Thứ Hai, 20 tháng 6, 2016

Bộ mặt thật của Việt tân




Khi bộ mặt thật của hình thức “đấu tranh dân chủ” bị vạch trần, không còn là con bài hiệu nghiệm, đồng thời chứng kiến thành công của mô hình “xã hội dân sự” đã lật đổ chế độ chính trị ở một số quốc gia Đông Âu, Trung Đông bằng cái gọi là “Cách mạng cam”, “Mùa xuân Ả rập”... Việt Tân và các tổ chức ngoại vi của mình bắt đầu chuyển sang hình thức này nhằm che đậy bản chất khủng bố của mình, để qua mặt các tổ chức quốc tế, cũng như những quy định ràng buộc của Liên hợp quốc.
 Một số tổ chức tự xưng hoạt động trong lĩnh vực xã hội dân sự được tay chân Việt Tân đội lốt “nhà đấu tranh dân chủ” trong nước lập ra như “Mạng lưới blogger Việt Nam”, “Hội anh em dân chủ”, “Quỹ tù nhân lương tâm”, “Hội bầu bí tương thân”… Các tổ chức này được dựng lên một phần dùng để chiêu dụ những người cả tin đồng thời vẽ ra các dự án nhằm xin quỹ từ nước ngoài. Với những dự án như tổ chức vận động nhân quyền (dã ngoại nhân quyền, café nhân quyền…),  thúc đẩy truyền thông “lề trái”... đều được lên kế hoạch tỉ mỉ từ khâu “chế biến” nhân sự, chi phí để đi xin tiền. Các tổ chức này không hề thúc đẩy cho xã hội dân sự lành mạnh tại Việt Nam, mà ngược lại còn làm sai lệch cách hiểu của xã hội dân sự thành tổ chức chính trị chống đối bên ngoài hệ thống nhà nước.
Một cách khác được Việt Tân đẩy mạnh sử dụng là thao túng những nhân vật cầm đầu các hội nhóm “chống đối tự phát”, như No-U, Hoàng Sa, Diễn đàn Xã hội dân sự… Việt Tân thường gợi ý, giúp những nhóm này tìm ngân quỹ từ nước ngoài, công khai “ràng buộc” các thành viên cốt cán rồi tung hê trên mạng như khẳng định về “thành công”, thực lực trong nước. Mới đây, đại diện Công an TP.HCM cho biết cơ quan chức năng đã xác định Việt Tân liên quan tới sự việc tụ tập đông người ở khu vực trung tâm thành phố trong các ngày 1 và 8.5.2016. Tổ chức này đã phối hợp chặt chẽ với đầu mối trong nước lợi dụng chiêu bài “bảo vệ môi trường” để kích động tụ tập, làm phức tạp tình hình an ninh trật tự, phá hoại kinh tế.
Tuy nhiên, những thủ đoạn mới này cũng nhanh chóng bị chính cộng đồng  người Việt hải ngoại và thậm chí những nhóm chống đối chính trị khác lên án và cảnh báo công khai. Theo họ, Việt Tân và chân rết của mình đã “làm hỏng những ý nghĩa tốt đẹp của xã hội dân sự”, tức bằng những thủ đoạn, chiêu trò của một tổ chức bản chất là giống mafia. Bản chất gốc của các tổ chức xã hội dân sự không phải để đấu tranh chính trị hay lật đổ, chống đối mà là để thẩm định chất lượng quản trị đất nước của chính phủ, trở thành kênh vận động và kết nối thông tin giữa người dân và chính quyền. Tuy nhiên, do tính chất khó phân biệt giữa cơ chế xã hội và đấu tranh chính trị nên các tổ chức chống chính quyền cực đoan lợi dụng xã hội dân sự như quân bài chiến lược để làm vỏ bọc và thu hút đám đông.
Do các quy định chặt chẽ của Liên Hiệp Quốc, các “quỹ dân chủ” không thể rót tiền cho các đảng phái chống đối, kêu gọi lật đổ chính phủ một nước. Bởi thế, Việt Tân không thể nhận tiền hỗ trợ trực tiếp từ các quỹ này trong khi ngân quỹ ngày càng eo hẹp vì bị cộng đồng tẩy chay, vạch mặt. Các tổ chức ngoại vi không thể xin tiền từ bà con hải ngoại dễ như trước, nhất là trong bối cảnh suy thoái kinh tế. Việt Tân chỉ có con đường duy nhất là núp bóng các tổ chức xã hội dân sự. Nhân sự các “tổ chức xã hội dân sự” này khá quen thuộc vì những tuyên bố, hành động chống đối trên mạng ảo lẫn đời thật và mỗi người thường nằm trong nhiều tổ chức cùng lúc.
Tuy nhiên, dù vỏ bọc có tinh vi đến đâu thì người dân VN đều dễ dàng nhìn ra bản chất của Việt Tân, luôn đề cao cảnh giác, không lung lạc hoặc nghe theo các luận điệu kích động, tăng cường ý thức bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ sự bình yên cho cộng đồng./.

Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân




          Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, có tôn giáo du nhập từ bên ngoài vào, có tôn giáo nội sinh. Trong những năm qua tôn giáo ở Việt Nam phát triển phong phú và đa dạng làm cho tình hình tôn giáo ở Việt Nam có nhiều thay đổi. Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, hiện nay ở nước ta có 37 tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước cấp đăng ký hoặc công nhận về tổ chức và 01 pháp môn tu hành; có trên 22 triệu tín đồ các tôn giáo, chiếm hơn 25% dân số cả nước, với trên 85.000 chức sắc, nhà tu hành và hơn 26.000 cơ sở thờ tự phân bố trên khắp các tỉnh, thành phố.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, nhất quán về tôn giáo và công tác tôn giáo, như: Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị (khóa VI); Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về “Công tác tôn giáo”. Chính phủ có Nghị định số 22/NĐ-CP ngày 01/3/2005 Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày 04/2/2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin Lành,… nhiều tỉnh, thành phố đã chủ động xây dựng Nghị quyết chuyên đề về công tác tôn giáo, thành lập Ban chỉ đạo công tác tôn giáo để chỉ đạo thống nhất trong hoạt động. Nhận thức về công tác tôn giáo của cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ quan quản lý các cấp được nâng lên ngang tầm đòi hỏi của thực tiễn. Đã vận dụng linh hoạt các biện pháp trong xử lý những vấn đề liên quan đến tôn giáo gắn với hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương; giải quyết tương đối kịp thời các nhu cầu chính đáng về sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào; tạo điều kiện giúp đỡ các giáo hội, chức sắc sinh hoạt tôn giáo đúng pháp luật…
Với những chính sách và quan điểm đúng đắn trên, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào tôn giáo những năm qua được nâng lên rõ rệt. Đa số chức sắc, chức việc, tín đồ phấn khởi, tin tưởng trước những thành tựu đổi mới của đất nước; tín đồ các tôn giáo đã phát huy truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo, hăng hái tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và củng cố quốc phòng, đảm bảo an ninh trật tự, góp phần làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
Tuy nhiên, giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo ở mỗi nước trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng luôn là một lĩnh vực khó khăn, phức tạp và lâu dài. Trong khi đó, các thế lực phản động trong và ngoài nước luôn xem đây là “mặt trận thuận lợi”, là “cửa ngõ”, “ngòi nổ” và là “mảnh đất màu mỡ” để thúc đẩy thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, âm mưu bạo loạn lật đổ với cách mạng nước ta trong tình hình mới. Dã tâm đó của chúng có thể điểm mặt, kể tên với một số hành động cụ thể:
Một là, trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch luôn khẳng định: dân tộc và tôn giáo là hai vũ khí có khả năng đánh gãy xương sống của Cộng sản. Vì vậy, lợi dụng xu thế toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập quốc tế cũng như thông qua hoạt động tài trợ kinh tế, từ thiện, các tổ chức phản động ngoài nước đã tích cực chuyển tài liệu tôn giáo có nội dung phản động vào trong nước với mục đích xuyên tạc bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa, vu khống về chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước nhằm tạo cớ can thiệp sâu vào công việc nội bộ nước ta. Đồng thời, chúng đẩy mạnh các hoạt động gây dựng lực lượng chống đối ở trong nước nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất ổn định chính trị - xã hội, tạo dựng những nhân tố tiến tới chuyển hoá chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Cụ thể hóa hoạt động phá hoại này, chúng đã liên tục bơm những dòng tiền nhằm hỗ trợ, mua chuộc và dựt dây, chống lưng ủng hộ những phần tử “cơ hội chính trị”, những người có tư tưởng bất mãn, cực đoan, quá khích trong một số cộng đồng tôn giáo để kích động tâm lý mặc cảm, tư tưởng ly khai, chống đối trong đồng bào có đạo và đồng bào dân tộc thiểu số. Chúng ra sức đẩy mạnh vieech xuyên tạc, vu cáo Đảng và Nhà nước ta vi phạm nhân quyền, vi phạm tự do tôn giáo, khủng bố, đàn áp, bắt giam, ngăn cản hoạt động tôn giáo của các tín đồ... nhằm tạo ra sự nhiễu loạn thông tin, thực hiện việc đánh lận con đen khiến cho đồng bào có đạo hoang mang dao động, khó phân biệt giữa thật - giả, đúng - sai… Từ đó, tạo khoảng trống trong tư tưởng để lôi kéo, kích động quần chúng tín đồ chống đối chế độ, tham gia hoạt động biểu tình, gây rối hòng tạo ra những “điểm nóng” về chính trị để lấy cớ kêu gọi sự can thiệp từ “bên ngoài”.
Hai là, chúng âm mưu thúc đẩy sự liên kết hoạt động giữa các tôn giáo (liên tôn); phối hợp chặt chẽ với các lực lượng phản động, cơ hội chính trị trong nước để tạo dựng ngọn cờ, hình thành lực lượng đối lập, làm “đối trọng” với Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam (Đây cũng là thủ đoạn đã từng được các thế lực phản động quốc tế chống chủ nghĩa cộng sản sử dụng thành công ở một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cuối thế kỷ XX); đẩy mạnh phát triển các hội đoàn tôn giáo, làm sầm uất xứ đạo, khuyếch trương thanh thế, kết hợp với tăng cường truyền đạo trái phép, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ để tập hợp lực lượng và dẫn dắt đồng bào thực hiện mưu đồ chính trị phản động của chúng.
Nổi bật trong thủ đoạn trên, trong những năm vừa qua, trên địa bàn Tây Bắc và Tây Nghệ An, các thế lực thù địch đã ráo riết thực hiện mưu đồ lập ra đạo “Vàng Chứ” để thành lập cái gọi là “Vương quốc Mông tự trị”. Vùng Tây Nguyên, chúng đòi thành lập đạo Tin Lành Đềga với mưu toan là cơ sở cho ý đồ thành lập “Nhà nước Đề-ga độc lập”. Ở Tây Nam Bộ, nơi có đông đồng bào Khơ me sinh sống, chúng chủ trương dựng nên “Nhà nước Khơ me Krôm” với luận điệu vu khống Nhà nước ta đàn áp hệ Phật giáo Nam tông Khơ me Nam Bộ. Đây là thủ đoạn rất nham hiểm, trắng trợn của các thế lực thù địch hòng phá hoại an ninh quốc gia, đe dọa độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Ba là, bằng nhiều thủ đoạn và chiêu trò thâm hiểm, xảo quyệt, chúng từng bước xúc tiến việc nắm quyền điều khiển các tổ chức tôn giáo để biến những tổ chức này thành các tổ chức chính trị, đảng chính trị để làm chỗ dựa, “núp bóng” cho các hoạt động phá hoại và mưu đồ phản động của chúng. Họ triệt để lợi dụng vỏ bọc tôn giáo để phê phán, xuyên tạc, bôi nhọ hòng hạ thấp uy tín của Đảng và Nhà nước ta. Lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, họ đòi tôn giáo phải độc lập, không chịu sự quản lý của Nhà nước; tâng bốc, ca ngợi “tự do tôn giáo” ở các nước tư bản; yêu cầu Nhà nước ta “công nhận” hoạt động của các tổ chức tôn giáo giả hiệu như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Tin lành Đề-ga, Vàng Chứ, đạo Hà mòn,…; đòi thả các “tù nhân tôn giáo” - những kẻ đội lốt tôn giáo để vi phạm pháp luật; kêu gọi Chính phủ Mỹ đưa Việt Nam vào “danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo”, v.v.
Những hoạt động trên của các thế lực thù địch là hết sức thâm độc và nguy hiểm xét cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, Nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa IX) về Công tác tôn giáo đã nêu rõ quan điểm: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đã, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đảng, Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về “Tín ngưỡng, tôn giáo”, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật.

Đừng lợi dụng những khó khăn trong đời sống xã hội để chống phá cách mạng việt nam




Hiện nay, bất cứ một khó khăn, phức tạp gì trong đời sông xã hội ở nước ta thì các thế lực thù địch, phản động đều triệt để tìm cách lợi dụng, xuyên tạc, vu khống, chống phá bằng mọi thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt. Mục đích của chúng nhằm xuyên tạc bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa; phủ nhận những thành quả cách mạng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta thiếu quan tâm đến đời sống của nhân dân.
Chúng ta đều biết rằng, những khó khăn, phức tạp nảy sinh trong đời sống xã hội là tất yếu đối với tất cả các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Ngay cả những nước phát triển trên thế giới thì tình trạng thất nghiệp, khủng bố, tội phạm, tệ nạn xã hội, phân biệt giàu nghèo, ô nhiễm môi trường vẫn xảy ra hằng ngày, hằng giờ.
Trong công cuộc đổi mới phát triển đất nước hiện nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang ra sức và quyết tâm khắc phục những khó khăn, loại trừ các tiêu cực trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, những vấn đề khó khăn, phức tạp trong xã hội ta đang bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để chống phá. Chúng sử dụng các phương tiện truyền thông làm công cụ đưa tin sai sự thật bằng cách thổi phồng, cắt xén, nhào nặn làm “nóng” các vấn đề của đất nước, làm cho người dân có cái nhìn thiên lệch về những gì đang diễn ra trong đời sống xã hội, dẫn đến hoài nghi, mơ hồ, thiếu niềm tin vào sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó,  tạo bức xúc, nghi ngờ, bất bình trong công chúng, kích động gây rối, bạo loạn lật đổ. Bên cạnh đó, chúng tiếp cận với những người nhận thức non yếu, hạn chế, có hoàn cảnh khó khăn hoặc có tư tưởng búc xúc về một số vấn đề, để dần dần nhồi nhét bằng những câu chuyện bịa đặt, chu cấp tiền bạc hoặc hứa hẹn, rồi tạo ra những “con rối”, giao những nhiệm vụ cụ thể cho ý đồ chống đối, gây rối chính trị…Vừa qua, trong khi các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương, các tổ chức chính trị xã hội và các doanh nghiệp cùng người dân cả nước đang hướng về “khúc ruột” miền Trung để sẻ chia, đồng cảm  với hiện tượng cá chết thì tổ chức phản động lưu vong Việt Tân đã phối hợp chặt chẽ với đầu mối trong nước lợi dụng chiêu bài “bảo vệ môi trường” để kích động tụ tập, làm phức tạp tình hình an ninh trật tự, phá hoại kinh tế. Nỗi đau của biển, thiệt hại của bà con ngư dân, khó khăn chung của đất nước một lần nữa lại trở thành cái cớ cho những mưu đồ đi ngược lại lợi ích dân. Hãy chung sức vì cộng đồng chứ đừng lợi dụng những khó khăn của đất nước để chống đối cách mạng

Sự phi lý của quan điểm đòi “phi chính trị hóa” quân đội đã bị thực tiễn bác bỏ





Nghiên cứu lịch sử nhân loại, ai cũng biết rằng, sự xuất hiện của quân đội gắn liền với chính trị, sự ra đời của nhà nước và chiến tranh; không thể có và không bao giờ có quân đội trung lập, đứng ngoài chính trị. 
Về bản chất, quân đội bao giờ cũng là công cụ bạo lực của một giai cấp, nhà nước và đảng phái chính trị, do nhà nước, đảng phái chính trị nuôi dưỡng, sử dụng để tiến hành đấu tranh vũ trang, thực hiện mục đích chính trị của giai cấp, nhà nước đã tổ chức ra và nuôi dưỡng nó. 
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, quân đội là công cụ bạo lực của giai cấp tư sản có nhiệm vụ bảo vệ nhà nước tư sản và lợi ích của giai cấp tư sản.
Hiện nay, các nước tư bản chủ nghĩa thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cuộc đấu đá, tranh giành quyền kiểm soát cơ quan quyền lực nhà nước giữa các đảng phái chính trị tư sản diễn ra hết sức quyết liệt, phức tạp. 
Quan điểm: “quân đội chỉ tuân theo pháp luật”, “quân đội phải trung lập đứng ngoài chính trị” được những người đứng đầu các đảng phái chính trị tư sản ra sức cổ vũ tán đồng. Thực chất các đảng phái chính trị tư sản muốn quân đội phải đứng ngoài cuộc đấu tranh chính trị tranh giành quyền kiểm soát cơ quan quyền lực nhà nước của các đảng phái chính trị tư sản. 
Có thể hiểu rõ hơn nhận định này từ thực tiễn tranh giành quyền lực của Thái Lan hơn 70 năm qua với việc quân đội đã thực hiện 19 lần đảo chính và âm mưu đảo chính.
Ở các nước tư bản phát triển như Anh, Pháp, Mỹ..., quân đội không chỉ được dùng vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc; mà còn được dùng vào việc lật đổ, can thiệp quân sự, xâm lược các quốc gia khác nhằm mục tiêu chính trị là dựng lên ở nơi chúng đến các chính phủ thân phương Tây, có lợi cho phương Tây. 
Thực tế chỉ ra rằng, từ năm 1990 đến nay, quân đội Mỹ liên tục can dự vào đời sống chính trị của nhiều nước có độc lập chủ quyền kể cả tiến hành chiến tranh ở Nam Tư, Afghanistan, Iraq, Libya, Syria...
Rõ ràng, nhìn vào thực tiễn lịch sử thế giới cho thấy, quân đội của các nước tư bản không bao giờ “trung lập về chính trị”.
Ở các nước có chế độ đa đảng chính trị thì đảng nào khi cầm quyền cũng đều tìm mọi cách để nắm giữ quân đội và triệt để sử dụng quân đội để bảo vệ lợi ích của mình. 
Sự kiện Tổng thống Liên bang Nga B.Yelsin đã dùng quân đội nã pháo vào tòa nhà quốc hội ngày 4/10/1993, nơi đang có những người chống đối B.Yelsin ẩn nấp để giải quyết sự đối đầu và mâu thuẫn giữa ông ta với quốc hội đã nói lên điều đó.
Bài học xương máu rút ra từ sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là bất luận trong điều kiện hoàn cảnh nào, Đảng Cộng sản cũng không được rời bỏ nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị của chủ nghĩa M ác-Lênin; tuyệt đối không được mắc sai lầm trong việc xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội; không được để quân đội bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa. 
Thực tiễn không chỉ là cơ sở, nền tảng của nhận thức, mục đích của nhận thức mà còn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. 
Hẳn là những người cuồng nhiệt đòi “phi chính trị hóa” quân đội ở nước ta không phải là không biết câu chuyện nêu trên. Thực tiễn đã và đang bác bỏ những sai lầm của họ vì nó rất phi lý, nhảm nhí.
                                                                            

Lại “bình cũ, rượu mới”




Sau thành công của Đại hội Đảng lần thứ XII và bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XIV, các thế lực cơ hội, thù địch tiếp tục đưa ra luận điệu độc đảng là độc tài, độc đoán, là thủ tiêu dân chủ, thủ tiêu động lực phát triển đất nước. Họ hung hăng nêu ra thuyết “Đảng trị” với ý đồ xấu xa: xóa bỏ sự lãnh đạo của ĐCSVN, xóa bỏ mục tiêu ĐLDT gắn liền CNXH mà các thế hệ người Việt Nam đã hy sinh biết bao xương máu mới giành lại được, đã và đang phấn đấu xây dựng. Thuyết này dựa vào lý luận rất bài bản của quan điểm chống cộng khét tiếng mang tên “Toàn trị” được trường phái Phrăng Phuốc nêu ra vào những năm 80 của Thế kỷ XX. Theo quan điểm này, những thế lực chính trị một khi đã khống chế toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng của đời sống xã hội thì sẽ dẫn đến “chủ nghĩa Toàn trị”. Theo đó, sẽ dẫn đến độc tài, phátxít, mất dân chủ, bóp nghẹt tự do và dẫn đến thảm họa. Đảng Cộng sản là đảng theo “chủ nghĩa Toàn trị”. Chúng lặp đi, lặp lại: một đảng lãnh đạo là dẫn tới chế độ “Đảng trị” gây tai họa cho xã hội; mô tả Đảng ta có “một bộ máy đã tạo nên một xã hội không có tự do dân chủ”, “một bộ máy độc đoán, độc tài, toàn trị”, “đầy tham nhũng, phản dân chủ”; độc đảng thì kéo theo nhiều thứ “độc”: độc tài, độc đoán, độc quyền. Họ kết tội Đảng: “Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam là tổng hợp các tội ghê tởm của Tần Thủy Hoàng và các vua quan tàn bạo của Trung Quốc, cộng với tội ác của chế độ phátxít, độc tài”. Có phần tử cơ hội chính trị lại chứng minh rằng sự lãnh đạo một đảng ở Việt Nam mâu thuẫn với triết học Mácxít, bởi vì theo Mác, thượng tầng kiến trúc phản ánh cơ sở hạ tầng. Khi nền kinh tế Việt Nam đã phát triển kinh tế nhiều thành phần, thì đương nhiên thượng tầng kiến trúc phải chuyển sang chế độ đa đảng. Họ cho rằng chỉ có chế độ đa đảng thì người lãnh đạo mới “chính đảng”. Theo họ nền dân chủ tư sản phương Tây mới là một nền dân chủ lý tưởng.
Đó là những quan điểm sai trái. Họ nên biết rằng: Sự lãnh đạo độc tôn của Đảng không đồng nghĩa với lộng quyền. Trong những năm đổi mới, các dự thảo nghị quyết của Đảng về các vấn đề quan trọng đều được đưa ra lấy ý kiến của Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội, được đăng tải trên các báo chí để lấy ý kiến của các tầng lớp nhân dân cả trong và ngoài nước; có khi phải trải qua cả 5 - 7 lần dự thảo mới đưa ra Hội nghị Trung ương bàn và ra nghị quyết chính thức. Không có chuyện không ai được thảo luận.
Phát huy dân chủ chính là mục tiêu, đồng thời là động lực của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Tuy nhiên, dân chủ không thể tách rời luật pháp. Nề dân chủ XHCN không thể tách rời việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Dân chủ còn phải gắn với dân trí, trình độ học vấn.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhưng điều này không có nghĩa là sẽ dẫn đến đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, không chỉ phụ thuộc vào kinh tế, mà còn phụ thuộc vào một loạt các yếu tố khác, như: Tương quan so sánh lực lượng giai cấp, vai trò của đảng cầm quyền, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, truyền thống lịch sử... Chế độ một đảng hay đa đảng không phải là dấu hiệu của dân chủ hay không dân chủ. Đa nguyên chính trị trong xã hội tư bản, biểu hiện thành đa đảng, các đảng đều có quyền tự do tranh luận, ứng cử, tranh cử... Nhưng về thực chất, cũng chỉ là nhất nguyên chính trị, vì tất cả các đảng này đều từ một nguồn gốc, một mục đích là thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp tư sản, chứ không phải thực hiện quyền của đa số nhân dân lao động. Dân chủ hay không là ở chỗ: nhà nước có thực sự là của dân, do dân, vì dân, có thực sự vì lợi ích của nhân dân hay không.
Qua 30 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn về kinh tế, chúng ta cũng đã đạt được những thành tựu quan trọng về phát huy dân chủ của nhân dân. Nền dân chủ xã hội có bước khởi sắc, sinh hoạt xã hội cởi mở hơn. Các hình thức dân chủ cả gián tiếp và trực tiếp từng bước được mở rộng. Quy chế dân chủ ở cơ sở được thực thi. Hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp được đổi mới theo hướng ngày càng phản ánh được tiếng nói, nguyện vọng của nhân dân. Báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng bám sát thực tiễn đời sống, phản ánh kịp thời các vấn đề bức xúc của đời sống xã hội... Những thành tựu về phát huy dân chủ đó, cho thấy Đảng ta thường xuyên coi trọng việc phát huy quyền dân chủ của nhân dân; mở rộng dân chủ đi đôi với thiết lập kỷ luật, kỷ cương phép nước.

Phê phán luận điểm sai lầm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”




Từ sau thời kỳ Chiến tranh lạnh, đế quốc Mỹ và một số nước phương Tây tung ra nhiều luận thuyết mới cực kỳ kỳ quặc, trong đó đáng chú ý là luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”. Thậm chí, họ còn ngang nhiên tuyên bố: “những nước phi dân chủ và không quan tâm đến việc tôn trọng nhân quyền đều không được coi là những nước có chủ quyền”!? Luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền” được các thế lực hiếu chiến, phản động sử dụng như một cơ sở để đề ra các chính sách xâm lược, can thiệp quân sự vào các nước khác và biện minh cho các hành động xâm lược, can thiệp quân sự mà họ đã tiến hành đối với nhiều quốc gia, dân tộc trong những thập kỷ qua.
Vậy phải chăng ngày nay, “nhân quyền cao hơn chủ quyền” và “quyền con người” cao hơn chủ quyền thiêng liêng của quốc gia? Đây là những vấn đề mới về mặt lý luận cũng như thực tiễn cần được làm sáng tỏ.
Thực ra luận điểm trên chỉ là một hình thức biến tướng của chủ nghĩa thực dân mới. Bởi vì trước đây, để mở rộng thuộc địa, các nước đế quốc thường sử dụng phương thức cổ điển là đánh thành và chiếm đất. Còn ngày nay, họ trắng trợn can thiệp vào nội bộ các nước có chủ quyền bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn và hình thức khác nhau, không hẳn vì mục đích xâm chiếm lãnh thổ mà vì muốn áp đặt quan niệm “nhân quyền” của mình đối với quốc gia, dân tộc khác. Cần phải nói ngay rằng, những người đưa ra và cổ súy cho luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, hay “nhân quyền toàn cầu”, “nhân quyền không biên giới”, ngay từ đầu họ đã cố tình hoặc lảng tránh một lẽ đơn giản là, trên thế giới không thể có một con người nào sống ngoài cộng đồng quốc gia, dân tộc; càng không có cái thế giới tồn tại mà không cần rạch ròi biên giới giữa các quốc gia. Họ cũng bỏ qua một sự thật hiển nhiên là, thời đại mà chúng ta đang sống có hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, hàng nghìn dân tộc khác nhau, theo những tôn giáo khác nhau và có truyền thống văn hóa khác nhau. Trong các quốc gia và vùng lãnh thổ đó, con người thuộc các chế độ chính trị - xã hội khác nhau, cùng một lúc chịu sự tác động của hai mối quan hệ: quan hệ về nhân quyền và quan hệ về chủ quyền quốc gia. Quan hệ nhân quyền là quan hệ về cá nhân, còn quan hệ chủ quyền quốc gia là quan hệ cộng đồng các cá nhân trong quốc gia đó. Hai mối quan hệ cơ bản của con người là nhân quyền và chủ quyền quốc gia không cùng một bậc, không cùng một tuyến tiếp cận, và do đó, không thể đem so sánh cái này cao hoặc thấp hơn cái kia. Việc quy chủ quyền quốc gia về cùng một bậc với nhân quyền, rồi coi “nhân quyền” cao hơn “chủ quyền” là một việc làm khiên cưỡng, không lôgíc, phản khoa học và thiếu tính thuyết phục. Đó là một sai lầm về mặt phương pháp luận, một sự sai lầm từ gốc, nếu không nói đó là một sự đánh tráo khái niệm rất thô thiển, trắng trợn, có dụng ý xấu về chính trị.
Trong Khoản 2, Điều 4 và Khoản 2, Điều 7 của Hiến chương Liên Hợp quốc đã khẳng định những nguyên tắc cơ bản về tôn trọng và đảm bảo sự bình đẳng về chủ quyền quốc gia. Tuyên bố của Hội nghị thế giới về Nhân quyền tại Viên (Áo) ngày 25-6-1993 ghi rõ: “Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Với quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do theo đuổi con đường phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của mình” Cộng đồng quốc tế đã có những Tuyên ngôn và Công ước về nhân quyền, trong đó có những chuẩn mực nhân quyền đòi hỏi tất cả các nước phải tuân theo. Ngoài ra, không một quốc gia nào được lấy Hiến pháp, pháp luật của mình để khống chế, áp đặt tiêu chuẩn và quan niệm nhân quyền cho nước khác, càng không thể lấy đó để tạo cớ can thiệp thô bạo hoặc xâm phạm chủ quyền của một quốc gia, dân tộc khác dưới bất cứ hình thức nào.
Đối với người Việt Nam, nhân quyền trước hết là quyền dân tộc tự quyết, dân tộc độc lập. Truyền thống cộng đồng, truyền thống dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm, cũng như kinh nghiệm cách mạng Việt Nam trong những thập kỷ gần đây đều cho thấy, khi mất nước sẽ mất tất cả. Thực tế ở Việt Nam, bảo vệ và phát triển nhân quyền trước hết lại bắt đầu bằng quá trình giải phóng dân tộc; nhân quyền chỉ có trong độc lập, tự do. Người Việt Nam đã phải hy sinh xương máu của biết bao thế hệ mới giành được chủ quyền quốc gia, bởi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Qua 30 năm qua, với đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta đang từng bước thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đấy là biểu hiện cao nhất và cụ thể nhất của nhân quyền Việt Nam, của sự bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc Việt Nam.
Khác với các giai đoạn trước đây, hiện nay điểm mới trong chiến lược “diễn biến hòa bình” cũng là điểm mới trong việc sử dụng luận điểm “Nhân quyền cao hơn chủ quyền” của các thê lực thù địch là song song với việc truyền bá hệ tư tưởng tư sản, lối sống, văn hóa là áp đặt pháp lý đơn phương nhằm gây khó khăn, từng bước làm biến đổi chế độ xã hội ta.
Có thể nói về chiến lược của chủ nghĩa đế quốc hiện nay là lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, lợi dụng luận điểm “Nhân quyền cao hơn chủ quyền” để can thiệp vào vấn đề dân tộc, tôn giáo, phá hoại đại đoàn kết toàn dân tộc làm trọng tâm; lấy việc xây dựng tổ chức, tạo dựng ngọn cờ và gây bạo loạn chính trị, tạo cớ móc nối với các thế lực bên ngoài làm khâu đột phá. Ảo tưởng thành lập “Nhà nước Đêga độc lập” ở Tây Nguyên, “Nhà nước Khmer Rôm” ở Tây Nam Bộ; “Vương quốc H’mông tự trị” ở Tây Bắc; “Vương quốc Chăm” ở Nam Trung Bộ cùng với mưu đồ xây dựng các tổ chức chính trị đội lốt tôn giáo phi pháp như “Tin Lành Đêga”, “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”, “Ủy ban liên tôn đấu tranh vì tự do tôn giáo”… là những kịch bản đầy tham vọng của họ.
Bác bỏ luận điểm “Nhân quyền cao hơn chủ quyền” trong bối cảnh chính trị quốc tế hiện nay, chúng ta cần nhận thức đầy đủ, toàn diện về mục tiêu, chiến lược cách mạng của Đảng, về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đồng thời chúng ta cần nắm chắc đặc điểm của tình hình quốc tế liên quan đến cuộc đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người.
Trong điều kiện cơ chế quốc tế đã hình thành, hiện nay, giải quyết những vấn đề nhân quyền chúng ta cần phải tính đến các nhân tố quốc tế. Cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” nói chung, đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ nhân quyền là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Cuộc đấu tranh này cần phải phục vụ cho mục tiêu nhiệm vụ của chiến lược cách mạng hiện nay: xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển kinh tế, văn hóa đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế, bảo vệ an ninh quốc gia và trậ tự an toàn xã hội.
Để giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh này, chúng ta phải kiên quyết và kiên trì cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ vững chắc hệ tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối quan điểm của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; chủ động hợp tác quốc tế mở rộng trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đối thoại bình đẳng. . . Đồng thời, giải quyết ngày càng tốt hơn các quyền công dân và quyền con người cho nhân dân; xử lý kiên quyết đối với những phần tử cơ hội, phản động trong nước và đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thể lực thù địch nước ngoài./.
                                                                                                                             

“Nhân quyền cao hơn chủ quyền” – Một học thuyết phi lý




                              
Một số “quan niệm” trên mạng xã hội có đưa ra một số luận điểm của các học giả phương tây cho là nhân quyền cao hơn chủ quyền đây là một luận điểm sai trái và nguy hiểm và mục đích của luận điểm này là gì?  Luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, cho đến hiện nay, xem ra vẫn là một “bảo bối” được các thế lực phản động, hiếu chiến thường xuyên sử dụng để đe doạ, can thiệp và tiến công một quốc gia dân tộc nào đó mà chúng cho là “vi phạm nhân quyền”. Như: các cuộc tiến công của Mỹ và đồng minh chống Nam Tư năm 1999, chống Irắc năm 2003 là những ví dụ điển hình về một liên minh đế quốc khổng lồ triển khai luận thuyết đó trên thực tế.  Vì thế, hơn lúc nào hết, các quốc gia dân tộc cần phải nêu cao cảnh giác, vạch rõ thực chất của luận thuyết này là gì, tính chất phản động về chính trị và phản khoa học của nó như thế nào, để không những làm cơ sở động viên sức mạnh toàn dân tộc, nêu cao ý chí quyết tâm chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của mình; mà còn là cơ sở cho việc tạo lập một mặt trận rộng rãi chống đế quốc của cộng đồng quốc tế. 
Nhân quyền là quyền con người và quyền con người ấy bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời với quyền thiêng liêng của cả dân tộc. Mọi sự tách ra, hoặc đối lập quyền của con người với quyền của quốc gia dân tộc đều là sai lầm cả về lý luận và thực tiễn, sẽ dẫn đến những hậu quả nguy hại. Không thể có được quyền con người đầy đủ, không thể có nhân quyền nếu như Tổ quốc không có độc lập tự do, nếu nhân dân lao động bị các thế lực thực dân, đế quốc bóc lột, dày xéo như kiếp “ngựa trâu”; muốn có nhân quyền thực sự thì vấn đề quyết định trước hết là phải giành cho được độc lập, tự do. Làm cách mạng để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc thì đồng thời cũng đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; xây dựng chủ nghĩa xã hội là đưa nhân dân lao động lên làm chủ và đứng ra cai quản, tổ chức xây dựng xã hội mới, xây dựng, phát triển và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, là làm cho mỗi người và cả dân tộc đều “sung sướng” và “tự do”.
Vì thế, luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, từ trong bản chất đã là một luận thuyết sai lầm và phản động, thực chất là nhằm biện minh cho những hành động xâm lược, phi nhân tính của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực hiếu chiến. Thực chất luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, là, cái cớ để can thiệp vào các nước khác tạo dựng vi phạm nhân quyền, mất dân chủ, quyền con người cao hơn lợi ích quốc gia dân tộc thật vô lý. Những luận điệu đó không thể lừa bị được sức mạnh đại đoàn kết của nhân dân ta. Mà càng làm cho nhân dân ta nhận thức mối quan hệ biện chứng giữa nhân quyền và chủ quyền. Và càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN./.


Lòng tin của Nhân dân đối với Đảng




Xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã khẳng định vai trò to lớn của quần chúng nhân dân với sự nghiệp cách mạng. Đó là sức mạnh đoàn kết “trên dưới một lòng, lòng dân không chia” để cùng đánh đuổi “kẻ thù chung” của dân tộc, giành và giữ chính quyền nhà nước. Sức mạnh ấy được anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi khái quát trong luận điểm nổi tiếng: “đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” cũng như khẳng định của Hồ Chí Minh: “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Từ khi ra đời đến nay, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng, phát triển đất nước. Đảng ta luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, chăm lo củng cố sức mạnh khối “đại đoàn kết toàn dân tộc”. Tôn chỉ và mục đích hành động của Đảng là vì hạnh phúc của nhân dân. Ngoài ra, Đảng hoàn toàn không có mục đích nào khác. Chính điều đó đã tạo ra mối liên hệ chặt chẽ, khăng khít, keo sơn giữa nhân dân với Đảng. Niềm tin, lòng tin của nhân dân với Đảng từ đó mà ngày càng được tăng cường, củng cố, nâng cao.
Có thể nói, cội nguồn sức mạnh và sức sống của Đảng là ở lòng tin của dân. Có dân là có tất cả, mất lòng tin của dân là mất hết. Lòng tin đó được xây đắp bền vững chính là ở chỗ Đảng đã quán triệt đường lối nhân dân, sự nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây chính là lý do giải thích vì sao mà chỉ với chưa đầy một thế kỷ từ khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đã làm lên những “kỳ tích” trong phong trào đấu tranh cách mạng vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân loại cũng như trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay.
Nhận thức rõ cội nguồn sức mạnh ấy của Đảng, các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam luôn âm mưu phá hoại, chia rẽ nhân dân với Đảng bằng nhiều thủ đoạn và hành động tinh vi, thâm độc, tráo trở. Hiện nay, chúng đã và đang ra sức tung hô và cổ xúy cho những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc về Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm đánh sập “hệ tư tưởng”, xóa bỏ “kim chỉ nam”, tạo sự hoang mang, dao động trong quần chúng nhân dân và ngay trong một bộ phận cán bộ, đảng viên với Đảng và làm cho Đảng mất phương hướng, mục tiêu, lý tưởng cách mạng.
Cùng với hoạt động trên, hiểu được lòng tin của nhân dân với Đảng được xây dựng trước hết từ lòng tin của nhân dân với mỗi cán bộ, đảng viên cụ thể. Từ đó, chúng đã tập trung đẩy mạnh việc tuyên truyền, xuyên tạc đời tư của cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước với các thủ đoạn như: tạo dựng video clip, trả lời phỏng vấn, viết bài bịa đặt… và triệt để khoét sâu những hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo của một số cơ quan, đơn vị, tổ chức Đảng cũng như những sai phạm, sự tha hóa, biến chất của một số cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền nhằm vu cáo, kích động, gây chia rẽ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, làm giảm sút lòng tin của nhân dân với Đảng, với bộ máy chính quyền nhà nước.
Trước âm mưu, hành động chống phá của kẻ thù, Đảng ta và mỗi cán bộ, đảng viên đã thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kịp thời phát hiện, đấu tranh vạch trần những âm mưu, thủ đoạn, những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc với mục đích phá hoại cách mạng của kẻ thù. Đồng thời nhận rõ những nguy cơ dễ mắc phải của một đảng cầm quyền, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng ta luôn chú ý tới việc xây dựng và chỉnh đốn để không ngừng tự hoàn thiện mình, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ thực tiễn đổi mới đất nước. Quá trình đó, Đảng luôn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”, tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, kỷ luật tự giác, nghiêm minh, giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng… Coi đó là những điều “bất biến” trong mối quan hệ với cái “vạn biến”.
Sức mạnh và uy tín của Đảng được đo bằng lòng tin của dân. Vì vậy, bên cạnh việc đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đảng và mỗi đảng viên phải luôn thực sự là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Suốt đời thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; làm người công bộc, tận tụy trung thành của nhân dân; đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị; trung thực, trách nhiệm; gắn bó với nhân dân; chống chủ nghĩa cá nhân; nói đi đôi với làm... Đó là những điều “cốt tử” tạo nên uy tín của Đảng và củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân với Đảng.

Cảnh giác trước chiêu bài “lừa đảo” của việt tân




Phải chăng những người đứng lên tổ chức kích động tụ tập gây rối nơi công cộng với danh nghĩa bảo vệ môi trường sau vụ cá chết là những hành động đáng được biểu dương khen ngợi? Đó chẳng qua là những hành động nói dối và lừa bịp nhằm che mắt quần chúng và mục đích là nhằm “đổ thêm dầu vào lửa”. Những hành động này làm sao mà có thể đại diện cho một tổ chức chính nghĩa, đó cũng chỉ là những hành động của những người vốn được sinh ra tại đất nước Việt và quay đầu chửi lại chính những người đã sinh ra và nuôi nấng che chở cho mình- để mong mình thành người tử tế?
Ấy vậy mà những người gọi là “Việt Tân” gì đó đã chỉ đạo một số đối tượng chống đối trong nước hình thành các nhóm hỗ trợ cho những người tham gia tụ tập gây rối. Tưởng là gì ghê gớm lắm, họ cũng biết tổ chức một cách khéo léo nhằm che mắt chính quyền bởi các hành động nhảm nhí bên trong. Biểu hiện cụ thể là có những nhóm chuẩn bị nước, bánh mì, phát tiền cho người tham gia, khi đúng thời gian ấn định thì những người tụ tập đều đứng dậy, ra khẩu hiệu...Mấy người “Việt Tân” cũng đã biết lôi kéo nhiều thành phần tham gia, trong đó có cả những người chưa đủ tuổi thành niên, phụ nữ mà nhất là những đối tượng có tiền án tiền sự. Họ muốn gây rối an ninh trật tự, phá hoại cuộc bầu cử và sâu xa hơn là lật đổ chế độ. Việt Tân muốn tạo ra một sự kiện để kích động các cuộc tụ tập thành một cuộc bạo loạn. Nguy hiểm hơn, trên mạng xã hội đã xuất hiện thông tin kêu gọi truy tìm nơi ở của các cán bộ công an, lực lượng thanh niên xung phong tham gia giữ trật tự để uy hiếp tinh thần, đe dọa lực lượng này, với các mức tiền thưởng cho từng hành vi uy hiếp. Các chiêu bài trên trang mạng xã hội đưa nhiều thông tin kêu gọi tọa kháng, tụ tập đông người ở nhiều nơi. Đồng thời hướng dẫn cách thức đối phó với cơ quan chức năng, kêu gọi đẩy mạnh tụ tập gây rối trật tự công cộng. Lập mới các trang mạng ăn theo sự kiện để dễ bề gây sự chú ý như nhóm “cứu biển, cứu dân” của tổ chức “voice” và nhóm “Hà Tĩnh - Hà Nội - Sài Gòn” do Hoàng văn Dũng và mọt số thành viên  cái gọi là “con đường Việt Nam lập”
Mọi người đều biết, kể từ khi xảy ra vụ cá chết, theo chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, các bộ, ban ngành Trung ương, chính quyền địa phương, các cơ quan khoa học, các chuyên gia đầu ngành về nhiều lĩnh vực trong nước và nước ngoài như Mỹ, Nhật, Pháp, Đức, Israel,… đã đến tận hiện trường để khẩn trương nghiên cứu, đánh giá theo các chuyên ngành, đa ngành, liên ngành để tìm nguyên nhân chính xác, khách quan. Người dân trong vùng bị ảnh hưởng là các ngư dân, người nuôi thủy sản được Chính phủ hỗ trợ gạo, tiền, được ngân hàng cho vay giảm lãi suất, giãn nợ để có vốn tiếp tục sản xuất. Các địa phương đã hình thành nên các cửa hàng bán cá an toàn, nhờ vậy, thị trường cung cầu hải sản ở các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên- Huế đã ổn định trở lại, ngư dân lại ra khơi bám biển. Có thể nói, trước sự cố môi trường đối với các tỉnh Bắc miền Trung, Đảng, Chính phủ đã có những chỉ đạo kịp thời, chính xác nên đã nhanh chóng ổn định đời sống người dân. Đại đa số người dân đều bình tĩnh chờ đợi và theo dõi các thông tin chính thức của các cơ quan có trách nhiệm, các nguồn tin chính thống trong việc thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tìm ra nguyên nhân gây sự cố môi trường. Còn “Việt Tân” thì đã làm gì được cho đồng bào vùng biển, thử hỏi xem họ có thể hiện tấm lòng thiện nguyện với nhân dân chưa hay chỉ là đồng quà tấm bánh để phân phát cho những người bị kích động, mê muội đi biểu tình chống chính quyền? Trong khi đó chính quyền, doanh nghiêp và người dân cả nước đang hướng về khúc ruột miền Trung với tất cả tấm lòng và trách nhiệm để sẻ chia và đồng cảm thì cái gọi là “Việt Tân” trong nước cùng với bọn phản động lưu vong nước ngoài đã và đang lợi dụng vụ việc để thực hiện ý đồ chống phá bằng cách xúi dục, kích động gây mất ổn định, đi ngược lại với lợi ích của dân tộc. Tung tin sai sự thật chưa được kiểm chứng nhằm gây hoang mang dư luận, khoét sâu vào nỗi đau chung để kích động chống phá như Nguyễn Thuỳ Trang, Bùi Đức Hải…đi liền với đó là những bình luận mang tính quy kết, suy đoán một chiều, cho là chính quyền đang tìm cách bao che. Đây là thủ đoạn hướng lái dư luận biến sự cố ngoài ý muốn thành cái cớ công kích chống phá chính quyền.
Rõ ràng đây vừa là hành vi của bọn khủng bố cá nhân vừa là những “phi vụ” kiểu đòi nợ thuê của bọn xã hội đen, côn đồ mà xã hội nào, chế độ nào cũng lên án và nghiêm trị. Những dã tâm đã phơi bày, Việt Tân hiện nguyên hình là một tổ chức của những kẻ khủng bố. Cái chiêu bài dùng sự cố môi trường để lôi kéo, dụ dỗ, đe dọa những người thiếu hiểu biết, những kẻ cơ hội và không ít kẻ đã có tiền án tiền sự để gây rối, phá hoại cuộc bầu cử, chống đối chính quyền đã rõ.
Nhưng âm mưu đó đã không lừa gạt được những người dân yêu nước khi họ có cái nhìn khách quan, tỉnh táo trước những lời kích động, xúi giục cũng như những hành động tụ tập gây rối để “góp phần” cho sự bất ổn của chúng; bởi những dã tâm và hành động đó đã đi ngược lại ý chí và nguyện vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam về ngày bầu cử được diễn ra trong ổn định, trật tự và thành công.

Bảo vệ chủ quyền việt nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm



Chủ quyền lãnh thổ quốc gia Việt Nam được xác định và quy định rõ ngay tại Điều 1 Hiến pháp 2013: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”. Xây dựng và bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, biên giới quốc gia được coi là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam hiện nay và được thể hiện trong Hiến pháp 2013 ở các nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia Việt Nam là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Điều 11 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị”.
Thứ hai, xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là sự nghiệp của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí thống nhất của Nhà nước, lực lượng vũ trang là nòng cốt.
Thứ ba, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định; giải quyết các vấn đề tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau.
Ngày nay, trong một thế giới đang diễn ra mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa, đan xen nhiều mối quan hệ phức tạp, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, đấu tranh gay gắt giữa các nước, giữa các nền chính trị, kinh tế và văn hóa khác nhau, sự hưng thịnh hay tồn vong của mỗi quốc gia, dân tộc không còn chỉ là chuyện riêng của từng quốc gia hay dân tộc. Điều đó đã tạo ra cả thời cơ và thách thức với mọi quốc gia, nhất là với các nước nhỏ trong việc bảo vệ lợi ích, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Trong bối cảnh đó, đặc biệt là trước diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và trên thế giới trong những năm gần đây, hơn bao giờ hết, đòi hỏi đất nước ta phải phát triển nhanh, bền vững, nâng cao sức mạnh tổng hợp, nội lực của đất nước về mọi mặt; đồng thời phải luôn nêu cao cảnh giác, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đây là nghĩa vụ thiêng liêng và cao cả của chúng ta hôm nay trước tổ tiên và các thế hệ cha anh đi trước, như lời Bác Hồ dạy: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” và trước các thế hệ con cháu muôn đời sau.
Để góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mỗi chúng ta, dù trên cương vị công tác nào, cũng phải làm hết sức mình để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ, chức trách của mình, tích cực đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các thói hư, tật xấu, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm. Chúng ta không thể chấp nhận những người miệng nói yêu nước nhưng vì lợi ích cá nhân, “lợi ích nhóm” mà tham nhũng, lãng phí, làm tổn hại đến lợi ích của đất nước, làm nghèo, suy yếu đất nước. Đây là “giặc nội xâm”, là những “khối u” trên cơ thể đất nước cần phải cắt bỏ.
Để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đất nước đòi hỏi phải có tầm nhìn xa, bản lĩnh vững vàng, kiên định về nguyên tắc nhưng tỉnh táo, linh hoạt, khôn khéo trong sách lược. Kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên cường của dân tộc, những bài học giữ nước của cha ông, bằng sự nỗ lực phấn đấu không ngừng phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao sức mạnh tổng hợp và uy tín quốc tế của đất nước, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh quốc tế, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm mục tiêu cao nhất, nhân dân ta nhất định sẽ vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc non sông gấm vóc do cha ông để lại để trao truyền cho muôn đời con cháu mai sau.
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là nhiệm vụ thường xuyên, hằng ngày, hằng giờ không được phép sao nhãng, lơ là, nhưng cũng là cuộc đấu tranh lâu dài, kiên trì, bền bỉ với những khó khăn, thử thách to lớn./.

Chủ Nhật, 5 tháng 6, 2016

VẠCH TRẦN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG LỢI DỤNG VÀO NHỮNG KHÓ KHĂN, PHỨC TẠP TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM



Hiện nay, bất cứ một khó khăn, phức tạp gì trong đời sông xã hội ở nước ta thì các thế lực thù địch, phản động đều triệt để tìm cách lợi dụng, xuyên tạc, vu khống, chống phá bằng mọi thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt. Mục đích của chúng nhằm xuyên tạc bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa; phủ nhận những thành quả cách mạng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta thiếu quan tâm đến đời sống của nhân dân.
Chúng ta đều biết rằng, những khó khăn, phức tạp nảy sinh trong đời sống xã hội là tất yếu đối với tất cả các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Ngay cả những nước phát triển trên thế giới thì tình trạng thất nghiệp, khủng bố, tội phạm, tệ nạn xã hội, phân biệt giàu nghèo, ô nhiễm môi trường vẫn xảy ra hằng ngày, hằng giờ.
Trong công cuộc đổi mới phát triển đất nước hiện nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang ra sức và quyết tâm khắc phục những khó khăn, loại trừ các tiêu cực trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, những vấn đề khó khăn, phức tạp trong xã hội ta đang bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để chống phá. Chúng sử dụng các phương tiện truyền thông làm công cụ đưa tin sai sự thật bằng cách thổi phồng, cắt xén, nhào nặn làm “nóng” các vấn đề của đất nước, làm cho người dân có cái nhìn thiên lệch về những gì đang diễn ra trong đời sống xã hội, dẫn đến hoài nghi, mơ hồ, thiếu niềm tin vào sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó,  tạo bức xúc, nghi ngờ, bất bình trong công chúng, kích động gây rối, bạo loạn lật đổ. Bên cạnh đó, chúng tiếp cận với những người nhận thức non yếu, hạn chế, có hoàn cảnh khó khăn hoặc có tư tưởng búc xúc về một số vấn đề, để dần dần nhồi nhét bằng những câu chuyện bịa đặt, chu cấp tiền bạc hoặc hứa hẹn, rồi tạo ra những “con rối”, giao những nhiệm vụ cụ thể cho ý đồ chống đối, gây rối chính trị…Vừa qua, trong khi các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương, các tổ chức chính trị xã hội và các doanh nghiệp cùng người dân cả nước đang hướng về “khúc ruột” miền Trung để sẻ chia, đồng cảm  với hiện tượng cá chết thì tổ chức phản động lưu vong Việt Tân đã phối hợp chặt chẽ với đầu mối trong nước lợi dụng chiêu bài “bảo vệ môi trường” để kích động tụ tập, làm phức tạp tình hình an ninh trật tự, phá hoại kinh tế. Nỗi đau của biển, thiệt hại của bà con ngư dân, khó khăn chung của đất nước một lần nữa lại trở thành cái cớ cho những mưu đồ đi ngược lại lợi ích dân tộc.
Để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vào những khó khăn, phức tạp trong đời sống xã hội, chúng ta phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, kịp thời giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Đẩy mạnh truyên truyền, giáo dục, giác ngộ, nâng cao nhận thức của người dân trước những âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch; đảm bảo cho họ phân biệt được đúng, sai; sàng lọc, tiếp nhận thông tin có lợi cho quốc gia, dân tộc, không tin, không cổ súy, lan truyền những thông tin xấu, có hại cho Đảng, cho đất nước. Đồng thời, tăng cường tuyên truyền thông tin chính thống, định hướng dư luận.
Thông qua công tác tuyên truyền của báo chí, giúp cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân hiểu rõ hơn âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, không bị kích động, xúi dục, lôi kéo vào những mưu đồ đen tối của chúng; củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với đó, làm tốt công tác vận động quần chúng, tăng cường và nâng cao hiệu quả đầu tư, thực hiện tốt phong trào chung sức xây dựng nông thôn mới, tích cực xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bồi đắp sự đồng thuận xã hội trong cộng đồng dân tộc, củng cố và tăng cường thế trận lòng dân vững chắc.

Thứ Tư, 1 tháng 6, 2016

Minh chứng về giá trị Việt thông qua chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ

Tổng thống Mỹ Obama sang thăm Việt Nam từ ngày 23 đến 25/5/2016. Ngoài những buổi gặp gỡ Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và chào xã giao Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, ông Obama còn đi thăm một số nơi, ăn một số món ăn dân tộc Việt Nam. Qua chuyến thăm của Tổng thống Mỹ đã chúng tỏ một số điều sau:
1. Khẳng định và thừa nhận Đế Quốc Mỹ  can thiệp vào công việc của Việt Nam những năm 60 của thế kỷ 20 là hoàn toàn sai trái. Obama đã khẳng định "Sông núi nước Nam vua nam ở". Vậy mà Mỹ đã mang bom đạn đến giết hại người dân Việt Nam. Đó là sai lầm của nhà cầm quyền Mỹ của thế kỷ trước.
2. Tổng thống Mỹ đi trên đường phố Hà Nội, ăn Bún Chả, uống Chà chanh, thăm   chùa Ngọc Hoàng...điều này khẳng định tình hình an ninh của Việt Nam rất tốt, Đảng, dân tộc và nhân dân hòa là một, không có khoảng cách
3. Mỹ tự coi là nước "nhân quyền tiêu biểu" nhưng Obama cũng phải thừa nhận là ở Mỹ cũng vi phạm nhân quyền làm cho Tổng thống "đau đầu". Và như vậy cái gọi là phán quyết "nhân quyền" ở Việt Nam chẳng có giá trị
4. Trong bài phát biểu, thừa nhận Obama am hiểu văn hóa Việt Nam và đã dùng nhiều giá trị văn hóa nghệ thuật để làm rõ, làm nhấn cho bài phát biểu. Điều đó khẳng định giá trị văn hóa Việt Nam với thế giới
5. Tổng thống Obama đã chứng kiến sự chờ đợi, đón tiếp của người dân Việt Nam khi đoàn xe đi qua. Điều đó chúng tỏ lòng mến khách, thân thiện, mong muốn gác lại quá khứ, hướng tới tương lai của Việt Nam; Việt Nam muốn là bạn của các nước trên thế giới
Vậy nên, những kẻ phản động, thù địch đừng bóp méo sự thật của đất nước anh hùng này, đừng làm những trò lố lăng nữa. Không ai nghe các vị đâu. Mãi mãi đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn