Thứ Tư, 30 tháng 3, 2016

KHÔNG THỂ TÁCH RỜI PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI QUỐC PHÒNG – AN NINH



Thời gian vừa qua, lợi dụng vấn đề tự do ngôn luận, tự do báo chí và vấn đề dân tộc, tôn giáo các thế lực thù địch không ngừng tăng cường thực hiện âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Công sản Việt Nam. Xung quanh vấn đề kết hợp phát triển kinh tế gắn với quốc phòng – an ninh có ý kiến cho rằng: đây là hai lĩnh vực tách biệt, trong đó quốc phòng – an ninh chịu sự chi phối bởi sức mạnh kinh tế của đất nước. Do vậy, chỉ nên tập trung phát triển kinh tế thì ắt sức mạnh quân sự sẽ được tăng cường; hay có quan điểm cho rằng Quân đội, Công an chỉ nên tập trung vào nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia còn tham gia phát triển kinh tế thì chỉ làm cho nền kinh tế chậm phát triển. Vì vậy, không nên kế hợp phát triển kinh tế với QPAN. Đây là  quan điểm hoàn toàn sai trái
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là hoạt động có tính chủ động của nhà nước trên cơ sở nhận thức những quy luật kinh tế - xã hội khách quan, nhằm gắn chặt hai lĩnh vực xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng trong một quá trình thống nhất, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển, đảm bảo cho mọi hoạt động của xã hội đều dẫn đến sự mạnh lên cả về kinh tế và quốc phòng, làm cho mỗi bước phát triển kinh tế đều có tác dụng nâng cao tiềm lực quốc phòng và mỗi bước củng cố quốc phòng đều tạo thuận lợi cho phát triển và bảo vệ nền kinh tế. Kết hợp kinh tế với quốc phòng là quy luật của tất cả các quốc gia trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước.
Kinh tế vơi quốc phòng, an ninh có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, kinh tế bao giờ cũng giữ vai trò quyết định đối với quốc phòng, an ninh. Hoạt động kinh tế tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho mọi hoạt động của đời sống xã hội. Ngược lại quốc phòng, an ninh có tác động to lớn đối với phát triển kinh tế. Quốc phòng mạnh sẽ tạo ra môi trường ổn định để phát triển kinh tế, bảo vệ những thành tựu mà nền kinh tế tạo ra.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, từ hàng ngàn năm trước tổ tiên ta đã sử dụng nhiều kế sách khác nhau trong chống giặc ngoại xâm. Trong đó, việc kết hợp kinh tế với quốc phòng đã được ông cha ta vận dụng như một cách sáng tạo như: chính sách “ngụ binh ư nông”, “Tĩnh vi nông, động vi binh” và những tư tưởng lớn như “ Khoan thư sức dân để thực hiện kế sâu rễ, bền gốc”.
Ngay từ sau ngày miền Bắc được giải phóng, đất nước ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH ở miền Bắc, tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tháng 11 năm 1958, BCHTƯ Đảng (khoá II) tại kỳ họp thứ 14 đã khẳng định: "Phải kết hợp củng cố quốc phòng với xây dựng hậu phương vững chắc” . Đến tháng 9 năm 1960 tại ĐHĐB toàn quốc lần thứ  III, Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng".
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cả nước thống nhất và đi lên CNXH. Đảng ta chủ trương thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng trong quá trình xây dựng và BVTQ. Chủ trương đó được xác định là một nội dung trong đường lối xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH và đã được Đại hội IV của Đảng (tháng 12/1976) thông qua, được tổ chức chỉ đạo nhất quán trong tất cả các ngành, các cấp trong cả nước. Trên cơ sở tổng kết, rút ra những bài học từ những kết quả đạt được, Đảng ta qua các kỳ Đại hội từ Đại hội V, VI, VII, VIII, IX, X của Đảng, đã tiếp tục khẳng định thực hiện chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng trên địa bàn vùng sâu, vùng xa trong công cuộc xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN trong điều kiện lịch sử mới. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo”.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng việc thực hiện đường lối quốc phòng an ninh do Đại hội XI của Đảng đề ra cũng như tổng kết 30 năm công cuộc đổi mới toàn diện đất nước Đại hội XII của Đảng một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của việc Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế nhất là trên địa bàn vùng sâu, vùng xa “ Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược”
Từ yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay đòi hỏi phải gắn  chặt hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc.  Phát triển kinh tế là cơ sở để củng cố quốc phòng, an ninh. Củng cố quốc phòng, an ninh vững chắc là điều kiện để giữ vững hoà bình, ổn định chính trị, xã hội và phát triển kinh tế. Quan điểm tách rời phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh là quan điểm sai trái và có mưu đồ phản động./.

VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - SỰ THẬT LỊCH SỬ KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN




                                                                   
         Trước năm 1858 Việt Nam là một nước phong kiến điển hình với các triều đại vua chúa thay nhau cai trị như: Ngô - Đinh - Tiền Lê (Đại Cồ Việt), Lý - Trần - Hồ - Lê Sơ (Đại Việt), Nguyễn (An Nam). Sau khi thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, chế độ phong kiến đương thời ngày càng mục ruỗng, thối nát, không đủ sức chống thực dân Pháp, bảo vệ đất nước. Trong tình cảnh đó, chế độ thực dân - phong kiến từng bước được thiết lập, thống trị. Dân tộc Việt Nam một cổ đôi tròng chịu nhiều tầng áp bức, bóc lột của chế độ thực dân, phong kiến. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân, sĩ phu yêu nước chống lại ách đô hộ của chế độ thực dân, phong kiến đã diễn ra nhưng đều thất bại, bị khủng bố đẫm máu, bởi vì không có lãnh tụ chân chính và đường lối cách mạng đúng đắn. Đời sống của nhân dân lao động, dân tộc Việt Nam vô cùng cực khổ, tình hình cách mạng lâm vào khủng hoảng, bế tắc, tình hình đen tối không có đường ra. Vấn đề cấp thiết đặt ra là phải nhanh chóng khắc phục sự khủng hoảng đường lối chính trị và tìm con đường cứu dân, cứu nước, giải phóng dân tộc.
          Ngày 05/6/1911 tại bến Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã lên chiếc tàu mang tên Amiral La Touche De Tréville, tạm rời xa Tổ quốc, ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Cuộc hành trình qua 3 đại dương, 4 châu lục và gần 30 quốc gia đã đưa Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin – một học thuyết cách mạng nhất, khoa học nhất, chân chính nhất trong lịch sử phát triển tư tưởng, lý luận của nhân loại.   Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, chọn lọc, kế thừa kinh nghiệm quý báu của cách mạng Tháng Mười Nga vào trong điều kiện hoàn cảnh thực tiễn của đất nước là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Với nhãn quan chính trị sắc bén, Hồ Chí Minh đã chỉ ra điều kiện tiên quyết đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, phong trào cứu nước ở Việt Nam là: Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Con thuyền cách mạng Việt Nam chỉ có thể tiến tới bến bờ độc lập, tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành khi thỏa mãn hai điều kiện cơ bản là xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, sức dân mạnh như sức nước và phải có Đảng cách mạng chân chính lãnh đạo.
          Tuân thủ và thực hiện điều kiện tiên quyết đó, Hồ Chí Minh đã chủ động tiến hành các hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin đến với những hạt nhân ưu tú của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuyển hoá thành phong trào cách mạng và chính điều này đã dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam - đảng mácxít lêninnít chân chính, mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định được đường lối đúng đắn, khẳng định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đó là: Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản (Sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa). Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với Cương lĩnh chính trị, đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn là mốc son chói lọi chấm dứt thời kỳ khủng hoảng lãnh tụ chính trị và đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam, đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, với đường lối đúng đắn, dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết chung quanh mình tất cả các giai cấp và các tầng lớp nhân dân yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đấu tranh chống thực dân, phong kiến vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua 15 năm lãnh đạo cách mạng (1930 - 1945), với ba cao trào cách mạng lớn (1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945), khi thời cơ đến, Đảng đã nhanh chóng chớp lấy thời cơ, với tinh thần “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập”, Đảng ta đã phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước; từ đây, dân tộc ta đã bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do.
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ đã phải đối mặt với ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Vận mệnh của đất nước đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn, khôn khéo, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại để giữ vững chính quyền non trẻ. Với đường lối chính trị, quân sự, ngoại giao đúng đắn và sáng suốt, Đảng đã động viên được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, củng cố, giữ vững chính quyền cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua tình thế hiểm nghèo và chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, giành thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, kết thúc bằng Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, góp phần phá vỡ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ, dẫn tới sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân.
Với thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, thực hiện quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Song ở miền Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã xóa bỏ Hiệp định Giơnevơ hòng chia cắt lâu dài đất nước ta. Đất nước ta lại tạm thời bị chia làm hai miền. Đảng đã xác định con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do!”, “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi”, “Tất cả cho tiền tuyến. Tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược”…, dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, nhân dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ ở miền Bắc. Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 và với thắng lợi huy hoàng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lúc này, nét nổi bật là chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, lại phải chịu hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đặc biệt, từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trải qua nhiều diễn biến phức tạp, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sau hơn 70 năm tồn tại và phát triển mạnh mẽ đã bị sụp đổ. Tình hình đó đã tác động, ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta.
Qua quá trình tiến hành công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã vượt qua những khó khăn, trở ngại, thu được những thành tựu quan trọng, đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất đất nước về mọi mặt, đánh thắng các cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đã nỗ lực khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, từng bước ổn định sản xuất và đời sống của nhân dân.
Tuy nhiên, từ khi cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế của nước ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh; mặt khác thời điểm ấy, đội ngũ cán bộ của Đảng trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng với cơ chế sản xuất mới, với sự phát triển của đất nước, cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp không còn phù hợp, trở thành lực cản đối với sự phát triển, làm cho đất nước rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, thị trường, tài chính tiền tệ không ổn định, ngân sách nhà nước bội chi liên tục, giá cả tăng nhanh, lạm phát ở mức độ phi mã, khó kiểm soát. Ví dụ chỉ số giá năm 1975 là 1 lần thì 1980 là 2,5 lần và 1985 đã là 38,5 lần. Trong công nghiệp nhà máy không có nguyên liệu sản xuất công nhân không có việc làm việc làm đời sống vô cùng khó khăn thiếu thốn, công nhân không có lương, nông dân ruộng đất bỏ hoang, quần chúng hoang mang, niềm tin của nhân dân đối với Đảng bị giảm sút, nghi ngờ về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; cách mạng tưởng như khó có thể vượt qua khó khăn thử thách.
Trong điều kiện đó, nhân dân vẫn tuyệt đối tin tưởng vào bản lĩnh, kinh nghiệm lãnh đạo, vào sự sáng tạo của Đảng để đưa đất nước vượt qua khó khăn thử thách. Sự nhìn nhận của nhân dân không lầm, đồng thời Đảng cũng không phụ lòng tin của dân, bằng tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của mình, Đảng đã tỏ rõ quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, kịp thời nhận rõ nguyên nhân khuyết điểm từng bước tìm tòi những biện pháp khắc phục những khuyết điểm, đề ra đường lối đổi mới đất nước một cách toàn diện, từng bước tháo gỡ khó khăn. Quá trình vừa đổi mới, vừa tìm tòi khảo nghiệm, tìm ra bước đi thích hợp, kịp thời tổng kết, rút kinh nghiệm qua mỗi chặng đường, để tìm ra con đường đi đúng cho riêng mình. Đồng thời, Đảng không giáo điều sách vở, không dập khuôn máy móc các mô hình cải cách, cải tổ của các nước xã hội chủ nghĩa khác trên thế giới, mà trên cơ sở vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của cách mạng. Trước hết Đảng đặt ra một loạt vấn đề là đổi mới bắt đầu từ đâu? để tìm ra câu trả lời đó lúc bấy giờ đảng ta đã khảo nghiệm thực tiễn 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc (1954 - 1975) và hơn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (1975 - 1986), Đảng ta đã nhận thức rõ tình hình và quyết định chính là phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, trong đó phải đổi mới tư duy kinh tế, tư duy chính trị, hoạch định đổi mới toàn diện đồng bộ, đường lối đối nội, đối ngoại… để đưa sự nghiệp đổi mới đi đến thắng lợi.
Trong quá trình tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta đã không ngừng nghiên cứu tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện và đã tổ chức, lãnh đạo nhân dân ta phát huy tinh thần sáng tạo, sức mạnh tổng hợp, đưa sự nghiệp đổi mới đất nước từng bước giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ phát triển tương đối ổn định, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nền kinh tế tăng trưởng khá nhanh, thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình khá. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày càng hoàn thiện. Đời sống về vật chất và tinh thần của nhân dân ta đã được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc có bước phát triển mới. Quốc phòng và an ninh được giữ vững và tăng cường. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều.
Có thể khẳng định, 86 năm qua, dù con đường đi lên có lúc quanh co, phức tạp, dù Đảng ta có lúc phạm khuyết điểm, sai lầm, nhưng do có bản lĩnh vững vàng, thực sự khiêm tốn, cầu thị, Đảng ta nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, được nhân dân tin yêu, ủng hộ, cho nên Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, không một thế lực nào ngăn cản nổi. Vì vậy, Đảng ta được nhân dân tin cậy, thừa nhận là người lãnh đạo chân chính, duy nhất, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Lịch sử cách mạng Việt Nam cận, hiện đại đã chứng tỏ không có một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam
Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Bổ sung, sửa đổi năm 2013) khẳng định rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Điều đó đồng nghĩa với việc khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Với sự thừa nhận đó, Đảng có trọng trách trong việc lãnh đạo xây dựng bộ máy chính quyền, trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại để giành thắng lợi cho cách mạng.
Trong những năm tới, với sự tác động mạnh mẽ của tình hình khu vực và thế giới, ảnh hưởng lớn từ các vấn đề trong nước dự kiến tình hình kinh tế chính trị, xã hội của nước ta sẽ còn gặp không ít khó khăn, thách thức mới. Các thế lực thù địch, phản động đang hàng ngày, hàng giờ thực hiện các âm mưu, chiến lược hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, tác động từng bước nhằm làm chuyển hóa chế độ chính trị, mục tiêu hàng đầu của chúng là xóa bỏ điều 4 Hiến pháp, từ đó lật đổ chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chính vì vậy, việc bảo vệ, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trên cả phương diện pháp lí và thực tiễn là rất quan trọng. Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Muốn vậy, phải thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, thực sự “là đạo đức, là văn minh” để Đảng có thể làm tròn sứ mệnh cao cả của mình trước dân tộc, trước nhân dân./.
                   


[1]  Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 289.

SÁU LÝ DO ĐỂ KHẲNG ĐỊNH DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA KHÁC HẲN VỀ BẢN CHẤT SO VỚI DÂN CHỦ TƯ SẢN.



Gần đến ngày bầu cử Quốc hội, trên các trang mạng xã hội đã xuất hiện nhiều quan điểm cho rằng: Dân chủ XHCN ở Việt Nam là dân chủ hình thức, chỉ có dân chủ tư sản mới thực sự dân chủ. Dưới góc độ lý luận và thực tiễn, tôi khẳng định, đó là quan điểm sai trái, thiển cận và phản động. Dù nhìn nhận ở góc độ nào thì dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ khác hẳn về bản chất và đối lập về nguyên tắc với dân chủ tư sản.Vì sao? Theo tôi trên 6 lý do sau:
Thứ nhất, dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giành được chính quyền và ngày càng phát huy trong quá trình xây dựng xã hội mới;
Thứ hai, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
Thứ ba, dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đa số, của người lao động, vì đa số và người lao động, không phải của thiểu số bóc lột, đặc quyền, đặc lợi;
Thứ tư, dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ, mà ở đó, nhân dân lao động làm chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, được pháp luật bảo đảm;
Thứ năm, dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện bằng hệ thống tổ chức thể hiện quyền lực chính trị - xã hội của nhân dân, tập trung và thông qua nhà nước;
Thứ sáu, không ngừng mở rộng dân chủ gắn với tăng cường kỷ cương, pháp luật là quy luật cơ bản của sự phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó là bản chất tốt đẹp của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó là chế độ dân chủ “gấp triệu lần” hơn bất cứ chế độ dân chủ nào trong lịch sử như V.I.Lênin từng khẳng định.  
Thực tiễn đã chứng minh rằng: Nền dân chủ tư sản, dù có được tô vẽ như thế nào chăng nữa, thì nó vẫn là nền dân chủ của thiểu số, của giai cấp tư sản, nhằm bảo đảm sự thống trị, bóc lột của giai cấp tư sản đối với xã hội và lao động. Trong những thập kỷ qua, nếu như chủ nghĩa tư bản có sự tiến bộ nào đó về mặt xã hội, thì đó cũng là kết quả của quá trình đấu tranh bền bỉ, liên tục của giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở các nước tư bản và sự tác động, ảnh hưởng bởi những giá trị nhân đạo, nhân văn, dân chủ, những giá trị vì con người của chủ nghĩa xã hội hiện thực thế giới.


KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA – MỘT THÀNH QUẢ TO LỚN CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI



Công cuộc đổi mới ở Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay đã gần 30 năm tròn. Đó là một quá trình khó khăn, lâu dài, vừa tìm tòi, vừa thử nghiệm, mặc dù còn những thiếu sót nhất định, song về cơ bản có thể khẳng định: công cuộc đổi mới  của chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, không hiểu sao, vì định kiến cá nhân, vì góc nhìn thiển cận, hay vì một lý do gì khác mà một số người xuyên tạc sự thật, “bôi đen” thực tế về “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” - một thành quả to lớn của công cuộc đổi mới. Để góp phần làm sáng tỏ đường lối quan điểm của Đảng, tác giả xin nêu và trao đổi ý kiến của mình về một số luận điểm được đăng tải trên các trang mạng trong thời gian gần đây.
          Thứ nhất, một số người cho rằng về tên gọi mô hình kinh tế ở nước ta là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” không giống ai. Rõ ràng những người này đã không hiểu gì về lịch sử hình thành và phát triển cũng như những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là sự phát triển cao của kinh tế hàng hóa, đặc trưng lớn nhất của kinh tế thị trường là sự hoạt động tự do của các quy luật kinh tế như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Tuy nhiên, không phải kinh tế thị trường ở tất cả các nước, các chế độ xã hội đều giống nhau. Ngoài những đặc điểm chung không thể thiếu, tùy vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà kinh tế thị trường ở mỗi nước cũng có đặc điểm và tên gọi khác nhau như: Kinh tế thị trường tự do Hoa Kỳ, kinh tế thị trường có điều khiển Nhật Bản, kinh tế thị trường xã hội Cộng hòa liên bang Đức, kinh tế thị trường đặc sắc Trung Quốc… Vậy nên, tên gọi “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam vừa thể hiện cái chung là thể chế kinh tế thị trường, vừa thể hiện cái riêng là định hướng xã hội chủ nghĩa.
          Thứ hai, một số quan điểm cho rằng, không thể kết hợp kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo họ, kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa như “nước với lửa” làm sao có thể kết hợp được với nhau. Căn nguyên vấn đề nằm ở chỗ những người này cho rằng, kinh tế thị trường là của chủ nghĩa tư bản cho nên kinh tế thị trường không thể định hướng xã hội chủ nghĩa được. Nếu chọn kinh tế thị trường phải từ bỏ hệ tư tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Nghĩa là họ đã đem đối lập hoàn toàn giữa kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa, phủ định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cần phải thấy rằng, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành quả chung của văn minh nhân loại, tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau.Việc Đảng ta lựa chọn mô hình: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự gán ghép khiên cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội. Giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội không có bức tường ngăn cách tuyệt đối, có thể làm tiền đề, điều kiện cho nhau. Nếu tuyệt đối hóa khả năng có thể chuyển hóa mâu thuẫn giữa chúng, cũng tức là phủ nhận khả năng phát triển.
Thứ ba, về tư duy đổi mới Đảng ta xác định: đổi mới kinh tế trước, rồi mới đổi mới từng bước về chính trị. Tuy nhiên, một số người lại cho rằng như vậy là mâu thuẫn với học thuyết Mác, vì rằng, học thuyết Mác luôn khẳng định chính trị là sản phẩm của một hình thái kinh tế xã hội. Ở đây, chúng ta không thấy có điểm gì mâu thuẫn giữa tư duy đổi mới của Đảng và học thuyết Mác, trái lại, tư duy đổi mới của Đảng là sự kế thừa và vận dụng đúng đắn, sáng tạo học thuyết Mác vào điều kiện lịch sử Việt Nam. Về mặt lý luận, học thuyết Mác chỉ ra giữa kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ đó, kinh tế giữ vai trò quyết định chính trị vì (kinh tế là nội dung vật chất của chính trị, còn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế; Cơ sở kinh tế với tính cách là kết cấu hiện thực sản sinh ra hệ thống chính trị tương ứng và quy định hệ thống đó), chính trị tác động trở lại kinh tế biểu hiện tập trung ở quyền lực nhà nước và sức mạnh vật chất tương ứng. Về mặt thực tiễn, bài học kinh nghiệm rút ra từ sự sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô chính là sự sai lầm trong thứ tự và cách thức tiến hành đổi mới, đó là đổi mới chính trị trước rồi mới đổi mới kinh tế. Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn cho thấy tư duy đổi mới của Đảng là khoa học, kiên định với học thuyết Mác và phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam.
Thứ tư, một số người cho rằng việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là một sự phản bội chủ nghĩa Mác. Muốn chỉ ra sự ngây ngô về khoa học của “họ” ta phải quay về lý luận gốc của C. Mác về điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa. Trong quyển 1 bộ Tư bản, Mác đã trình bày điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa. Theo đó, để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại cần có 2 điều kiện, một là, phân công lao động xã hội và hai là, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất. Ở đây cần làm rõ điều kiện thứ hai của sản xuất hàng hóa để tránh sự lầm lẫn đáng tiếc. Xét về mặt lịch sử, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa bắt đầu từ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Sau đó, trong điều kiện của sản xuất lớn với sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, thì sự tách biệt kinh tế giữa những người sản xuất, giữa các doanh nghiệp thuộc cùng một chế độ sở hữu có tính tự chủ kinh doanh quy định. Do vậy, sẽ là sai lầm khi đồng nhất sở hữu tư nhân với sự độc lập tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất và coi đó là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa. Và như vậy, chừng nào còn tồn tại sự độc lập tương đối về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất, chừng ấy vẫn còn tồn tại sản xuất hàng hóa. Vận vào điều kiện thực tiễn nước ta, đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp về trình độ kinh tế, lực lượng sản xuất ở nhiều trình độ khác nhau thì tất yếu phù hợp với trình độ ấy phải là hệ thống các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Do đó, sự tồn tại của sản xuất hàng hóa là tất yếu khách quan. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự từ bỏ nguyên lý của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về xóa bỏ chế độ tư hữu, mà ngược lại, đó là sự vận dụng sáng tạo nguyên lý nói trên vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước có nền kinh tế chậm phát triển. Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận rằng, đã có một thời kỳ chúng ta nhận thức chưa đúng, chưa đủ xem kinh tế thị trường là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản nên vội vàng xóa bỏ tư hữu. Song điều quan trọng là chúng ta đã nhận ra và sửa sai kịp thời, trả lại thực tiễn những gì vốn có của nó. Đối với một con người và đối với một đảng sai lầm là có thể, điều đó không đáng sợ, điều đáng sợ là con người đó hay đảng đó không nhận ra sai lầm và càng đáng sợ hơn khi không có ý chí để sửa chữa sai lầm đó.
                   Tóm lại, từ những luận cứ khoa học và thực tiễn lịch sử kinh tế thế giới cũng như lịch sử kinh tế Việt Nam cho thấy rằng: phát triển kinh tế thị trường là điều tất yếu đối với tất cả các quốc gia muốn tồn tại và phát triển. Vấn đề đặt ra đối với việt Nam bây giờ không phải là lựa chọn phát triển kinh tế thị trường hay không, mà là lựa chọn một nền kinh tế thị trường như thế nào: kinh tế thị trường hiện đại, văn minh, năng động giàu sức sống và được định hướng về mặt xã hội hay kinh tế thị trường hoang dã, phi hiệu quả, xơ cứng và không được định hướng về mặt xã hội.


Thứ Năm, 24 tháng 3, 2016

CÔNG LÝ ĐÃ ĐƯỢC THỰC THI ĐỐI VỚI BLOGGER ANH BA SÀM



Chắc mọi người không còn lạ, Nguyễn Hữu Vinh (tức blogger Anh Ba Sàm, SN 1956, trú tại quận Đống Đa, Hà Nội) và Nguyễn Thị Minh Thúy (SN 1980, trú tại quận Ba Đình, Hà Nội) đã lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, theo điều 258 Bộ Luật hình sự.
Đầu năm 2014, Nguyễn Hữu Vinh đã lập blog Chép sử việt và blog Dân quyền. Sau khi thành lập hai blog này, Vinh đã cung cấp mật khẩu truy cập và chi sẻ cho Nguyễn Thị Minh Thúy một số quyền quản trị đối với hai blog này như: quyền viết bài, quyền chỉnh sửa bài viết, quyền xóa bài viết, quyền đăng tải bài viết lên blog, quyền kiểm duyệt ý kiến bình luận…Mỗi lần truy cập để thực hiện các nội dung quyền quản trị, Thúy đều theo chỉ đạo của bị cáo Nguyễn Hữu Vinh.
Từ khi lập blog đến khi Vinh và Thúy bị cơ quan công an bắt giữ, blog Dân quyền đã đăng 2014 bài viết, còn blog Chép sử việt đăng 383 bài viết. Nội dung đưa lên blog có 24 bài viết có nội dung sai sự thật, không có căn cứ, tuyên truyền xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bôi nhọ các cá nhân, làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan, tổ chức, đưa ra cái nhìn bi quan một chiều, gây hoang mang lo lắng, làm ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo đất nước của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và Nhà nước.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Nước ta đang trong quá trình xây dựng, phát triển và đạt được những thành tựu kinh tế to lớn, đời sống nhân dân được nâng cao. Việc các bị cáo đã đăng tải những bài viết bôi nhọ, làm xấu hình ảnh đất nước đi ngược lại xu thế của dân tộc.
Sau một ngày xét xử, chiều 23/3, TAND Hà Nội đưa ra phán quyết cấp sơ thẩm quyết định tuyên phạt bị cáo Nguyễn Hữu Vinh 5 năm tù giam. Bị cáo Nguyễn Thị Minh Thúy nhận mức án 3 năm tù giam.
          Mức án của Vinh và Thúy là bài học cảnh tỉnh cho những ai cố tình vi phạm pháp luật, “thay trắng, đổi đen” và mưu đồ “hại dân, hại nước”./.

LUẬN ĐIỆU "THIỂU NĂNG" CỦA KIẾN NGHỊ 72 VỀ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG




Trong thời gian tổ chức lấy ý kiến nhân dân tham gia sửa đổi Hiến pháp năm 1992, bên cạnh sự tiếp tục góp ý thẳng thắn, công khai, dân chủ và đầy tinh thần trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân của các tầng lớp nhân dân ta, thì bọn cực đoan, hận thù dân tộc và kẻ địch tiếp tục có những chiêu thức mới trong việc lợi dụng góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nhằm tán phát những tài liệu với nội dung sai trái, phản động làm nhiễu thông tin, làm phân tâm nhân dân trong việc tham gia góp ý xây dựng Hiến pháp, trong đó có nhóm KN72.
Trong các kiến nghị của mình, nhóm KN72 đưa ra luận điệu đòi phi chính trị đối với lực lượng vũ trang, với lập luận hết sức đơn điệu và lạc lõng là: “Lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào, như quy định tại Điều 70 của Dự thảo...”, sau đó họ ngang nhiên tuyên bố : “Chúng tôi yêu cầu bỏ quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”. Đòi hỏi phi lý này của nhóm KN72 thật là lố bịch.
Ai cũng biết rằng lực lượng vũ trang được sinh ra từ nhân dân, họ là con, dân của đất Việt, vì nhân mà phục vụ, vì nhân dân mà chiến đấu, có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Làm nhiệm vụ là công cụ chuyên chính sắc bén đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính sự tuyệt đối trung thành, hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng mà gần bảy thập niên qua, quân đội ta đã xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, thêu dệt nên truyền thống anh hùng, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc và nhân dân Việt Nam, là người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân ân cần chỉ bảo: “Phải xây dựng và lãnh đạo vững chắc lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân, bảo đảm đánh thắng bất cứ kẻ thù nào, bất cứ trong hoàn cảnh nào. Phải luôn luôn củng cố và tăng cường Nhà nước dân chủ nhân dân, kiên quyết giữ vững chuyên chính đối với kẻ thù của dân tộc, của giai cấp và thực hiện dân chủ thật sự đối với nhân dân”.
Thực tiễn đã chứng minh lực lượng vũ trang nói chung và Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng đã đánh thắng các đội quân xâm lược nhà nghề hùng mạnh nhất của thế giới là Pháp và Mỹ... Truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam là trung với Đảng, trung với Nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc bền vững của nhân dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Thực tế lịch sử cách mạng nước ta cho thấy, nếu không có lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành và bách chiến bách thắng thì liệu đất nước Việt Nam có được như hôm nay? Từ sau chiến thắng mùa xuân 1975 lịch sử đến nay, dưới sự lãnh đạo sâu sát, sáng tạo và kịp thời của Đảng, lực lượng vũ trang ta đã đánh tan quân xâm lược ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc vào những năm 1976-1979, bảo vệ toàn vẹn biên cương ở hai đầu Tổ quốc, sau đó là liên tiếp dẹp tan nhiều vụ bạo loạn mang màu sắc chính trị, do các thế lực thù địch trong nước cấu kết với bọn phản động nước ngoài thực hiện. Đó là những bài học xương máu, cảnh tỉnh cho chúng ta về sự trung thành vô hạn của quân đội đối với Đảng. Hay nói cách khác rằng, lục lượng vũ trang Việt Nam cần phải luôn luôn đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; tuân thủ đường lối quân sự và phương châm chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc do Đảng ta định hướng. Nếu thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng nghĩa với việc lực lượng vũ trang ta sớm hoặc muộn sẽ mất phương hướng chiến đấu, không xác định được đối tượng tác chiến, chắc chắn sẽ thất bại trên chiến trường, đó là điều chúng ta nhất quyết không để xảy ra. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Sự đoàn kết nhất trí giữa Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân ta trở thành một lực lượng vô cùng to lớn. Nó giúp ta vượt tất cả mọi khó khăn gian khổ. Nó rèn luyện cho chiến sĩ, cán bộ và đồng bào ta thành những người anh hùng”. Liên hệ với thực tiễn cách mạng Việt Nam để kiểm nghiệm lời nói ấy của Người quả không sai chút nào.

Thứ Ba, 15 tháng 3, 2016

CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CHỐNG PHÁ BẦU CỬ QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP


Những ngày gần đây, các phần tử thù địch, bọn cơ hội chính trị càng điên cuồng chống phá cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 với những thủ đoạn mới, rêu rao rằng: “Ở Việt Nam làm gì có dân chủ trong bầu cử, ứng cử - đó là cơ chế  “Đảng cử - dân bầu”,  là “dân chủ trình diễn”…; phải sửa đổi hệ thống bầu cử, tạo điều kiện cho tất cả mọi người được ứng cử tự do… còn nếu với cách tổ chức bầu cử và cơ chế bầu cử theo quy định này thì đối với nhiều đại biểu có thể tự mình công bố mình trúng cử và có đủ tư cách đại biểu mà không cần phải tổ chức bầu cử tốn tiền thuế của dân…”.
Bầu cử là việc công dân của một quốc gia lựa chọn những người đại diện để trao quyền cho họ thay mặt mình quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước. Mỗi quốc gia có cách tổ chức và quy định bầu cử khác nhau, không thể lấy mô hình của nước này áp đặt lên nước khác được bởi vì hệ thống chính trị nói chung, hệ thống bầu cử nói riêng trên thế giới hiện rất đa dạng, cho nên tùy thuộc vào chế độ chính trị, lịch sử, văn hóa, kinh tế của quốc gia - dân tộc và xu thế tiến bộ của nhân loại như thế nào. Về kỹ thuật cũng có nhiều mô hình khác nhau: mô hình bầu cử ở các quốc gia theo chế độ đa đảng (lấy việc bầu cho đại diện của mỗi đảng làm tiêu chí) khác với các quốc gia bầu cử theo tỷ lệ cử tri và theo địa bàn hành chính; mô hình bầu cử trực tiếp khác với mô hình bầu cử gián tiếp - thông qua đại cử tri… Song về tổng quan luật bầu cử một số nước trên thế giới hiện nay là theo nguyên tắc “phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”.
Ở Việt Nam, Hiến pháp và Luật Bầu cử Việt Nam quy định: cử tri bầu đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Những quy định của pháp luật bầu cử ở Việt Nam thể hiện một cách nhất quán nhận thức về các nguyên tắc bầu cử để đảm bảo ý chí của nhân dân, phù hợp với xu hướng tiến bộ xã hội. Tuyên ngôn nhân quyền mà Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1948 đã nêu rõ: “Ý chí của nhân dân phải là cơ sở của quyền lực Nhà nước. Ý chí này thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và chân thực, theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín hoặc bằng những tiến trình bầu cử tự do tương đương”.
Vấn đề họ đưa ra cho rằng ở Việt Nam “Đảng cử, dân bầu”,  bầu cử ở Việt Nam chỉ là “dân chủ hình thức, dân chủ trình diễn”, “hầu hết đại biểu dân cử đều là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam thì sao là có dân chủ được?”. Đây là một kiểu lập luận mù quáng. Xin hỏi các nhà “dân chủ Việt” trên thế giới này có quốc gia nào không có vận động bầu cử của các đảng phái chính trị, không có “đảng cử, dân bầu”, không có “trình diễn dân chủ”. Trong các nước tư bản, các đảng phái chính trị đóng vai trò rất lớn trong việc giới thiệu ứng cử viên. Việc giới thiệu này đã trở thành một trong những chức năng chính trị lớn nhất của các đảng phái chính trị. Chính vì vậy, bầu cử là cuộc đấu tranh hết sức gay gắt giữa các đảng phái. Ở Cộng hòa liên bang Đức, việc giới thiệu ứng cử viên đại biểu Nghị viện là độc quyền của các đảng phái chính trị. Những đảng có từ 5 ghế trở lên trong Nghị viện mới có quyền giới thiệu ứng cử viên nghị sĩ khóa tiếp theo. Những đảng mới được thành lập, muốn được giới thiệu phải đệ trình cơ quan phụ trách bầu cử cấp liên bang những chứng từ có liên quan đến hoạt động của đảng mình như: điều lệ, cương lĩnh, số lượng đảng viên và các cơ quan cấu thành. Ở Mỹ, đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ thực hiện quyền đề cử của mình bằng cách tiến hành các cuộc bầu cử sơ bộ trong nội bộ đảng của mình và đưa các ứng cử viên nhiều triển vọng nhất ra tranh cử Tổng thống. Ngoài việc giới thiệu ứng cử viên do các đảng phái tiến hành, các ứng cử viên tự do cũng có quyền tự ứng cử, các ứng cử viên tự do muốn được ghi tên vào danh sách ứng cử viên chính thức đòi hỏi phải được một số lượng cử tri nhất định ủng hộ và đề cử, đồng thời phải nộp một khoản tiền bảo đảm. Nếu ứng cử viên không đạt được một tỷ lệ phiếu bầu thích hợp thì khoản tiền này phải sung công quỹ.
Trở lại vấn đề xuyên tạc cuộc bầu cử ở Việt Nam hiện nay, họ cố tình phớt lờ những quy định của pháp luật về quyền bầu cử và ứng cử là những quyền chính trị cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp - đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật của Nhà nước. Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta đã ghi nhận quyền này tại Điều 18 như sau: “Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử trừ những người mất trí và những người mất công quyền. Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử”, và tiếp tục được khẳng định xuyên suốt trong các bản Hiến pháp năm 1959 (tại Điều 23), Hiến pháp năm 1980 (tại Điều 57), Hiến pháp năm 1992 (tại Điều 54), Hiến pháp năm 2013 (tại Điều 27). Hiến pháp hiện hành của nước ta quy định: “Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND”. Luật Bầu cử số 85/2015/QH13 ở Việt Nam. Điều 2: Tính đến ngày bầu cử được công bố, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND các cấp theo quy định của Luật này. Tại Khoản 5 Điều 4 Luật Bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp năm 2015 quy định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp; tham gia giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp”. Như vậy, Việt Nam không hề có hạn chế quyền ứng cử tự do của công dân nếu họ xét thấy mình đủ đức, đủ tài ra gánh vác công việc chung của đất nước và được nhân dân tín nhiệm.
Ấy vậy mà có người lại cố tình hiểu sai hoặc lờ tịt vấn đề chính và có những hành động nhắm mắt nói liều, la lối, kêu gọi Việt Nam nhất thiết phải thay đổi mô hình dân chủ theo phương Tây. Quả thật đây là một cách lập luận điển hình cho tư duy dân chủ, nhân quyền nhập ngoại. Họ không thể đánh lừa được nhân dân Việt Nam với chiêu bài dân chủ, nhân quyền hòng can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Chính vì vậy, mỗi người dân có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt, trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, chúng ta phải tỉnh táo phân biệt những thông tin đúng, chính thống để giữ vững niềm tin, hành động đúng đắn, tránh rơi vào luận điệu xuyên tạc của kẻ thù.


TRAO ĐỔI: VẬN DỤNG LINH HOẠT CÁC HÌNH THỨC, PHƯƠNG PHÁP ĐẤU TRANH CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG, VĂN HÓA



Vấn đề quan trọng quyết định đến việc nâng cao năng lực đấu tranh của mỗi người phụ thuộc vào động cơ, thái độ, trách nhiệm, tính tích cực, tự giác của bản thân họ để nhận diện đấu tranh phê phán, vạch trần, những luận điệu xuyên tạc chống phá ta. Trong đó, cần phát huy tối đa các hình thức, phương pháp như: tham gia hội thảo khoa học, trao đổi, viết bài đăng báo, tạp chí; đồng thời tích cực đấu tranh thông qua việc viết tin, bài phản ánh trên các phương tiện truyền thông đại chúng, trên mạng Internet, các trang mạng xã hội như: Facebook, Blog, Twitter, Youtube, Google plus,...
Trước những thông tin đa chiều trên các phương tiện thông tin hiện đại như hiện nay, việc thu thập, xử lý thông tin, phát hiện vấn đề trong đấu tranh tư tưởng, văn hóa là hết sức phức tạp, đòi hỏi mọi người cần nhanh nhạy với cái mới, vận dụng linh hoạt hệ thống các kỹ năng; tinh tế, nhanh nhạy trong phân tích, gạt bỏ cái hiện tượng, tìm bản chất của vấn đề, kịp thời xác định đúng đối tượng, nội dung đấu tranh. Cần có phương pháp thu thập và xử lý thông tin đa chiều, kịp thời phát hiện vạch trần bản chất phi khoa học của các quan điểm sai trái. Quá trình đấu tranh cần có nội dung cụ thể, liên tục, không làm theo mùa vụ, kết hợp đấu tranh thường xuyên, định kỳ với đấu tranh cao điểm trong từng thời kỳ cụ thể, trong đó tập trung nhất là vào thời điểm tổ chức các sự kiện lớn của Đảng, Nhà nước và quân đội.
“Một giọt nước không tạo thành đại dương mênh mông” nhưng việc làm  làm này sẽ góp phần không nhỏ làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

CHỦ ĐỘNG NHẬN DIỆN VẠCH TRẦN BẢN CHẤT ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG, VĂN HÓA*




Nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã sử dụng các thủ đoạn phi vũ trang là chủ yếu để tiến công chống phá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa với âm mưu của chúng là đòi xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phá vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và của toàn xã hội ta, tạo ra trong xã hội Việt Nam “khoảng trống về ý thức hệ”, từ đó truyền bá tư tưởng tư sản vào các tầng lớp nhân dân.
Táo tợn hơn chúng còn xuyên tạc quá khứ hào hùng của dân tộc, đánh vào những vấn đề có tính nguyên tắc sống còn của Đảng nhằm phá vỡ niềm tin, đánh từ trong nội bộ đối phương, làm cho “cộng sản tự diệt cộng sản”, với những thủ đoạn khác nhau để tạo cớ can thiệp vào nội bộ ta. Chúng còn thực hiện “xâm nhập” về văn hóa, làm mất bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam, làm phai mờ các giá trị văn hóa truyền thống và cách mạng, gieo rắc văn hóa tư sản phản động, suy đồi, biến Việt Nam thành “thuộc địa văn hóa”, dùng “đòn văn hóa” để tiến công về chính trị, chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa. Rõ ràng với những âm mưu thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, công khai, trắng trợn đã tỏ rõ tính chất nguy hại của chúng trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa mà trọng tâm là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” một âm mưu, thủ đoạn hết sức nguy hiểm và thâm độc.
Do vậy, mọi người cần nhận diện rõ bản chất âm mưu, thủ đoạn của chúng, tỏ rõ thái độ kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, tuyệt đối không mơ hồ, lẫn lộn mất cảnh giác để từ đó nâng cao sức “tự đề kháng” và có biện pháp kịp thời không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

CẢNH GIÁC TRƯỚC THỦ ĐOẠN “ĐÁNH TRÁO KHÁI NIỆM” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA



          Với dã tâm phá hoại nền độc lập, tự do dân tộc và những thành quả cách mạng của nhân dân ta. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, kết hợp với bạo loạn lật đổ nhằm chống phá Đảng, Nhà nước ta trên mọi lĩnh vực. Ở phương diện lý luận, chúng đã và đang cố gắng thực hiện cái gọi là “xóa bỏ niềm tin cộng sản”, phủ nhận lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc, bôi nhọ để đi đến hạ bệ lãnh tụ của Đảng, Nhà nước ta. Một trong những thủ đoạn đang được chúng triệt để thực hiện hiện nay là tiến hành “đánh tráo khái niệm”, đổi đen thành trắng, gây sự nhầm lẫn trong nhận thức của người dân mà đặc biệt là giới trẻ.
          Đánh tráo khái niệm được hiểu đó là thủ thuật lập luận quanh co, vi phạm luật lôgíc nhằm làm cho người khác hiểu sai sự thật. Nó được thực hiện bằng cách dựa vào những chỗ giống nhau bề ngoài để đánh tráo giữa hiện tượng với bản chất, giữa nội dung với hình thức, giữa các sự vật với nhau…Thực chật đây là cách lập luận ngụy biện với mục đích không phải là vạch ra chân lý, mà là che giấu sự thật.
          Gần đây, bằng những thủ đoạn tráo trở và cách lập luận sai lệch có chủ đích trên các trang mạng xã hội, các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam đã liên tục cổ vũ cho Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, tung hô các blogger: Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần... phong cho họ là “người hùng” của lớp trẻ, là “mẫu hình” thanh niên thời đại mới và là những “thanh niên yêu nước chân chính” của dân tộc để so sánh với hình ảnh của những anh hùng, liệt sỹ, những người có công với cách mạng như Võ Thị Thắng, Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm.... Từ đó, họ cố tình xuyên tạc Đảng và Nhà nước ta đã đàn áp, giam cầm, bỏ tù những ai dám đứng lên tranh đấu vì “yêu nước”, vì cái gọi là tự do, dân chủ, nhân quyền theo cách nghĩ và cách hiểu của riêng chúng…. Cùng với đó, trên các trang mạng xã hội hiện nay đã xuất hiện không ít lời kêu gọi, phát động giới trẻ tham gia biểu tình, xuống đường để thể hiện “lòng yêu nước”.
Cá biệt, còn có trang mạng công khai thể hiện rõ sự kích động bằng lập luận “bất đồng chính kiến là yêu nước”... Họ còn tự đặt cho mình nhiều cái tên như  “Nhật ký yêu nước” “Người Việt yêu nước” “Chân dung quyền lực”… nhằm thu hút sự chú ý của người đọc để tuyên truyền xuyên tạc, kích động, lôi kéo lực lượng và hô hào thanh niên xuống đường biểu tình, gây mất ổn định và trật tự xã hội, tạo ra những “điểm nóng” về chính trị để kêu gọi sự can thiệp bằng quân sự từ bên ngoài.
Cách so sánh, lập luận như trên của họ đã thể hiện sự vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc lôgíc, đem quy những hiện tượng hoàn toàn khác nhau về bản chất vào với nhau. Họ đã cố tình lợi dụng lòng yêu nước cao cả, chân chính và làm mờ, làm nhòe, để gán ghép với những việc làm phản bội lại đất nước...  Từ đó tạo cơ sở để đổi đen thành trắng và “gán” cho những hành động vĩ cuồng, những phát ngôn thiếu trách nhiệm, những hành vi sai trái đi ngược lợi ích cộng đồng dân tộc một “khái niệm thiêng liêng” đối với dân tộc ta là “lòng yêu nước”.
Chúng ta cần hiểu rằng lòng yêu nước chân chính phải là tình cảm yêu quý, gắn bó, tự hào về quê hương, đất nước và tinh thần sẵn sàng đem hết tài năng, trí tuệ của mình phục vụ lợi ích của Tổ quốc. Các biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam ta bao gồm: Tình cảm gắn bó với quê hương đất nước; tình thương yêu đối với đồng bào, giống nòi, dân tộc; niềm tự hào dân tộc chính đáng; đoàn kết, kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm, để bảo vệ chủ quyền dân tộc và nền độc lập tự do của Tổ quốc; cần cù và sáng tạo trong lao động để xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp. 
Trong tác phẩm “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. 
          Như vậy, trước mỗi vấn đề của hiện thực cuộc sống luôn có nhiều thông tin đa chiều. Điều đó đòi hỏi mỗi người dân mà trước hết là thế hệ trẻ khi khai thác, sử dụng cần có sự chọn lọc, cần phải thật sự “tỉnh táo” để không bị mắc lừa, “sập bẫy” kẻ thù. Đồng thời còn để chủ động đấu tranh vạch trần những luận điệu xuyên tạc thâm độc của kẻ thù, góp phần bảo vệ vững chắc Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.

Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2016

KHÔNG THỂ KHÔNG ĐẶT QUÂN ĐỘI DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO TUYỆT ĐỐI, TRỰC TIẾP VỀ MỌI MẶT CỦA ĐẢNG.



KHÔNG THỂ KHÔNG ĐẶT QUÂN ĐỘI DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO TUYỆT ĐỐI, TRỰC TIẾP VỀ MỌI MẶT CỦA ĐẢNG.
Thực tiễn đã minh chứng rằng: Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là nguyên tắc căn bản, một qui luật trong sự nghiệp xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, đồng thời đó là nguồn sức mạnh chủ yếu, quyết định mọi thắng lợi và trưởng thành của quân đội.
Ấy vậy mà, trong tình hình hiện nay, không ít kẻ “không ngượng mồm” kêu gào đòi “Phi chính trị hóa quân đội”. Phải chăng là vậy? Một sự tuyên truyền lừa dối không thể chấp nhận.
Chiến tranh bao giờ cũng là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực. Chiến tranh là biểu hiện tập trung nhất của cuộc đấu tranh chính trị. Quân đội tồn tại với tư cách là công cụ để tiến hành chiến tranh. Vì vậy, quân đội bao giờ cũng là công cụ của chính trị, gắn liền với chính trị, không bao giờ có quân đội trung lập, phi chính trị, đứng ngoài chính trị.
Lịch sử loài người từ khi phân chia giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp. Đó là quy luật khách quan. Để phục vụ cho đấu tranh giai cấp. Thực hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị phải tổ chức ra Nhà nước và quân đội. Với tư cách là một bộ máy của giai cấp thống trị thì quân đội là công cụ của Nhà nước, một bộ phận trong bộ máy Nhà nước, Quân đội tồn tại với tư cách là công cụ bạo lực của Nhà nước, của giai cấp thống trị để bảo vệ và thực hiện mục đích chính trị của một giai cấp nhất định. Do đó, khi Nhà nước ra đời thì quân đội cũng ra đời. Quân đội là một hiện tượng lịch sử, ra đời do nhu cầu của các cuộc đấu tranh giai cấp, gắn liền với sự xuất hiện của nhà nước, bao giờ cũng mang bản chất của một nhà nước nhất định. Thực tiễn đó cho thấy, trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, cả nhà nước và quân đội, ngay từ lúc mới ra đời đã thấm đượm bản chất chính trị của giai cấp đã tổ chức và nuôi dưỡng nó. Không có và không thể có quân đội phi giai cấp, đứng ngoài chính trị. Mọi sự tuyên truyền về thứ “quân đội phi chính trị” chỉ là một sự lừa dối. Bản thân các giai cấp cầm quyền bao giờ cũng sử dụng Quân đội như là một lực lượmg chính trị để bảo vệ quyền lợi của mình.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân, dùng bạo lực cách mạng, đập tan bộ máy Nhà nước của giai cấp tư sản, lập nên Nhà nước chuyên chính vô sản và dùng Nhà nước đó làm công cụ để bảo vệ quyền thống trị của mình đối với toàn thể xã hội. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ vẻ vang đó, giai cấp vô sản tất yếu phải có lực lượng vũ trang của giai cấp mình, lãnh đạo lực lượng vũ trang đó cùng với nhân dân lao động đấu tranh lật đổ giai cấp thống trị và bảo vệ thành quả cách mạng.
Lịch sử cho thấy giai cấp tư sản không bao giờ tự nhường quyền thống trị của mình cho giai cấp vô sản, mà bằng mọi cách thường xuyên tăng cường bộ máy bạo lực khổng lồ để đàn áp, tiêu diệt các cuộc cách mạng của giai cấp vô sản. Cho nên để có thể chiến thắng được chúng, giai cấp vô sản phải nắm vững và kiên quyết tiến hành bạo lực cách mạng, phải vũ trang trong quần chúng, phải tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng của mình để đập tan bạo lực phản cách mạng của giai cấp tư sản, đập tan bộ máy cai trị của chúng, thiết lập chính quyền mới, thực hiện sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản. Bởi vậy, tiến hành bạo lực cách mạng là con đường , là qui luật để đi đến thắng lợi của cách mạng vô sản. Chính Đảng của giai cấp công nhân chẳng những phải xây dựng cương lĩnh, chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng đúng, mà đặc biệt coi trọng xây dựng lực lượng cách mạng. Trong đó, nhất thiết phải tổ chức ra lực lượng vũ trang nhân dân, mang bản chất giai cấp công nhân, mà lòng cốt là quân đội cách mạng, để cùng toàn dân đánh giặc giữ nước, giàng và giữ chính quyền, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền và những thành quả cách mạng đã giành được.
  Quân đội là công cụ bạo lực của giai cấp để tiến hành đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nhiệm vụ chính trị của Đảng là mục tiêu chiến đấu của quân đội. Quân đội không có mục tiêu nào khác là chiến đấu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng. Chức năng chủ yếu của quân đội là chiến đấu, bảo vệ Đảng, bảo vệ giai cấp, bảo vệ chế độ, bảo vệ Nhân dân, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc. Đặc điểm hoạt động của Quân đội là hoạt động tập trung, có sự thống nhất cao, có kỷ luật nghiêm minh, hoạt động theo điều lệnh quân đội và mệnh lệnh của người chỉ huy, yêu cầu hoạt động phải khẩn trương, bí mật,hợp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng... mặt khác điều kiện và môi trường hoạt động của quân đội luôn luôn gắn liền với sự gian khổ,khó khăn ác liệt, gắn liền với đổ máu, hy sinh... Điều kiện hoạt động ấy đòi hỏi cán bộ, chiến sỹ trong quân đội phải có sự giác ngộ cao độ về chính trị, phải có lòng trung thành tuyệt đối với Đảng với Tổ Quốc với Nhân Dân sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì mục tiêu lý tưởng của Đảng.
Thực tiễn trên thế giới cũng cho thấy từ trước đến nay bất kỳ một giai cấp, một lực lượng chính trị - xã hội nào nắm quyền thống trị xã hội thì bao giờ cũng nắm quyền lãnh đạo và chỉ đạo quân đội, bởi Đảng là vắn đề có ý nghĩa sống còn của chế độ xã hội cũng như của giai cấp cầm quyền. Ngược lại nếu tổ chức, lực lượng chính trị - xã hội nào nắm quyền lãnh đạo xã hội mà không nắm quyền lãnh đạo quân đội thì trước sau quyền lãnh đạo xã hội của lực lượng chính trị xã hội ấy cũng bị lật đổ. Bài học xương máu của Liên Xô đã chứng minh: Một quân đội hùng mạnh, được trang bị vũ khí hàng đầu thế giới nhưng lại không bảo vệ được Đảng thậm chí còn quay lại chống Đảng. Sở dĩ như vậy, bởi một trong những sai lầm của Đảng Cộng sản Liên Xô, đã buông lỏng sự lãnh đạo quân đội, để cho quân đội bị phi chính trị hoá, quân đội đã bị mất phương hướng, mục tiêu chiến đấu, từ bỏ lập trường giai cấp, quân đội đứng ngoài chính trị, do vậy chế độ xã hội chủ nghĩa cũng nhanh chóng tan rã và Đảng Cộng sản Liên Xô cũng mất quyền lãnh đạo xã hội.
Đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, thực tiễn qua các cuộc kháng chiến vĩ đại đã chứng minh rằng: chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam thì quân đội mới có đường lối quân sự, chính trị cũng như mục tiêu chiến đấu đúng đắn. vì vậy đã giúp cho quân đội có sức mạnh vô địch vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, liên tục giành được những thắng lợi vẻ vang, thực sự là quân đội cách mạng, xứng đáng với danh hiệu mà Đảng, nhà nước và nhân dân trao tặng “Quân đội anh hùng”. Sức mạnh chiến đấu của quân đội, mọi chiến công, thành tích của quân độỉ trong giải phóng dân tộc, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng. sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản, chủ yếu quyết định sự trưởng thành và chiến thắngcủa Quân đội nhân dân Việt Nam .
  Như vậy, chỉ xét về mặt thực tiễn cũng đã khẳng định chắc chắn rằng: không thể không đặt quân đội dưới sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng.