC PHẢN ĐỘNG




Xây dựng một “xã hội dân chủ đa đảng” tại Việt Nam là ước mơ cháy bỏng, là hoài bão, là nỗi khát khao chính trị, là nỗi niềm đau đáu của lực lượng phản động, cơ hội về chính trị hiện đang sống ở nước ngoài cũng như ở trong nước. Để thực hiện ước mơ đó, mới đây, họ đã phát tán tài liệu “Làm thế nào để xây dựng xã hội dân chủ đa đảng trong hòa bình tại Việt Nam?”.
Đọc qua tài liệu này cho thấy, các lực lượng phản động, cơ hội chính trị đang cố tình xuyên tạc, bôi đen tình hình mọi mặt của đất nước, quy chụp cho Đảng Cộng sản Việt Nam mọi sai lầm, khuyết điểm, gây nên những bất ổn xã hội, tạo cớ để đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ “dân chủ đa đảng”, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đưa nước ta đi theo con đường chủ nghĩa tư bản. Qua lời lẽ tuyên truyền cho thấy, các thế lực phản động đang ra sức ca ngợi“xã hội dân chủ đa đảng” phương Tây, coi đó là liều thuốc đặc trị cho tình hình ở Việt Nam, đồng thời cũng là mô hình xã hội mà chúng đang muốn áp dụng vào Việt Nam.
 Khi đọc xong tài liệu, tất yếu mọi người sẽ phải tự hỏi: Vậy những người đề xuất những giải pháp để xây dựng “xã hội dân chủ đa đảng” là ai? Họ có đủ tư cách đại diện cho nhân dân để bàn về giải pháp xây dựng “xã hội dân chủ đa đảng” ở Việt Nam, đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải thực hiện những yêu sách vô lý của họ hay không? Cái mô hình “xã hội dân chủ đa đảng” mà họ đưa ra có đúng là sản phẩm trí tuệ, là kết quả nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo của họ hay chỉ là nhặt nhạnh mấy cái quan điểm cũ rích về chế độ dân chủ tư sản, về chế độ đa đảng để đưa vào Việt Nam? Mục tiêu chính trị của họ là gì? Họmuốn trở thành những người lãnh đạo đất nước, phấn đấu vì cuộc sống ấm no,  tự do, hạnh phúc của nhân dân hay chỉ là những kẻ “làm chính trị”, bằng đầu lưỡi, chuyên “ăn theo, nói leo”. Những người này liệu có tài cán gì không? đạo đức thế nào? nguồn gốc xuất thân và quan hệ xã hội của họra sao? Vì thế, nếu tin họ chẳng khác gì là “gửi trứng cho ác”, là “bán linh hồn cho quỷ”. Dựa vào cái gì để có thể tin được họ đây? Họ có dám chịu trách nhiệm về những giải pháp mà họđề xuất nhằm xây dựng một “xã hội dân chủ đa đảng” ở Việt Nam hya không? Hay là họ chỉ là những kẻ đứng ngoài xúi bẩy, kích động nhân dân ta làm theo ý tưởng của họ để chống lại Đảng, chống lại chế độ? Nếu thuận lợi thì họ “xuất đầu, lộ diện”, nhận công về mình, còn một khi đất nước rơi vào hỗn loạn, nội chiến đẫm máu, xã hội rối ren, đời sống nhân dân cùng cực… thì họ lại trốn tránh ở nước ngoài, tiếp tục lớn tiếng đổ lỗi cho Đảng, Nhà nước ta, còn họ lại trở thành kẻ “vô can”, “ngoại phạm” .
         Đồng thời, người đọc cũng phải tự hỏi: vậy lực lượng tham gia các tổ chức “xã hội dân sự độc lập” mà họ đang khuyến khích thành lập gồm những ai? có các thành phần cơ hội chính trị, phản động, những lực lượng “ mafia chính trị” trà trộn, cài cắm vào các tổ chức này để lôi kéo, lừa mị, kích động các tầng lớp nhân dân tham gia hay không?
      Tương tự như vậy, các tổ chức, đảng phái chính trị mà họ đang khuyến khích thành lập là những đảng gì, đại diện cho các giai cấp, các lực lượng xã hội nào? các đảng này có thực sự phấn đấu vì nhân dân hay chỉ lo tranh giành quyền lực chính trị trên đầu, trên cổ nhân dân ta, chuyên làm “áp phe chính trị”, trục lợi chính trị? Liệu khi thực hiện “chế độ dân chủ đa đảng” có dẫn đến tình trạng các tổ chức, các đảng chính trị của các lực lượng phản động, ô hợp mọc lên như nấm sau trận mưa rào và thi nhau tranh giành quần chúng, đấu đá lẫn nhau, sử dụng nhân dân như những con bài chính trị để đạt được lợi ích của chúng? có hay không những tổ chức chính trị phản động bấy lâu nay hoạt động lén lút ở nước ngoài nay công khai nhảy về Việt Nam để lập ra đủ thứ tổ chức, đảng phái  phản động, chống cộng?
Tóm lại, người đọc hết sức bất bình về những giải pháp mà những lực lượng phản động nêu ra để xây dựng “xã hội dân chủ đa đảng” ở Việt Nam. Với những gì mà họ đưa ra trong tài liệu có thể kết luận rằng: “chế độ dân chủ đa đảng” chỉ làmón hợp khẩu vị với các nước tư bản phương Tây và món này cũng không còn thật sự hấp dẫn như những gì các đảng tư sản đã và đang tuyên truyền. Hơn nữa, “xã hội dân chủ đa đảng” ở các nước tư bản đã và đang nảy sinh những khuyết tật không thể tự khắc phục được. Rõ ràng, các nước chủ nghĩa xã hội, các nước độc lập có chủ quyền không thể chấp nhận“dân chủ đa đảng” vì nó là món ăn bị nhiễm độc cực kỳ nguy hiểm, có sức phá hủy cơ thể của một xã hội lành mạnh. Thực tế những năm qua cho thấy, “chế độ dân chủ đa đảng” tư sản được các thế lực thù địch xuất khẩu sang các nước, kèm theo những “giá trị” văn hóa, dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo của phương Tây, từ đó tạo ra những “cuộc cách mạng đường phố”, “cách mạng nhung”, các “cuộc cách mạng sắc màu” tàn phá nhiều nước. Mô hình  “xã hội dân chủ đa đảng” tư sản được các thế lực phản động áp dụng vào đâu, thì ở đó có biểu tình, ly khai, bạo loạn, lật đổ, có nội chiến đẫm máu, có khủng bố, tàn sát…Vì vậy, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần nêu cao cảnh giác, không để mắc mưu kẻ thù, tất cả những gì chúng tuyên truyền về “xã hội dân chủ đa đảng” chỉ là chiêu bài lừa mị nhân dân, nhằm mục tiêu xóa bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là cái bẫy chính trị mà các thế lực thù địch giương lên để đánh lừa quần chúng. Hãy cứ để cho các thế lực phản động tận hưởng cái hương vị ngọt ngào của cái bánh “dân chủ đa đảng” mà chế độ tư bản đã mang đến cho chúng./.


THỰC CHẤT HỘI ĐỨC CHÚA TRỜI



Thực chất, đây là một tổ chức tự xưng chưa được công nhận là một tổ chức tôn giáo hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, có biểu hiện mê tín dị đoan, lợi dụng giáo lý để trục lợi cá nhân. Với nội dung tuyên truyền cực đoan, phản khoa học như: chỉ sống cho riêng mình, từ bỏ gia đình, không thờ cúng tổ tiên, không làm mà vẫn có ăn.
Nhiều gia đình có người thân bị lôi kéo vào tổ chức này cho biết: Hàng tháng phải đóng góp 1/10 thu nhập và phải có trách nhiệm đi truyền giáo cho người khác. Các đối tượng thường bị lôi kéo là những người dễ tin, tò mò, người có hoàn cảnh éo le, bệnh tật, bế tắc, học sinh, sinh viên thông qua hình thức tụ tập thành nhóm, tổ chức sinh hoạt, núp dưới dạng tuyên truyền Kinh thánh, kỹ năng mềm. Mục đích khiến cho đối tượng không còn lo làm ăn. kinh tế gia đình sa sút và ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt gia đình.
          Trong những ngày qua, báo chí đã liên tục có các nội dung cảnh báo về “Hội Thánh Đức Chúa Trời” với những tư tưởng phi khoa học, phản cảm, phản tác dụng trong cuộc sống hằng ngày và đang được lan truyền rộng rãi qua mạng lưới tín đồ truyền đạo trái phép.
Tuy nhiên, thông qua một số nguồn tin hiểu rõ vấn đề, tôi nhận ra rằng có những chi tiết đang bị nói quá, và đó có thể là điều tai hại trong nỗ lực thông tin để mọi người nhận ra những điều sai trái của thứ đạo trên.
Chẳng hạn như “nước thánh lạ màu đỏ” có thể chứa chất hướng thần khiến các tín đồ nghe theo một cách mù quáng. Tôi được biết đó chỉ là rượu vang hoặc nước ngọt, và thứ “nước thánh” đó cùng bánh thánh cũng không có chất hóa học thần kinh nào để có thể điều khiển tín đồ ngày này qua tháng khác…
Nếu hiểu một cách mù mờ như vậy, chúng ta sẽ dễ lầm tưởng rằng nếu bản thân không ăn bánh, uống nước của tổ chức đó, thì chúng ta có thể “miễn nhiễm” khỏi thứ đạo phi khoa học này. Thực tế thì “vũ khí” để “Hội Thánh Đức Chúa Trời” lôi kéo mọi người không phải là một dạng vật chất hữu hình sờ nắn được như vậy.
Thay vào đó, họ dùng mạng lưới truyền bá với những “đòn tâm lý”, chia sẻ và vận động giống hệt như “đa cấp”, họ xây dựng một môi trường văn hóa kiểu Hàn Quốc, với sự lịch thiệp (nam mặc vest, nữ mặc váy dạng công sở), tôn trọng dành cho nhau… Tất cả điều đó sẽ khiến những người ít kinh nghiệm sống dễ bị xao động và lôi kéo, đặc biệt là những bạn sinh viên trẻ có ham muốn khẳng định bản thân nhưng chưa tìm được cách phù hợp.
Đặc biệt, một nguồn tin thân cận cho biết rằng, lời khuyên để “kéo” người thân là tín đồ của “Hội Thánh Đức Chúa Trời” ra khỏi thứ đạo phi khoa học này chỉ có thể là sự mềm mỏng, chân thành cùng những lời chia sẻ phù hợp, chứ tuyệt đối không phải là bạo lực. Vì càng áp dụng bạo lực thể xác hay tinh thần, mỗi tín đồ sẽ lại càng gắn bó với thứ “thuốc phiện tinh thần” đó hơn, để vượt qua nỗi đau mà họ phải gánh chịu…


NHẬN DIỆN CÁC BIẾN THỂ VÀ THỰC CHẤT QUAN ĐIỂM ĐÒI “PHI CHÍNH TRỊ HÓA” QUÂN ĐỘI




Đòi “phi chính trị hóa” quân đội là luận điểm đã có từ lâu, mà các đảng chính trị đối lập ở những nước đi theo chế độ đa đảng thường sử dụng, để hạn chế quân đội “can dự” vào những tranh giành chính trị của các đảng phái. Ngay từ năm 1905, trong bài “Quân đội và cách mạng” đăng trên báo “Đời sống mới” ngày 16 - 11, V.I. Lê-nin đã chỉ rõ: “... những câu nói của bọn tôi tớ của nền chuyên chế về tính trung lập của quân đội, về sự cần thiết phải giữ cho quân đội đứng ngoài chính trị v.v. là giả dối, rằng những lời nói đó không thể mong được binh lính đồng tình một chút nào”1.
Trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, khi thấy rằng phương thức chống phá CNXH bằng biện pháp gây chiến tranh xâm lược không còn hiệu quả, chủ nghĩa đế quốc đã đẩy mạnh chống phá bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Một trong các thủ đoạn mà chúng sử dụng là đưa khẩu hiệu “quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị” vào các nước XHCN, nơi chỉ có một đảng (ĐCS) lãnh đạo, nhằm thực hiện “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang cách mạng, mà thực chất là nhằm tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của ĐCS, vô hiệu hóa vai trò của quân đội - công cụ bạo lực của Đảng, của Nhà nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Thủ đoạn này đã được chúng áp dụng thành công ở Liên Xô trước đây. Trong thời gian M.Goóc-ba-chốp làm Tổng Bí thư ĐCS Liên Xô, những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội Liên Xô đã rời bỏ nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, mắc những sai lầm rất nghiêm trọng: xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của ĐCS đối với quân đội, làm cho Quân đội Liên Xô bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa. Chỉ trong khoảng hai năm 1987 - 1989, gần 50% cán bộ chiến lược của quân đội và khoảng 30% tướng lĩnh bị cho ra quân; hơn 100 cán bộ lãnh đạo chính trị cấp chiến lược - chiến dịch bị cách chức với lý do “không ủng hộ cải tổ”. Tháng 3-1990, Đại hội đại biểu bất thường lần thứ 3 ĐCS Liên Xô đã chấp nhận từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội ở Điều 6 trong Hiến pháp Liên bang Xô-viết; chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Ngày 20-7-1991, sau khi đắc cử Tổng thống Liên bang Nga, B. Yeltsin đã ban bố sắc lệnh “phi đảng hóa” và tuyên bố cấm các chính đảng hoạt động trong cơ quan nhà nước các cấp. Ngày 23-8-1991, trước ngày M.Goóc-ba-chốp tự ý tuyên bố giải tán Ban Chấp hành Trung ương, thì Bộ trưởng Quốc phòng Sa-pô-xni-cốp đã tuyên bố rời bỏ ĐCS Liên Xô và buộc mọi quân nhân là đảng viên cộng sản phải trả thẻ đảng. Tất cả những hành vi đó đều nhằm thực hiện “phi chính trị hóa”, làm cho Quân đội Xô-viết mất phương hướng chính trị, mất sức chiến đấu, không thể bảo vệ được Tổ quốc XHCN; mặc dù, lúc đó Quân đội Liên Xô vẫn còn 3,9 triệu quân thường trực, được trang bị rất hiện đại. Đó là một trong những nguyên nhân rất quan trọng dẫn tới sự tan rã của Liên bang Xô-viết vào cuối năm 1991.
Đối với nước ta, từ nhận định rằng, hiện nay ĐCS Việt Nam còn nắm chắc quân đội và công an, nên chưa thể xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, chưa thể xóa bỏ được chế độ XHCN, vì thế các thế lực thù địch với cách mạng nước ta ráo riết thực hiện chiêu bài “Lực lượng vũ trang phải duy trì tính trung lập về chính trị”. Họ hy vọng rằng, một khi lực lượng vũ trang đã bị mê muội bởi khẩu hiệu đó, đội ngũ cán bộ quân đội và công an đã dao động, mất phương hướng chính trị, sẽ tạo “cơ hội vàng” cho họ ra tay lật đổ ĐCS Việt Nam và thể chế chính trị XHCN ở Việt Nam theo đúng kịch bản “không đánh mà thắng”(!). Năm 2013, lợi dụng việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức xin ý kiến nhân dân vào bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, các thế lực chống phá con đường xây dựng CNXH xem đây là thời cơ có một không hai, để công khai đẩy mạnh đòi hỏi “phi chính trị hóa” quân đội. Đáng tiếc rằng, không ít người đã mơ hồ về chính trị, mất cảnh giác, mắc mưu những thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch để vào hùa với chúng, nhai lại những luận điệu sai trái nói trên, mà không tỉnh táo tự vấn mình rằng: tại sao những đề xuất về “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang” lại được VOA, BBC, RFA, RFI,... cùng những kẻ phản bội Tổ quốc, những người có thâm thù với cách mạng ở hải ngoại tung hô, cổ vũ nhiệt thành đến vậy? Khi bị chỉ trích những đề xuất đó là biểu hiện của sự “suy thoái về tư tưởng chính trị”, những người cổ súy cho tư tưởng này vội “lấp liếm” rằng: “chúng tôi chỉ yêu cầu lực lượng vũ trang trung lập về chính trị, chứ đâu có đòi “phi chính trị hóa” quân đội? Sự ngụy biện đó không đánh lừa được công luận; bởi xét về bản chất, yêu cầu “Lực lượng vũ trang phải duy trì tính trung lập về chính trị” chỉ là một dạng thức, một phiên bản của quan điểm đòi “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang”. Nói đến “trung lập về chính trị”, nghĩa là “đứng giữa các lực lượng chính trị”, “đứng ngoài chính trị”, “không can dự gì vào chính trị”...; trong khi đó, Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam đang được xây dựng theo phương hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở, nền tảng để xây dựng vững mạnh toàn diện. Hơn nữa, bản thân QĐND Việt Nam đang là những lực lượng chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của ĐCS Việt Nam, tức là đang “không đứng ngoài chính trị”; thì việc đòi hỏi “Lực lượng vũ trang phải duy trì tính trung lập về chính trị” thực chất là đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang Việt Nam không hơn, không kém.
Để thực hiện mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội, các thế lực thù địch sử dụng mọi biện pháp, cả về lý luận, tư tưởng lẫn hành động thực tiễn.
Trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng, họ thường lập luận rằng: quân đội là công cụ của nhà nước, nên chỉ phục tùng nhà nước, chứ không phục tùng và chịu sự lãnh đạo của bất cứ chính đảng nào; hoặc: hoạt động của lực lượng vũ trang chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân, nên chỉ phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào,... Nghe thoáng qua, không ít người ngộ nhận sự có lý của lập luận này, nhất là những người nhẹ dạ, cả tin, ít trải nghiệm qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, mà không hiểu rằng: đây là thủ đoạn nhằm chuyển lập trường chính trị của lực lượng vũ trang cách mạng sang lập trường của bọn cơ hội chính trị, của giai cấp tư sản.
Trong hành động thực tiễn, những người cổ súy cho tư tưởng “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang” đòi “quân đội, công an phải trung lập về chính trị”, tức là một khi có biến động chính trị, thì quân đội và công an hãy án binh, bất động, không đứng về phe nào. Đối với những nước đi theo chế độ XHCN, chỉ có một ĐCS lãnh đạo như nước ta, họ đòi xóa bỏ nguyên tắc “ĐCS lãnh đạo lực lượng vũ trang”; hạ thấp, đi đến đòi xóa bỏ hoạt động công tác đảng, công tác chính trị cùng hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị (nhất là chế độ chính ủy, chính trị viên) trong quân đội - một trong những yếu tố riêng có của quân đội các nước XHCN, nhằm đảm bảo cho ĐCS giữ vững sự lãnh đạo đối với quân đội. Mặt khác, họ xuyên tạc các sự kiện chính trị trong lịch sử có quân đội tham gia, thổi phồng khuyết điểm của một vài đơn vị quân đội, công an và một bộ phận quân nhân, chiến sĩ công an trong quá trình làm nhiệm vụ; bôi nhọ đời tư của các tướng lĩnh, anh hùng lực lượng vũ trang,... Hòng qua đây, làm cho quân đội, công an mất uy tín trong nhân dân, hạ thấp vị thế của quân đội, công an trong xã hội..., từ đó mà vô hiệu hóa vai trò của quân đội và công an trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng.
Đối với Việt Nam, để thực hiện mục tiêu nhất quán là xóa bỏ thành quả cách mạng và lái con đường phát triển của đất nước sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, trong nhiều năm qua, các thế lực thù địch đẩy mạnh các chiến dịch vận động đòi thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập và lô-gic tất yếu của tiến trình đó, nếu được thực hiện, sẽ là xóa bỏ sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đối với QĐND Việt Nam. Họ công khai đòi bỏ quy định sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, “bỏ quy định lực lượng vũ trang nhân dân phải trung thành với ĐCS Việt Nam” đã được khẳng định trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Lợi dụng tình cảm của nhân dân ta với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, họ cố tình lờ đi hoàn cảnh lịch sử của sự kiện (ngày 26-5-1946) Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Trường Võ bị lục quân Trần Quốc Tuấn lá cờ “Trung với nước, hiếu với dân”, để xuyên tạc tư tưởng nhất quán của Người về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với QĐND Việt Nam, bằng lý lẽ rằng: Hồ Chí Minh chưa bao giờ nói Quân đội phải trung thành với Đảng cả (!)
Mục tiêu hướng tới của những thủ đoạn nói trên là thúc đẩy sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ QĐND Việt Nam, làm cho Quân đội ta xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng; biến chất về chính trị, tiến tới vô hiệu hóa vai trò của Quân đội là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Những thủ đoạn đó thật tinh vi và thâm hiểm, nhưng sai cả về lý luận và thực tiễn, cần phải vạch trần, bác bỏ.


Nhận diện âm mưu, thủ đoạn chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam và giải pháp cơ bản phòng, chống



Hiện nay, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch sử dụng chiến lược DBHB chống phá cách mạng Việt Nam, thực chất là tác động làm chuyển hoá chế độ XHCN sang chế độ TBCN tiến hành bằng các hình thức, biện pháp, lực lượng, phương tiện phi quân sự.
Chủ thể của chiến lược DBHB là CNĐQ, đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch khác. Đối tượng tiến công của chiến lược DBHB là nhằm trực tiếp vào Đảng, Nhà nước ta dưới mọi hình thức khác nhau. Mục tiêu cơ bản của chiến lược DBHB là xoá bỏ chế độ XHCN ở nước ta. Phương châm hành động của chiến lược DBHB là bằng các thủ đoạn, hình thức, biện pháp, lực lượng, phương tiện phi quân sự chủ động tiếp cận làm tan rã, sụp đổ chế độ XHCN từ bên trong. Quá trình thực hiện chiến lược DBHB diễn ra từ thấp đến cao, từ bộ phận đến toàn bộ, được thực hiện có kế hoạch, có bước đi cụ thể phù hợp với diễn biến tình hình ở trong nước. Thực hiện ở tất cả các lĩnh vực từ kinh tế - xã hội, tư tưởng, văn hóa, quốc phòng, an ninh đến đối ngoại. Thủ đoạn thâm độc, hết sức tinh vi, xảo quyệt dưới chiêu bài viện trợ kinh tế, giải quyết các vấn đề nhân đạo, hợp tác kinh doanh...
Trước hết, về chính trị tư tưởng, các thế lực thù địch tập trung chống phá, phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên của cách mạng và vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng đòi thay đổi mô hình xã hội XHCN bằng “xã hội dân chủ” mà đặc trưng là chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Chúng tuyên truyền, phản bác, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin,  bôi nhọ lãnh tụ, xóa bỏ mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Chúng đẩy mạnh, tuyên truyền phủ nhận thành quả cách mạng, con đường đi lên CNXH và chia rẽ nội bộ, chia rẽ Đảng với quần chúng; truyền bá các học thuyết chính trị - xã hội TBCN vào nước ta, tìm cách lôi kéo, “gài bẫy”, khống chế, tạo dựng “ngọn cờ” để tập hợp lực lượng; xây dựng lực lượng ngầm và tổ chức ra các đảng phái chính trị nhất là những đối tượng thoái hoá, biến chất, cơ hội chính trị, kích động chống đối lại chế độ XHCN. Chúng đòi phi chính trị hoá các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và đặc biệt là lực lượng vũ trang nhân dân, kích động bạo loạn, khi có thời cơ sẽ lật đổ chính quyền bằng cuộc cách mạng "nhung lụa" hoặc gây bạo loạn lật đổ.
Các thế lực thù địch tổ chức các đường dây tình báo, gián điệp, vừa chống ta từ bên ngoài, vừa tìm cách chia rẽ, phá hoại, tác động “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” từ bên trong, thông qua các tổ chức "phi chính phủ" để lôi kéo, mua chuộc, khống chế cán bộ, cài cắm nội gián xây dựng các tổ chức phản động từ trong nội bộ ta.
Hai là, trên lĩnh vực kinh tế, dùng viện trợ, đầu tư để thúc đẩy kinh tế tư nhân, phát triển nền kinh tế thị trường tự do thực chất là phá hoại, làm suy yếu nền kinh tế và cơ sở hạ tầng của CNXH, suy cho cùng là chuyển đổi cơ chế lãnh đạo, quản lý kinh tế của ta theo hình mẫu của phương Tây, từ đó sẽ chuyển hoá chế độ chính trị XHCN ở Việt Nam. Thúc đẩy sở hữu tư nhân, đầu tư vào khu vực kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế thị trường tự do, tách khỏi sự lãnh đạo, quản lý của Nhà nước XHCN để lấn át, tiến tới vô hiệu hoá thành phần kinh tế Nhà nước. Lợi dụng sự đầu tư hợp tác liên doanh, liên kết, buôn bán và các quan hệ kinh tế khác, kể cả viện trợ cho vay, trả nợ, giúp đỡ kèm điều kiện để thao túng, lũng đoạn các ngành kinh tế mũi nhọn, gây sức ép, cản trở, khống chế, kìm hãm sự phát triển kinh tế theo định hướng XHCN thực hiện chuyển hoá theo con đường TBCN. Khuyến khích các hoạt động kinh tế "ngầm", hoạt động kiểu Mafia để làm mất ổn định kinh tế. Tạo ra đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế theo mẫu phương Tây để hướng lái sự phát triển kinh tế theo con đường TBCN. Thông qua sự giúp đỡ, viện trợ kinh tế, hợp tác đầu tư kinh tế, viện trợ nhân đạo để tăng cường gây sức ép, đặt điều kiện cải cách kinh tế, đi đôi với cải cách chính trị; tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ nước ta. Một số tổ chức phi chính phủ, gia tăng các hoạt động tình báo kinh tế, thương mại để ký kết các dự án, chương trình hợp tác, liên doanh, hội thảo khoa học để thu thập thông tin, tài liệu bí mật, để nắm cán bộ quản lý, tác động, hướng lái nền kinh tế Việt Nam đi chệch khỏi định hướng XHCN.
Ba là, trên lĩnh vực văn hoá - xã hội,chúng truyền bá những "giá trị" Mỹ, lối sống xa lạ vào nước ta nhằm xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nền văn hoá mang bản sắc dân tộc của Việt Nam. Chúng xuyên tạc truyền thống văn hoá dân tộc, truyền thống văn hoá cách mạng, làm tha hóa lối sống, làm sói mòn những giá trị tinh thần của nhân dân ta. Bằng cách truyền bá vào nước ta các ấn phẩm độc hại, lối sống hưởng thụ, đề cao giá trị đồng tiền quá mức, sống thực dụng không có hoài bão, lý tưởng... móc nối, mua chuộc, lôi kéo, kích động trí thức, văn nghệ sỹ bất mãn, cơ hội, cực đoan, quá khích tham gia chống Đảng và Nhà nước ta. Tìm cách thao túng, lũng đoạn, chi phối các cơ quan, tổ chức văn hoá và văn nghệ làm cho các hoạt động văn hoá đi chệch hướng XHCN.
Chúng xuyên tạc trắng trợn tình hình nhân quyền ở Việt Nam, vu cáo ta thực hiện chế độ "độc đảng", vi phạm dân chủ, nhân quyền đàn áp những người khác chính kiến, các tôn giáo, các dân tộc và đòi thả hết cái gọi là “tù nhân chính trị và tôn giáo” để có tiến bộ thực chất trong việc tôn trọng quyền tự do tôn giáo, quyền con người của các dân tộc. Đặc biệt, chúng lợi dụng, công khai tài trợ, củng cố giáo hội, phát triển tín đồ, truyền đạo trái phép, củng cố đức tin, đẩy mạnh các hoạt động mở rộng địa bàn, đưa tôn giáo vào vùng dân tộc; thâm nhập, phát triển đạo trong học sinh, sinh viên; thông qua hoạt động từ thiện để lôi kéo cán bộ và quần chúng theo đạo; nâng cao vai trò giáo hội, đòi tách giáo hội ra khỏi sự quản lý của Nhà nước, công khai đòi "tự do tôn giáo". Bằng các thủ đoạn trên chúng nhằm chia rẽ các tôn giáo, tôn giáo với nhân dân, với Đảng và Nhà nước...từng bước công khai hoá, hợp pháp hoá, quốc tế hoá tổ chức "Tin lành Đê Ga" ở các tỉnh Tây Nguyên để kêu gọi nước ngoài can thiệp. Mặt khác, thông qua đường du lịch, thăm thân, hợp tác đầu tư, hội thảo lịch sử, văn hoá, hoạt động từ thiện, qua các phương tiện thông tin đại chúng để tài trợ vật chất, tuyên truyền, xuyên tạc chính sách dân tộc của ta, gây chia rẽ giữa các dân tộc với Đảng và Nhà nước. Đồng thời, tập hợp lực lượng tham gia các đảng phái chính trị, huấn luyện các lực lượng phản động từ bên ngoài, đưa số này xâm nhập bất hợp pháp về nước hoạt động phá hoại.
Bốn là, về đối ngoại, với chiến lược “ngoại giao thân thiện” mục tiêu của chiến lược này là nhằm “hòa tan” Việt Nam trong cộng đồng quốc tế và tiếp cận phá hoại ta từ bên trong một cách toàn diện hơn. Với chiêu bài mời, đài thọ về kinh phí cho các nhà ngoại giao, cán bộ ở các cấp, các ngành, các địa phương sang thăm Mỹ, tổ chức kết nghĩa giữa các cấp các ngành, các cơ quan, tổ chức giữa Mỹ và Việt Nam; tăng cường các cuộc hội thảo giữa hai nước về các lĩnh vực, chuyển giao khoa học - công nghệ; thăm viếng giữa các tầng lớp, thúc đẩy giao lưu văn hoá, tham quan, học tập để lôi kéo, mua chuộc, kích động đối với trí thức, các nhà khoa học, dùng kinh tế để lôi kéo con em cán bộ cao cấp, cấp học bổng cho họ sang Mỹ học. Câu kết, móc nối với những phần tử bất mãn, thoái hóa, biến chất trong nội bộ nhất là cán bộ cao cấp để lôi kéo, phát triển tổ chức “phong trào nhân dân yêu nước”, thu hút các tầng lớp tham gia vào “mặt trận” dân chủ, lập ra nhiều tổ chức chống đối chính quyền nhân dân. Thông qua trao đổi văn hoá và hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, tăng cường trợ giúp tài chính cho các “lực lượng dân chủ” trong nước và cho “các nhà đấu tranh cho dân chủ” ở nước ngoài; xuất bản và phổ biến vào trong nước những tài liệu có nội dung phản động thông qua con đường Internet, các đài phát thanh để chuyển tải tin tức và tiếng nói “dân chủ” ở bên ngoài để phục vụ cho việc thúc đẩy dân chủ, đẩy nhanh quá trình tư nhân hoá để chuyển hoá chế độ. Chúng kích động, chia rẽ mâu thuẫn giữa Việt Nam với Trung Quốc, với Cămpuchia...
Năm là, về quốc phòng, an ninh,chúng sử dụng nhiều thủ đoạn ngoại giao để mở rộng quan hệ hợp tác quân sự, quốc phòng, an ninh với ta như giải quyết tồn đọng sau chiến tranh, vấn đề tìm kiếm lính Mỹ mất tích và hài cốt, giúp chúng ta rà phá bom mìn. Qua đó thực hiện âm mưu đánh cắp các bí mật quốc phòng, an ninh quốc gia của ta. Chúng khai thác tin tức tình báo, bí mật cài đặt các thiết bị điện tử để đánh cắp bí mật quân sự, an ninh quốc gia. Thông qua viện trợ kinh tế, khoa học kỹ thuật quân sự, chuyển giao công nghệ, vốn và vấn đề tự do, dân chủ, Mỹ đưa ra nhiều khoản viện trợ quân sự trị giá lớn kèm theo điều kiện để thúc đẩy quan hệ giữa quân đội, công an hai nước gây mơ hồ, ảo tưởng, hoài nghi trong một bộ phận nhân dân, tạo mâu thuẫn phân hóa nội bộ, làm giảm niềm tin của nhân dân ta đối với Đảng, với mục đích để móc lối, mua chuộc, lôi kéo, mặc cả nhằm làm chuyển hóa chính trị lực lượng vũ trang ta theo hướng thân phương Tây, pha loãng chính trị vô sản của quân đội và công an, làm giảm sức mạnh chính trị - tinh thần của quân đội và công an.
Để phòng, chống có hiệu quả, tùy từng lĩnh vực mà có các biện pháp cụ thể, trong đó coi trọng các biện pháp xây và chống. Trong đó, thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, thường xuyên chăm lo bồi dưỡng quan điểm, lập trường cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta.Phẩm chất chính trị cán bộ, đảng viên và nhân dân được biểu hiện trước hết ở quan điểm, lập trường cách mạng, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về những vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam. Chăm lo bồi dưỡng quan điểm, lập trường cách mạng cho mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân phải là một hành động tự giác, tự ý thức rèn luyện nhằm nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin và tình cảm cách mạng để “miễn dịch” với DBHB. Trên cơ sở đó, cần phải đổi mới chương trình, nội dung, giáo trình, sách giáo khoa, cách dạy và cách học các bộ môn khoa học Mác - Lênin ở tất cả các cấp học, bậc học, biến quá trình học tập thành quá trình tự học tập và học suốt đời. Có như vậy, chúng ta mới hiểu và quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về phòng, chống DBHB làm thất bại mưu đồ của các thế lực thù địch.
 Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình hiện nay, đòi hỏi chúng ta càng phải kiên quyết giữ vững đường lối độc lập tự chủ, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không dao động, ngả nghiêng. Đây là mục tiêu của cách mạng, là nguyện vọng, con đường, lẽ sống của nhân dân và của cả dân tộc Việt Nam. Chúng ta phải dựa chắc trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ trong quyết định đường lối cách mạng, cũng như chủ trương, chính sách trên từng lĩnh vực cụ thể. Nắm vững và thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa để cho chúng ta mạnh lên về mọi mặt. Mỗi người dân cần có việc làm cụ thể, thiết thực, thực hiện tốt nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc XHCN.
Ba là,phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiến hành đấu tranh chống DBHB toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Trước hết, cần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với nhiệm vụ là vấn đề then chốt hiện nay. Cần thực hiện tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, làm cho Đảng ta mạnh lên, đây là nhân tố quyết định làm thất bại âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược DBHB. Củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, kiên quyết chống biểu hiện “xa dân”, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Phát huy vai trò của quần chúng nhân dân, của mọi tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu tranh toàn diện làm thất bại âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch thực hiện chiến lược DBHB chống phá cách mạng nước ta. Đồng thời, phải phát huy “sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”
Bốn là,nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.Chúng ta hơn lúc nào hết cần tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, qua đó giữ vững ổn định chính trị. Nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên phản bác lại luận điệu trước mọi âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch thực hiện DBHB chống phá cách mạng nước ta. Nắm vững pháp luật, chủ động, kiên quyết, kịp thời trấn áp các phần tử phản động để bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ chế độ, làm thất bại những âm mưu, hành động chống Đảng, bạo loạn lật đổ, can thiệp vũ trang của các thế lực thù địch. Kết hợp ngăn ngừa và đối phó thẳng lợi các tình huống chiến lược về quốc phòng - an ninh có thể xảy ra.
Năm là, tăng cường công tác quản lý cán bộ, đảng viên, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân trong sạch vững mạnh, đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng.Tăng cường công tác quản lý cán bộ, đảng viên của tổ chức cơ sở đảng là một trong những biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác bảo vệ chính trị nội bộ, đồng thời cũng là một biện pháp phòng chống DBHB. Bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng; bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và bảo vệ cán bộ, đảng viên. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là cấp cơ sở phải nắm chắc quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên cả về phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống. Phát hiện kịp thời và kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện lệnh lạc, trái với đường lối, quan điểm, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; dựa vào nhân dân, đề cao cảnh giác, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phá hoại nội bộ Đảng. Đồng thời, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái đạo đức, tham nhũng sách nhiễu dân trong bộ máy Nhà nước. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng các thiết chế, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ trong phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu. Mở rộng dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nghiêm trị những người lợi dụng dân chủ để gây rối. Triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Thực hiện tốt một số giải pháp nêu trên sẽ góp phần tích cực vào phòng, chống DBHB của các thế lực thù địch góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”




Nguyễn Ngọc Nam Phong và mưu đồ đen tối sau bài giảng giáo lý




Sắp đến ngày 30/4, ông linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong lại loan báo về chuẩn bị có bài giảng mang danh ” Thánh lễ Cầu nguyện cho Công lý – Hòa Bình tại nhà thờ Thái Hà” với nội dung xuyên tạc kiểu “Những người “ở bên thắng cuộc” lại tiếp tục hoan hỷ mừng vui trên những đau thương của cuộc chiến với những lễ hội kỷ niệm tưng bừng”, thực hiện chính sách chia rẽ vùng miền, tôn giáo, khiến đất nước tụt hậu, xuống cấp đạo đức dân tộc…, sau đó là màn “kết tội” và phủ nhận chế độ chính trị quen thuộc “43 năm – đã là quá đủ để con dân đất Việt cùng thành tâm nhìn nhận những sai lầm của quá khứ; để cùng nhau quên đi những đau thương, những hận thù vốn đã và đang gây nên biết bao thảm họa cho dân tộc Việt thân yêu; đã đến lúc phải thấy rằng không có bên thắng cuộc hay bên thua cuộc mà chỉ có một dân tộc Việt đang tụt hậu so với các nước lân bang, kém hơn cả Lào và Campuchia”… cũng như kêu gọi cầu nguyện cho sự thay đổi chế độ của ông ta và công dân thấy được “trách nhiệm” đó!

Đã trở thành thứ “điệp khúc” quen thuộc của ông linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong và một số linh mục nổi tiếng “chống cộng” khác. Quanh năm, không bỏ sót bất cứ sự kiện chính trị nào là không tìm ra cái cớ lên án chế độ và cầu nguyện thay đổi tương tự; không dịp phiên toà hay đám chống cộng, phá hoại đất nước mà ông ta ca tụng như những anh hùng dũng cảm mà bỏ lỡ không ca ngợi và cầu nguyện “cộng sản trả tự do”. Rõ ràng rằng, giảng giáo lý và cầu nguyện đã trở thành phương tiện, công cụ để ông linh mục này tuyên truyền, vận động người dân chống lại đất nước và PR cho những kẻ dám chống phá đất nước.
Nhìn vào cá nhân ông ta ca tụng, từ kẻ xả “máu trên máu dưới” khiến chính đồng bọn của chúng phải tởm lợm cho đến kẻ có máu khủng bố, hô hào sử dụng “bom, mìn” chống lại chính quyền với lý do “giữ đất” như Cấn Thị Thêu, ông ta đều không bỏ lỡ cơ hội ca ngợi sự dũng cảm, tôn vinh trước hàng trăm giáo dân với ý đồ không giấu giếm khích lệ họ “noi gương” những kẻ này. Thật may, hàng trăm, ngàn giáo dân Thái Hà đến nghe giảng nhưng chưa ai “nghe lời” Nguyễn Ngọc Nam Phong nối gót Bùi Hằng hay Cấn Thị Thêu cả, ngoại trừ kẻ ăn lương RFA và đám cờ vàng là JB Nguyễn Hữu Vinh.
Dễ hiểu, nhà thờ Thái Hà có những linh mục như Nguyễn Ngọc Nam Phong nên nó mới trở thành “căn cứ địa” tụ tập, ăn ở, ẩn nấp của đám zân chủ, phản động cả nước khi ra Hà Nội. Dư luận đã có không ít tố cáo nhà thờ Thái Hà câu kết với Việt Tân trong các chiến dịch biểu tình trước các phiên xử hay chiến dịch truyền thông, hậu thuẫn cho thân nhân thành viên Việt tân trong nước bị xử lý. Tiêu biểu như Lê Quốc Quân được nhà thờ này ưu ái dành “phòng riêng” với đầy đủ trang thiết bị “đấu tranh dân chủ” để Quân có thể chỉ huy, điều phối mạng lưới Việt tân trong nước cho chủ ở hải ngoại. Nên khi Quân bị ra toà vì tội trốn thuế, nhà thờ này tổ chức cầu nguyện và bắt tất cả giáo dân đi tuần hành đến phiên toà đòi “công lý” của Lê Quốc Quân. Tương tự trong phiên xử số cầm đầu HAEDC- tổ chức tay sai Việt tân do Hà Đông Xuyến trực tiếp điều hành, nhà thờ này cắt cử một giáo dân chuyên về truyền thông lo hậu cần, kiểm soát các bà vợ và quy tụ đám dân khiếu kiện, rân chủ đi gây rối bằng phương thức giống y chang phiên toà Lê Quốc Quân, nhưng có lẽ giáo dân đã thấy được bản chất của trò “cầu nguyện” này nên đều tránh xa, chỉ trơ đám biểu tình chuyên nghiệp trung thành với nhà thờ là Cấn Thị Thêu và đội “zân oan” chuyên nghiệp khởi phát từ nhà thờ đi đến phiên toà
Mong rằng chính quyền Hà Nội cần sớm có biện pháp xử lý không để linh mục như Nguyễn Ngọc Nam Phong công khai hô hào, gây dựng lực lượng chống Nhà nước, cũng như mong rằng giáo dân Thái Hà cần lên tiếng như giáo dân miền Trung và nhiều nơi khác vạch trần bản chất linh mục như ông Phong để linh mục Thái Hà không thể lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo cho mưu đồ đen tối.


MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRÁNH MẮC MƯU “TỰ DIỄN BIẾN”



Để không mắc mưu địch, mình luôn luôn phải là chính mình; không bị “vô tình” mang bệnh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; không gây hại cho Đảng, tự “lấy tay chọc vào mắt mình” biến mình thành đui mù, thì mỗi người cần “soi lại mình để tự sửa cho đúng”. Muốn vậy, hãy chủ động, tích cực tham gia làm tốt một số giải pháp sau đây:
Giữ cho mình trong sạch, sống ngay thẳng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân; tự sửa chữa nhưng sai sót, khuyết điểm của mình.
Kịp thời phát hiện những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, nắm chắc tâm tư, nguyện vọng của người nhân dân, đặc biệt là nhu cầu về lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của từng đối tượng để đề xuất với Đảng, để Đảng có biện pháp đúng và trúng, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, làm cho Đảng và từng cơ quan, đơn vị mạnh lên, không để xảy ra mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ; không có tham những, quan liêu, lãng phí; làm cho mọi người dân tin yêu Đảng, chính quyền.
Nhận thức đúng vị trí, vai trò của công tác tuyên truyền, góp phần tham gia phổ biến, giáo dục chính trị trong đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm cho cán bộ, đảng viên và người dân nâng cao được trình độ hiểu biết, giác ngộ mục tiêu, lý tưởng cách mạng; có ý chí quyết tâm hiện thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong đời sống thực tiễn.
Luôn luôn tự soi, tự sửa nhận thấy cái đúng để phát huy, cái sai để khắc phục; tự mình đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục chính trị về đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tạo sự hấp dẫn và nhu cầu tự tìm hiểu, nhận thức về những chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kịp thời rút kinh nghiệm, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục; cán bộ, đảng viên phải lắng nghe nhiều hơn nữa những thông tin ngược chiều, thông tin phản hồi từ quần chúng nhân dân; nắm bắt dư luận xã hội về những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với Đảng; nhu cầu đòi hỏi, những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn cần phải giải quyết để kịp thời điều chỉnh nội dung, hình thức, phương pháp của công tác tuyên truyền, giáo dục; không để xảy ra các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cơ quan, đơn vị.
Tăng cường kỷ luật, pháp luật, công khai, minh bạch, dân chủ trong quy hoạch, đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ, bảo đảm lựa chọn đúng người có đức, có tài, bố trí họ vào bộ máy lãnh đạo các cấp. Chủ động tiến hành công tác kiểm tra, giám sát nhằm ngăn ngừa, đẩy lùi tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Giữ gìn, củng cố đoàn kết, thống nhất trong Đảng, chống những biểu hiện cục bộ, địa phương, phe cánh, “lợi ích nhóm”. Kịp thời đấu tranh chống những kẻ cơ hội về chính trị, tham vọng về quyền lực trong nội bộ Đảng. Chủ động phát hiện và kiên quyết không để lọt vào tổ chức đảng những người mà bản lĩnh chính trị không vững vàng, không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng; có biểu hiện cơ hội chính trị, nói và làm trái Cương lĩnh, đường lối, nguyên tắc của Đảng; tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, vận động cá nhân, tư tưởng cục bộ, phe cánh, “lợi ích nhóm”, không dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ; mị dân, độc đoán, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, phê bình; mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng; tham nhũng, tiêu cực; không chịu nghiên cứu học hỏi, bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói không đi đôi với làm; ý thức kỷ luật kém, không chấp hành sự điều động, phân công của tổ chức; kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc, bản thân và vợ (chồng), con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính; có vấn đề về lịch sử chính trị hoặc chính trị. Bài học kinh nghiệm vô cùng đau xót từ việc xét xử ông Đinh La Thăng, Trinh Xuân Thanh và đồng phạm luôn nhắc nhở chúng ta về điều này.
Phát huy vai trò của đội ngũ nhà khoa học đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch; thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cần quan tâm đầu tư, xây dựng đội ngũ các nhà khoa học, nhất là cán bộ khoa học xã hội và nhân văn; tạo mọi điều kiện để họ phát huy vai trò và thể hiện sự tâm huyết, dũng khí đấu tranh, bản lĩnh chính trị vững vàng trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận; chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa./


Một số giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên hiện nay


Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Sự nghiệp đổi mới đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế có sự tác động từ nhiều mặt, bởi nhiều nhân tố, nên bên cạnh những thuận lợi cũng có không ít khó khăn, thách thức. Trong đó có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, một số cán bộ cao cấp đã có sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những hình thức, biểu hiện khác nhau như: phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc. Điều đó làm tổn hại đến uy tín, vị thế của Đảng, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”1. Gần 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) cho đến nay toàn Đảng đã xử lý kỷ luật khoảng hơn 73.000 cán bộ, đảng viên ở các cấp với các hình thức kỷ luật của Đảng; trong đó có cả cán bộ đảng viên giữ chứ vụ cao trong đảng “ ủy viên trung ưng đảng” phải xử lý bằng pháp luật của Nhà nước, điều đó cho thaays pháp luật đã không có vùng cấm, góp phần cảnh tỉnh, răn đe, ngăn chặn và đẩy lùi một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, bước đầu củng cố niềm tin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thế nhưng, “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn”2. Đảng đã chỉ ra 27 biểu hiện cụ thể để nhận diện sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đồng thời, khẳng định từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đây là cuộc đấu tranh làm trong sạch bộ máy rất cam go, quyết liệt, có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn vong của Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để cuộc đấu tranh này đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, đáp ứng nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay, đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị và kiên quyết, kiên trì thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức đảng các cấp.
Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đã nêu trên có một phần trách nhiệm không nhỏ của tổ chức đảng các cấp. Biểu hiện rõ ở việc nắm tình hình chưa chắc, chưa kịp thời, tính chiến đấu chưa cao của tổ chức đảng, cấp ủy các cấp; thậm chí nhận thức, thái độ chính trị của một số cấp ủy đảng về vấn đề này còn chưa thực sự đầy đủ và chưa quan tâm đúng mức. “Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"”3.
Do vậy, tổ chức đảng các cấp cần phải nhận thức rõ tác hại và tính chất quyết liệt, phức tạp của việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay. Từ đó xác định trách nhiệm chính trị, xây dựng quyết tâm cao, đề ra những biện pháp quyết liệt, thiết thực, cụ thể trong các hoạt động học tập, công tác, sinh hoạt ở mỗi cơ quan, đơn vị. Thông qua các hoạt động, kiểm điểm của cấp ủy đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải chỉ ra được các biểu hiện suy thoái đang tiềm ẩn hoặc đã xuất hiện ở cơ quan, đơn vị mình: từ sự phai nhạt về lý tưởng cách mạng đến những nhận thức lệch lạc, sai trái, thái độ thiếu tích cực, hành vi tiêu cực, cơ hội, tham nhũng, lãng phí và tác phong làm việc, sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử,… để có các biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi kịp thời, hiệu quả. Quán triệt và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức và hành động của mỗi tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện về tư tưởng, bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng. Phải luôn trung thành và đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc, nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.
Hai là, xác định rõ vai trò, phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Người đứng đầu cơ quan, đơn vị có thẩm quyền và trách nhiệm cao nhất trong mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị, nên có vai trò quan trọng đối với việc phòng, chống, ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, việc quy định trách nhiệm của người đứng đầu đối với vấn đề này chưa thật rõ, nhất là trách nhiệm khi để xảy ra các vụ việc tiêu cực trong cơ quan, đơn vị thuộc quyền, cũng như trách nhiệm trong xử lý thiếu kiên quyết, kém hiệu quả. Thực tiễn ở một số cơ quan, đơn vị hiện nay cho thấy, một số cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền để tham nhũng, làm ăn phi pháp, làm giàu bất chính nhanh, nhưng không được các cấp ủy đảng, người đứng đầu kiểm tra, làm rõ và xử lý kịp thời. Vì vậy, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của mọi lực lượng tham gia vào cuộc đấu tranh này, trước hết là người đứng đầu cấp ủy đảng, cơ quan, đơn vị. Theo đó, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải có quyết tâm chính trị cao, xác định đúng vai trò, vị trí, trách nhiệm, gương mẫu trong việc chấp hành đường lối, chỉ thị, hướng dẫn, quy chế, quy định của Đảng và Nhà nước; có tác phong làm việc khoa học, hiệu quả, sâu sát; có thái độ đúng mực trong giao tiếp, ứng xử, luôn lắng nghe, tiếp thu những ý kiến xác đáng của cấp dưới và nhân dân để điều chỉnh, hoàn thiện bản thân. Đồng thời, phải gắn vai trò, trách nhiệm của cán bộ chủ trì, người đứng đầu đối với các hoạt động của cơ quan, đơn vị, nhất là những hậu quả do sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống gây ra. Có như vậy, việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống mới đạt được hiệu quả và có tác dụng động viên, khích lệ, khuyến khích cán bộ, đảng viên khác học tập, làm theo.
Ba là, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy đảng, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân.
Thực tiễn cho thấy, lãnh đạo mà không có kiểm tra, giám sát thì lãnh đạo cũng bằng không, coi như không có hoạt động lãnh đạo. Nếu buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy đảng, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thì những tư tưởng chủ quan, đơn giản trong chấp hành đường lối của Đảng, pháp luật Nhà nước, quy định của cơ quan, đơn vị sẽ xuất hiện và các hiện tượng tiêu cực, lạc hậu cũng nảy sinh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”4. Câu nói của Người thật chí lý và còn nguyên giá trị đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Do vậy, cùng với việc xây dựng, hoàn thiện các văn bản, quy chế, quy định, các cấp ủy đảng cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Nội dung kiểm tra, giám sát phải toàn diện, cả về tư tưởng chính trị, động cơ, thái độ, năng lực công tác, phẩm chất đạo đức, lối sống và thu nhập, tài sản của cá nhân, gia đình cán bộ, đảng viên. Khi phát hiện thấy cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái hoặc giàu lên bất thường phải tiến hành kiểm tra, xác minh, làm rõ. Quá trình kiểm tra, giám sát phải phát huy sức mạnh tổng hợp của tổ chức đảng, các cơ quan chức năng và quần chúng nhân dân để có những thông tin đầy đủ, chính xác; kiên quyết khắc phục bệnh “hình thức”, làm chiếu lệ. Cùng với đó, phải rà soát, nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở; thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức đối thoại, lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, nhằm kịp thời phát hiện và ngăn chặn có hiệu quả các hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đặc biệt, phải phát huy tốt vai trò của cơ quan truyền thông, báo chí và dư luận xã hội trong đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; đồng thời, có cơ chế khen thưởng thỏa đáng và biện pháp thích hợp bảo vệ các tập thể, cá nhân tích cực tham gia cuộc đấu tranh này. Khi phát hiện thấy những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở cơ quan, đơn vị mình, phải nhanh chóng làm rõ và kiên quyết đấu tranh, xử lý; tránh tình trạng chỉ “kiểm điểm”, “rút kinh nghiệm” hoặc “xử lý nội bộ”, làm mất niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào hiệu quả cuộc đấu tranh này
Bốn là, tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”5. Do vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình; đồng thời, phải tự thấy day dứt, hổ thẹn với những nhận thức lệch lạc và việc làm chưa đúng của mình. Khi thấy những hiện tượng tiêu cực, lạc hậu nảy sinh ở cơ quan, đơn vị mình, phải thể hiện rõ thái độ bất bình, dũng cảm đấu tranh. Mọi sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm hoặc nể nang, né tránh không dám đấu tranh cũng đồng nghĩa với việc dung túng, bao che cho tiêu cực, lạc hậu, để chúng có điều kiện nảy sinh, tồn tại và phát triển. Đối với tổ chức đảng các cấp, một mặt phải tăng cường công tác giáo dục, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về chính trị, năng lực công tác và phẩm chất đạo đức, lối sống; mặt khác, phải khắc phục triệt để những hạn chế, bất cập, nhất là trong quy hoạch, nhận xét, bổ nhiệm, đề bạt đội ngũ cán bộ hiện nay.
Môi trường họat động của Quân đội có tính chất đặc thù, luôn đặt ra những yêu cầu cao đối với người quân nhân cách mạng, nhất là cán bộ, đảng viên không chỉ về trình độ, kiến thức, năng lực quân sự, quốc phòng, sức khỏe, mà còn đòi hỏi cao trước hết về phẩm chất và bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, nhằm làm cho Quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Do vậy, tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho mỗi cán bộ, đảng viên gắn với thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII), Chỉ thị 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” sẽ trực tiếp góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của Quân đội, bảo đảm cho Quân đội ta luôn là lực lượng tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

LÝ DO KHIẾN NHIỀU NGƯỜI TRỞ THÀNH NẠN NHÂN CỦA “HỘI THÁNH ĐỨC CHÚA TRỜI”




Thời gian gần đây, cái tên “Hội thánh Đức Chúa Trời” liên tục được nhắc đến với những mặt tiêu cực. Chỉ vì tin vào loại “tà đạo” này, nhiều người đã đập bỏ bàn thờ ông bà, tổ tiên, gia đình rơi vào cảnh tan cửa nát nhà; sinh viên, học sinh bỏ học, bỏ làm để đi theo tà đạo, tụ tập dụ dỗ, lôi kéo người khác, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự và làm những điều trái với thuần phong mỹ tục.
Quá nhiều gia đình lâm vào cảnh ly tán, giới trẻ đánh mất tương lai? Thế nhưng, đâu là lý do “Hội Thánh Đức Chúa Trời” có thể dụ dỗ nhiều đối tượng tham gia và khiến họ mê muội, mất hết lý trí như vậy?
Đánh vào tâm lý muốn thoát nghèo, thoát khổ của nhiều người
Những thành viên nằm trong “Hội Thánh đức Chúa trời” thường đến trường học, công viên… lân la làm quen, khéo léo tiếp cận tìm hiểu gia cảnh của từng người, đánh vào tâm lý muốn thoát nghèo, thoát khổ của nhiều người để lôi kéo họ tham gia Hội.
Họ thường lợi dụng vào tâm lý “nhẹ dạ cả tin”, hướng đến những đối tượng như phụ nữ, trẻ em, sinh viên, những người có hoàn cảnh éo le, bất hạnh trong cuộc sống để tuyên truyền.
Thậm chí, các đối tượng này còn phản bác những lời răn dạy của bố mẹ, anh chị em trong gia đình, bởi những lời răn dạy đó là lời của ma quỷ. Chính vì thế, để toàn tâm, toàn ý theo đạo thì nên gạt bỏ mối quan tâm với gia đình sang một bên.Trong quá trình “truyền đạo”, các đối tượng này cố tình reo rắc luận điệu, bố mẹ hiện tại của chúng ta chỉ là phần thân xác, cha mẹ thực sự là phần linh hồn. Nếu một lòng đi theo Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ được bố mẹ phần linh hồn cứu rỗi khỏi các biến cố của cuộc sống, khi chết đi sẽ được lên thiên đàng, được hưởng hạnh phúc.
Từ ngon ngọt dụ dỗ đến đe dọa bị trừng phạt
Bằng cách tiếp cận, động viên, dùng lời lẽ ngon ngọt, họ nhanh chóng lấy được niềm tin của mọi người. Tại các buổi hội thảo, làm lễ, họ tuyên truyền rằng “sắp đến ngày tận thế”, phải tích cực đi truyền đạo mới được hưởng cuộc sống hạnh phúc trên thiên đàng.
Ngoài ra, các đối tượng này sẽ cho “con mồi” của mình “ăn thịt, uống máu” Đức Chúa Trời, trong đó thịt là bánh mỳ, còn máu là một thứ nước màu đỏ khiến nhiều người rơi vào trạng thái không tỉnh táo (qua kiểm chứng ban đầu thứ nước màu đỏ này hợp chất pha trộn của ma túy tổng hợp, gây ảo giác và co giật).
Đối với những ai có ý định bỏ ngang, những thành viên thuyết giảng sẽ dùng những hình phạt như “nằm trong chảo dầu”, “bị đày đọa đau khổ” khi chết khiến những “con mồi” nhẹ dạ sợ hãi và nghe lời răm rắp.
Thực hiện các hoạt động có ích nhằm đánh lừa những người “nhẹ dạ”
Không chỉ có những tác động về tâm lý, nhiều kẻ cầm đầu còn có những chiêu thức tinh vi hơn như thực hiện các hoạt động hỗ trợ về kinh tế như: thuê nhà cho sinh viên ở các tỉnh xa, hỗ trợ tiền sinh hoạt… nhằm chiếm được lòng tin, sau đó, lôi kéo các sinh viên này tham gia Hội.
Thậm chí, một số người cầm đầu các Sion còn đưa ra những mức thưởng bằng vật phẩm, hoặc tiền cho những ai lôi kéo được những người thân, bạn bè, hàng xóm tham gia vào hội. Nếu ai lôi kéo được nhiều người còn được phong chức “Thánh Cứu Rỗi” để tiếp tục giảng đạo cho những người mới.
Đánh vào tâm lý sợ hãi của các hội viên, những đối tượng chủ chốt luôn miệng đe dọa những người có ý định rời bỏ Hội là kẻ phản bội, phải bị xử tử, chết không được siêu thoát…
Bất kì ai, ngành nghề gì đều có thể bị Hội này lôi kéo
Trao đổi với PV, chuyên gia tâm lý Nguyễn An Chất cho hay, ông đã biết đến thông tin về “Hội thánh đức chúa trời” ở TP.HCM từ cách đây khoảng 2 tháng. Theo đó, nhiều người sẵn sàng bỏ bê cuộc sống thật để tham gia vào tổ chức này và chạy theo những điều rất ảo.
Đáng nói, “mục tiêu” của những hội này hướng vào nhiều thanh niên, sinh viên và các gia đình, những người nhẹ dạ cả tin, mê tín dị đoan.
“Chiêu bài của tổ chức này đánh khá trúng vào tâm lý bất thường của một số người dân, người đang có suy nghĩ sai lầm trong đời sống hằng ngày. Kể cả đó là những người có học vấn, tri thức nhưng có thể trong đời sống đang vấp phải điều gì đó, mong muốn giải thoát cho mình nhưng họ lại chọn cách đi theo con đường mê tín chứ không phải là khoa học. Và họ gọi đó là tâm linh, nhưng thực ra đó là mê tín”, ông Chất nói.
Theo chuyên gia này, việc nhiều người bị lôi kéo và sẵn sàng chạy theo những điều sai lệch là do bản thân họ đã có những mê tín, đang gặp vấn đề nào đó và gặp phải những điều này đánh trúng vào tâm lý nên cảm thấy hay, thấy tốt và tin theo.