Thứ Ba, 12 tháng 9, 2023

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG TRONG THỜI KỲ MỚI

  

Trong mỗi giai đoạn lịch sử, nhận thức mới, tư duy mới về vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc của Việt Nam luôn được bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát triển của đất nước. Việc giải quyết tốt vấn đề dân tộc để phát huy vai trò của các dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của đất nước và vì lợi ích của từng dân tộc luôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng. Chính vì vậy từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn coi việc vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa thể hiện trong hoạch định và thực hiện chính sách dân tộc là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam.

Thứ nhất, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đảng ta xác định, vấn đề dân tộc “có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta"... Việc xác định vị trí chiến lược lâu dài của công tác dân tộc chính là xuất phát từ đặc điểm của cộng đồng dân tộc ở nước ta. Bởi vì, vấn đề dân tộc vừa là vấn đề giai cấp, vừa là vấn đề quốc phòng - an ninh và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trong điều kiện của một quốc gia đa tộc người, đa dạng về văn hóa như ở Việt Nam. Đó là một đặc điểm lớn, là đặc trưng, diện mạo lịch sử, văn hóa của Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng từ lần thứ II đến lần thứ V đều nhấn mạnh nguyên tắc “Đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc’’, Văn kiện Đại hội VI đến lần thứ XI, nguyên tắc này tiếp tục được khẳng định và bổ sung là: “Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau’’ (Đại hội VI, VII), “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ’’ (Đại hội VIII), “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển’’ (Đại hội IX), “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ’’ (Đại hội X), “Bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ” (Đại hội XI), “Bình đẳng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát  triển” (Đại hội XII). Đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí chiến lược của chính sách đoàn kết các dân tộc trên cơ sở “bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”.

          Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đó là nhân tố quan trọng, có ý nghĩa then chốt đối với sự phát triển đất nước. Đó là cơ sở để thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng, là động lực mạnh mẽ của tiến trình phát triển đất nước hiện nay.

          Thứ hai, bình đẳng giữa các dân tộc là quyền ngang nhau của các dân tộc, không phân biệt dân tộc đó là đa số hay thiểu số, trình độ văn hóa, dân trí cao hay thấp, là bình đẳng trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và được bảo đảm bằng pháp luật. Điều 5 Hiến pháp xác định "các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc", "Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước". Theo đó, bình đẳng giữa các dân tộc thể hiện trước hết ở sự bảo đảm và tạo mọi điều kiện để các dân tộc có cơ hội phát triển ngang nhau. Thực hiện chính sách bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để bảo đảm công bằng xã hội giữa các dân tộc, đây là một một quá trình lâu dài. Công bằng xã hội không có nghĩa là cào bằng, dàn đều, mà thể hiện ở khâu phân phối tư liệu sản xuất và phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người, mọi cộng đồng, dân tộc có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực, tiềm năng, thế mạnh của mình.

          Thứ ba, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc là quan điểm xuyên suốt của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Tư duy mới, vấn đề dân tộc được đặt trong xây dựng quan hệ giữa các dân tộc và con đường phát triển của các dân tộc; chính sách dân tộc được gắn với đường lối chính trị, với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Điều này thể hiện rõ mục tiêu trong chính sách dân tộc của Đảng ta là không ngừng nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị của từng dân tộc; làm cho mỗi dân tộc được phát triển một cách toàn diện và bền vững; đồng thời, qua đó, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết giữa các dân tộc.

          Thứ tư, đặc điểm, điều kiện của từng vùng, từng dân tộc. Đảng ta đặc biệt chú trọng và cụ thể hơn vấn đề dân tộc, nhấn mạnh, sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải gắn với đặc điểm riêng của từng dân tộc và điều kiện, đặc điểm của từng vùng: “Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm của từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc thiểu số khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.”. xuất phát từ tình hình thực tế của đồng bào dân tộc Việt Nam cư trú xen kẽ nhau. Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở Việt Nam ngày càng gia tăng. Các dân tộc không có lãnh thổ riêng, không có nền kinh tế riêng. Vấn đề này luôn được Đảng ta quan tâm. Trên cơ sở đánh giá toàn diện về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và xuất phát từ yêu cầu của tình hình mới, từ thực tế vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở nước ta. Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế trong thực hiện chính sách về dân tộc. Trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững”. Việc áp dụng các chính sách cụ thể cho từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số là một bước tiến quan trọng, thể hiện sự đổi mới trong nhận thức của Đảng về sự công bằng trong phát triển giữa các dân tộc và các vùng, miền nói chung. Từ các tiêu chí phân chia vùng, miền (khu vực bước đầu phát triển, khu vực ổn định và khu vực khó khăn), Nhà nước đã có những chính sách đầu tư thích hợp cho mỗi nhóm đối tượng, theo đó, những khu vực khó khăn hơn sẽ nhận được những ưu đãi đặc biệt về quy mô đầu tư, để giúp cho những khu vực này nhanh chóng theo kịp trình độ phát triển chung của cả nước.

Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng triệt để vấn đề dân tộc, nhất là lợi dụng sự khác biệt của các dân tộc để chia rẽ, phá hoại, làm suy yếu các dân tộc và các lực lượng cách mạng, từng bước thực hiện âm mưu đen tối của chúng là nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, và buộc tất cả các dân tộc trên thế giới phải đi vào quỹ đạo, hoặc lệ thuộc vào chúng. Vì vậy, việc bảo vệ các dân tộc khỏi sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc là một nhiệm vụ cấp bách của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Trước nguy cơ “diễn biến hoà bình” trước việc một số thế lực lợi dụng vai trò giúp đỡ, viện trợ, đặt  cao hơn chủ quyền để can thiệp vào công cuộc nội bộ của các nước, hiên nay, hơn lúc nào hết, chúng ta cần quán triệt lời dạy của Hồ Chí Minh: Mỗi một người phải nhớ rằng có độc lập mới tự lập, có tự cường mới tự do. Hồ Chí Minh khẳng định: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác". Để đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, cần phải tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, làm rõ tính đúng đắn của chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với chính sách dân tộc ở nước ta.

Để góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch lợi dụng chính sách dân tộc của Đảng để chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam đòi hỏi phải quán triệt sâu sắc những quan điểm cơ bản giải quyết vấn đề dân tộc trong thời kỳ đầu đổi mới, cụ thể như sau:

 Một là, Nhân dân cả nước cùng đồng bào các dân tộc kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội  mà Bác Hồ, Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn

Ngay từ buổi đầu lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Bác Hồ và Đảng ta đã xác định mục tiêu cách mạng Việt Nam không chỉ dừng lại ở giải phóng các dân tộc thoát khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến mà mục tiêu cao hơn là đưa các dân tộc Việt Nam đi lên CNXH, vượt qua nghèo nàn lạc hậu xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Thực tiễn cách mạng thế giới đã chứng minh chỉ có cách mạng XHCN mới có khả năng giải quyết tận gốc áp bức dân tộc, xác lập mối quan hệ giữa các dân tộc thực sự bình đẳng, đoàn kết giúp nhau xây dựng cuộc sống mới. Vận mệnh và tương lai của các dân tộc gắn liền với vận mệnh và tương lai của đất nước, cùng chung một Đảng lãnh đạo, một con đường đi lên CNXH.

Trong công cuộc xây dựng đất nước các dân tộc muốn tồn tại và phát triển, phải đi lên CNXH “ Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc”. Việc giải quyết VĐDT được đảm bảo trong xây dựng nhà nước Việt Nam XHCN chung của mọi thành phần dân tộc, điều đó được thể hiện trong Hiến Pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992: “Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam” nhà nước phải bảo đảm “ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

Trong bối cảnh quốc tế trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định con đường đi lên CNXH là hết sức đúng đắn, thể hiện quyết tâm của toàn thể dân tộc Việt Nam thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng mà Bác Hồ, Đảng và toàn dân ta đã lựa chọn          Hai là, cách mạng XHCN ở vùng dân tộc là sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trước hết là sự nghiệp cách mạng của đồng bào các dân tộc và người Kinh ở miền núi

Cách mạng XHCN ở miền núi và dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng XHCN ở nước ta là một bộ phận khăng khít của cách mạng XHCN ở nước ta, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích trực tiếp của đồng bào miền núi, vì lợi ích chung của Nhân dân cả nước.

Đảng ta chủ trương giải quyết VĐDT trên cơ sở sự đoàn kết, thống nhất, đảm bảo lợi ích của các dân tộc và phát huy vai trò trách nhiệm của các dân tộc trong tiến hành cách mạng XHCN trên vùng dân tộc, miền núi, thực hiện thắng lợi mọi đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong đó phải đặc biệt coi trọng vai trò năng động, sáng tạo của các địa phương và cơ sở, quyền làm chủ của đồng bào các dân tộc.

Để phát huy thế mạnh của từng vùng, ở mỗi dân tộc, Đảng ta yêu cầu phải nắm vững phương châm: Trung ương và địa phương cùng làm. Nhà nước và Nhân dân cùng làm, khắc phục tư tưởng cục bộ địa phương, cục bộ dân tộc, ỷ lại trên, coi nhẹ khả năng của đồng bào các dân tộc; phải kiên quyết chống tư tưởng chỉ khai thác tài nguyên, coi nhẹ đầu tư tái tạo, bồi đắp và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên dẫn tới cạn kiệt, môi trường bị tàn phá gây hậu quả lâu dài cho miền núi và cả nước. Trong công cuộc đổi mới giải quyết tốt VĐDT nhằm xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc cách mạng XHCN ở miền núi, trực tiếp phục vụ lợi ích của các dân tộc, gắn liền lợi ích của mỗi dân tộc với lợi ích của cả nước, đưa đồng bào các dân tộc tiến tới cuộc sống ấm no, văn minh, tiến bộ.

Ba là, quan điểm cơ bản trong giải quyết VĐDT là đảm bảo cho miền núi, dân tộc phát triển một cách toàn diện cả về chính trị, kinh tế văn hóa xã hội và an ninh quốc phòng, nâng cao cuộc sống vật chất tinh thần của các dân tộc, giải quyết hài hòa lợi ích các dân tộc, giữa dân tộc với quốc gia

Quan điểm nhất quán của Đảng ta là phải tăng cường hơn nữa khối đoàn kết giữa các dân tộc, tạo cơ sở phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc và thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng XHCN trên phạm vi cả nước. Đảng ta chỉ rõ, nền tảng vững chắc của đoàn kết dân tộc là thực hiện trên thực tế nguyên tắc bình đẳng dân tộc, các dân tộc tương trợ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Về mọi mặt, trước hết là giúp nhau thực hiện quyền bình đẳng về kinh tế “ Để thực hiện trên thực tế quyền bình đẳng giữa các dân tộc, một mặt pháp luật phải bảo đảm quyền bình đẳng đó, mặt khác phải có chính sách và tạo điều kiện để Nhân dân các dân tộc miền núi vươn lên mạnh mẽ, phát triển kinh tế - văn hóa, từng bước nâng cao năng suất lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, coi trọng và đào tạo cán bộ người dân tộc, tôn trọng và phát huy những phong tục tập quán và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc”.

Cùng với công cuộc đổi mới XHCN trên phạm vi cả nước, đối với miền núi và dân tộc Đảng ta chủ trương phát triển nhanh kinh tế - xã hội miền núi, phát triển kinh tế hàng hóa, thu hẹp tự cung tự cấp. Phát triển miền núi toàn diện Đảng ta luôn chăm lo bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Phát huy vai trò làm chủ của đồng bào dân tộc và năng lực sáng tạo của các địa phương, vấn đề then chốt và lâu dài là đặc biệt coi trọng xây dựng hệ thống chính trị cơ sở và đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới. Có quan điểm đúng, có đội ngũ cán bộ vững vàng, có chính sách phù hợp với tình hình các dân tộc, công cuộc xây dựng CNXH của Nhân dân cả nước ta trên địa bàn miền núi, dân tộc giai đoạn đầu thời kỳ đổi mới đã thu được những thành công quan trọng góp phần đảm bảo cho đồng bào các dân tộc nhất là các dân tộc miền núi có cuộc sống ấm no văn minh tiến bộ.

Bốn là, nắm vững chủ trương phát triển có kế hoạch nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đi lên CNXH, điều chỉnh lại quan hệ sản xuất ở miền núi cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, tôn trọng quyền làm chủ của Nhân dân, tôn trọng đặc điểm kinh tế xã hội và đặc điểm tự nhiên của các dân tộc trong quá trình thực hiện chính sách chung

Đảng ta yêu cầu toàn thể Cán bộ, Đảng viên phải nắm vững các quy luật cách mạng XHCN, vận dụng sáng tạo vào cuộc cách mạng nước ta. Đối với các dân tộc, trên cơ sở các quy luật cơ bản của cách mạng XHCN, phải xuất phát từ đặc điểm, trình độ kinh tế - văn hóa, cấu trúc xã hội, tâm lý và nếp sống, phong tục và tôn giáo để vận dụng cho phù hợp với lực lượng sản xuất của các dân tộc. Các dân tộc nước ta bước vào xây dựng CNXH, bên cạnh một bộ phận đã ở trình độ cao tương đương người Kinh ( Thái, Mường, Tày, Nùng, Khơ-Me, Hoa…) vẫn còn một bộ phận dân tộc đang ở trình độ thấp, thậm chí có dân tộc mới bước vào ngưỡng cửa của sự phân hóa giai cấp. Trong thời kỳ đầu xây dựng CNXH quan hệ sản xuất mới được xác lập thì tàn dư của xã hội cũ vẫn chưa cải tạo xong, trong xây dựng cuộc sống mới còn biểu hiện tư tưởng rập khuôn áp đặt, không phù hợp với trình độ của một bộ phận các dân tộc.

Nhận thức đầy đủ về quan điểm đổi mới của Đảng về VĐDT trong thời kỳ đổi mới, đòi hỏi phải nghiên cứu, quán triệt, tôn trọng quy luật phát triển riêng của mỗi dân tộc, gắn quy luật đặc thù với quy luật chung của cả nước, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với đặc thù của lực lượng sản xuất, có khả năng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Các dân tộc không còn sự chênh lệch về trình độ phát triển thì quy luật đặc thù và quy luật chung sẽ hòa nhập và cả nước đi lên CNXH theo một quy luật thống nhất. Đây là điều mà hiện nay chúng ta vẫn đang phấn đấu thực hiện, vươn tới mục tiêu đó, bên cạnh sự chủ động, tích cực sáng tạo của mỗi dân tộc, phải có sự giúp đỡ tương trợ của các dân tộc đã đạt trình độ phát triển cao hơn theo tinh thần bình đẳng cùng tiến bộ.

Trên cơ sở những chủ trương lớn ở trên Đảng ta đã đề ra các chính sách trong giải quyết VĐDT trong đó tập trung vào đổi mới chính sách kinh tế xã hội trên địa bàn miền núi dân tộc; phát triển giáo dục, y tế và đào tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và tăng cường sức mạnh quốc phòng an ninh bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng XHCN trên địa bàn miền núi dân tộc.

Với những quan điểm chủ trương đúng đắn về VĐDT và giải quyết VĐDT của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới đã tạo ra động lực to lớn, có tính bước ngoặt tạo cơ sở vật chất kỹ thuật để giải quyết VĐDT một cách đúng đắn, phát huy được truyền thống và cốt cách của các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam gắn lợi ích dân tộc với lợi ích của quốc gia, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tạo ra sự đoàn kết thống nhất cao trong khối ĐĐK toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh giữa GCCN, NDLD và đội ngũ trí thức do ĐCSVN lãnh đạo, tạo động lực cho sự nghiệp đổi mới của đất nước trong giai đoạn hiện nay./.

KHÔNG THỂ XEM NHẸ THỦ ĐOẠN “RU NGỦ TINH THẦN CẢNH GIÁC” CỦA CÁC THẾ LỰC CHỐNG PHÁ


Mơ hồ, mất cảnh giác tất yếu sẽ thất bại trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”. Trò “ru ngủ tinh thần cảnh giác” của các thế lực thù địch là thủ đoạn chống phá hết sức tinh vi, thâm độc, chúng ta không thể xem nhẹ, phải luôn nêu cao cảnh giác, nhận diện đúng và kiên quyết, kiên trì đấu tranh để giành thắng lợi trong cuộc chiến không tiếng súng đầy cam go này.

Để “ru ngủ tinh thần cảnh giác”, các thế lực chống phá xác định đánh vào lòng người là mục tiêu chủ yếu trong các thủ đoạn, chiêu trò của chúng. Thực hiện mục tiêu đó, họ sử dụng các cách thức tác động tâm lý xã hội, đánh vào tâm lý, tinh thần bằng những thủ đoạn tinh vi làm chuyển hóa đối phương ở mọi lúc, mọi nơi, len lỏi vào từng người, từng nhóm để “lung lạc” nhận thức tư tưởng, “gặm nhấm” tình cảm, điều khiển ý chí và hành động, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ đối phương trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Để phục vụ cho mưu đồ đẩy mạnh các hoạt động chống đối tại chỗ, tạo cớ can thiệp từ bên ngoài, các thế lực thù địch ra sức xây dựng lực lượng chống đối trong nước thông qua việc thành lập các hội, đoàn, nhóm lấy danh nghĩa là đại diện cho các nhóm xã hội khác nhau, như: “nhóm tuổi trẻ yêu nước”, “hội dân oan”, “hội cựu tù nhân lương tâm”, “mạng lưới nhân quyền Việt Nam”,... thúc đẩy cái gọi là “xã hội dân sự”, tạo ra con đường để hình thành các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam một cách công khai, hợp pháp, tiến dần tới các cuộc bạo loạn lật đổ theo hướng “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”. Chúng bỏ “bùa mê” quần chúng bằng nhiều thủ đoạn. Một mặt, chúng núp dưới danh nghĩa “hiến kế”, “chống tham nhũng”, “góp ý kiến xây dựng”,... để hòng lũng đoạn chính sách; mặt khác, họ ra sức tập hợp quần chúng, kích động tâm lý đám đông, tổ chức người dân tụ tập, tuần hành, biểu tình, “bất tuân dân sự”, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo ra các “điểm nóng”, bất ổn để tạo cớ can thiệp từ bên ngoài. Để lôi kéo nhiều người tin theo, họ sử dụng khá hiệu quả các chiêu trò mị dân, lừa gạt, nhân danh đại diện lợi ích của các nhóm xã hội, triệt để lợi dụng sự thiếu hiểu biết, nhẹ dạ của người dân và có sự móc nối, câu kết chặt chẽ với nhiều tổ chức quốc tế thường xuyên có hoạt động chống phá Việt Nam, như: RSF (Phóng viên không biên giới), AI (Ân xá quốc tế), v.v. Nhiều người đã nhẹ dạ, cả tin theo chúng và chỉ khi đã vướng vào vòng lao lý mới thực sự nhận rõ bộ mặt “rắn độc” của chúng. Lẽ dĩ nhiên, hậu quả của việc mất cảnh giác trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” không chỉ dừng lại ở việc trả giá của mỗi cá nhân hay nhóm xã hội mà liên quan đến sự tồn vong của chế độ, quốc gia, dân tộc.

Có nhiều việc phải làm để khắc phục tình trạng chủ quan, lơ là, mất cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Nhưng trước hết, phải bắt đầu từ việc tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền trong uốn nắn những lệch lạc, đấu tranh ngăn chặn kịp thời những biểu hiện chủ quan, lơ là, mất cảnh giác ngay từ cơ sở. Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về tình hình nhiệm vụ, hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động; thấy rõ sự nguy hiểm, khôn lường của tình trạng chủ quan, lơ là, mất cảnh giác của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân hiện nay. Qua đó, nâng cao ý thức trách nhiệm của các tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” ngay trên lĩnh vực, ngành mình công tác, trong mỗi tổ chức mà mình là thành viên./.

KHÔNG THỂ TÁCH RỜI TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỚI CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

         Hiện nay, âm mưu, thủ đoạn chống phá Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng của các thế lực thù địch ngày càng xảo quyệt và nguy hiểm. Những quan điểm sai trái mà các thế lực thù địch đã tung ra đều có chung bản chất và mục đích, nhưng hình thức thể hiện ngày càng thay đổi đa dạng.

Có quan điểm công khai trắng trợn, thể hiện rõ sự thù địch, hằn học với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; có quan điểm thừa nhận lịch sử nhưng lại phủ nhận giá trị thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin... Đặc biệt, những luận điểm cố tình tách rời mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, từ đó “nâng tầm” một cách giả tạo tư tưởng Hồ Chí Minh là quan điểm có tính ngụy biện dễ làm cho một số người ngộ nhận, tin theo.

Thực tế đã và đang khẳng định bản chất cách mạng và khoa học, giá trị và sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá một cách khách quan, chính xác, đầy đủ và sâu sắc vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình cách mạng Việt Nam. Ngay từ năm 1927, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Theo Người, chủ nghĩa Mác - Lênin không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, là kim chỉ nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Nghiên cứu lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rõ con đường Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Người đã nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin một cách cơ bản, hệ thống. Theo Người: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác”. Và trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không bao giờ “tách mình” ra khỏi C.Mác, Ph.Ăng-ghen và V.I.Lênin để đưa ra các quan điểm riêng, mà như Người nói là “cố gắng vận dụng” tư tưởng của các nhà kinh điển đó, “nhưng vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam”Nếu không có chủ nghĩa Mác - Lênin thì không có tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ khi tiếp nhận được chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mới thực sự được xác lập và phát triển.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết, chủ nghĩa Mác - Lênin đã cung cấp cho Chủ tịch Hồ Chí Minh thế giới quan, phương pháp luận khoa học, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời, đặt “hòn đá tảng” những vấn đề có tính nguyên tắc về lập trường quan điểm, về tinh thần xử lý mọi việc. Những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Những cống hiến đó có được trước hết do Người đã nắm được bản chất cốt lõi, “linh hồn sống” trong tư tưởng của các nhà kinh điển Mác - Lênin là phép biện chứng duy vật.

Theo Hồ Chí Minh, mục đích học chủ nghĩa Mác - Lênin là để phụng sự lợi ích chung, chứ không có gì cao xa, nếu không hết lòng, hết sức phụng sự nhân dân, tự kiêu, tự đại, tự tư, tự lợi là trái với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: “Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”.

Bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là khoa học và cách mạng. Vì thế, không thể tách rời mối quan hệ vốn có giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin; không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh để thay thế cho chủ nghĩa Mác - Lênin và ngược lại. Cũng không thể đề cao hoặc tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như bằng cách này hay cách khác lại phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin.  

Đối với các thế lực thù địch, với âm mưu và động cơ chính trị đen tối, chúng luôn tìm cách tuyên truyền luận điểm cho rằng: Ở Việt Nam bây giờ học thuyết Mác - Lênin đã lỗi thời, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là đáng giá, chỉ cần nói tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ, không cần nói chủ nghĩa Mác - Lênin. Trước luận điểm này, cần có sự nhạy cảm chính trị để thấy rõ, đây không phải là sự ca ngợi, đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh theo đúng giá trị đích thực, vốn có trong tư tưởng của Người. Trái lại, với luận điểm trên, các thế lực phản động muốn cô lập, tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi nguồn gốc lý luận chủ yếu của tư tưởng này là chủ nghĩa Mác - Lênin, làm suy yếu và tiến tới phủ định chính tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều này là hết sức nguy hiểm vì đích cuối cùng luận điểm này hướng đến đó là phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin; phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh; tiến tới phủ nhận nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng, làm suy yếu và đi đến xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ Luận cương chính trị (10-1930) cho đến văn kiện Đại hội VI (năm 1986) luôn nhất quán khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Từ  Đại hội VII đến nay, Đảng ta có sự phát triển, bổ sung trên có sở sự vận động của thực tiễn. Theo đó, Đảng khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Đây là biểu hiện về nhận thức đúng, sâu sắc mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng.

Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đại hội XII của Đảng đã tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới và rút ra một số bài học kinh nghiệm, trong đó có bài học: “Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”. 

Như vậy, Đảng ta xác định rất rõ: công cuộc đổi mới hiện nay phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Những biểu hiện tư tưởng cố tình tách rời, cô lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin bằng cách “ra vẻ” đề cao hoặc “nâng tầm” tư tưởng Hồ Chí Minh là hoàn toàn trái với quan điểm, đường lối của Đảng ta. Vì vậy, cần kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái để bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./. 

ĐẬP TAN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, SAI TRÁI LÈO LÁI DƯ LUẬN VỀ 2 VỤ ĐẠI ÁN


Niềm tin vững chắc vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực việc các cơ quan tiến hành tố tụng nước ta khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án “chuyến bay giải cứu” và Việt Á cho thấy chủ trương và hành động nhất quán “kiên quyết, kiên trì, không ngừng nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai” của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Lật tẩy những chiêu trò xuyên tạc, chống phá. Phiên tòa sơ thẩm xét xử 54 bị cáo trong vụ án tổ chức những “chuyến bay giải cứu” và kết luận điều tra đề nghị truy tố 38 bị can trong vụ án Việt Á một lần nữa khẳng định quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, khẳng định sự nghiêm minh của pháp luật và không có vùng cấm, dù là ai vi phạm pháp luật đều bị xử lý. Tuy nhiên, lợi dụng việc xét xử vụ án, các thế lực thù địch, chống đối đã tung ra nhiều bài viết, phỏng vấn hòng lèo lái từ các vụ án hình sự sang vấn đề chính trị nhằm tạo cớ bôi đen, phủ nhận không chỉ phủ nhận thành quả phòng chống đại dịch Covid-19 mà nguy hiểm hơn là chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta; phủ nhận cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng được đông đảo người dân cùng dư luận trong và ngoài nước quan tâm theo dõi sát sao, đồng tình và đánh giá cao, các thế lực xấu, chống phá vẫn tìm mọi cách để xuyên tạc, nhào nặn nhằm hướng dư luận tới cái đích đen tối chúng mong muốn. Đó là đánh đồng hiện tượng một số cán bộ thoái hóa, biến chất để quy kết thành bản chất “đã là quan chức là tham nhũng”; là xuyên tạc, phủ nhận cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực…

Lợi dụng một bộ phận cán bộ, đảng viên được phát hiện tham nhũng, tiêu cực trong các vụ án “chuyến bay giải cứu”, kit test Việt Á, các thế lực xấu, phần tử phản động, chống phá, bất mãn, cơ hội chính trị… đã lập lờ đánh đồng hiện tượng thành bản chất, quy chụp rằng toàn bộ đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước “đang rơi vào tình trạng tham nhũng, tiêu cực, thoái hóa, biến chất”. Họ lớn tiếng vu cáo rằng, đó là bản chất, là “căn bệnh nan y, kinh niên” của chế độ độc đảng cầm quyền. “Đi đầu”, “xung kích” trên mặt trận xuyên tạc, chống phá vẫn là những “khuôn mặt” không hề xa lạ. Họ “đào bới” đời tư một số cán bộ đã bị xử lý để rồi cắt ghép hình ảnh với những ngôi biệt thự, xe sang rồi dựng lên đó là “chứng cứ” quan chức “ở nhà lầu đi xe sang”. Họ phán rằng “Phòng, chống tham nhũng vẫn theo cách cũ thì hiệu quả là nước đổ biển”. Trong đó, trang RFA thực hiện loạt bài viết sai lệch, xuyên tạc về tình hình đấu tranh phòng, chống tham nhũng tại nước ta, cho rằng việc chống tham nhũng chỉ là “tỉa nhánh”, “sâu mọt càng bắt càng nhiều”…Chúng bóp méo, nhào nặn các vụ án “chuyến bay giải cứu”, Việt Á để quy chụp rằng đó là “lỗi hệ thống”, phủ nhận chủ trương và hành động nhất quán “kiên quyết, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai” trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta. Thậm chí, một số trang mạng chống phá như “Tiếng Dân” còn có những bài viết sai trái, quy chụp rằng, tham nhũng là do thể chế, do chế độ “đẻ ra” để rồi lộ rõ dụng ý đen tối rằng việc chống tham nhũng, tiêu cực không thể theo cách thức hiện nay mà muốn chống được tham nhũng phải thay đổi cấu trúc bộ máy, phải “phá bỏ tính chuyên chế, trao quyền cho người dân”.

Đập tan luận điệu xuyên tạc, sai trái lèo lái dư luận về 2 vụ đại án: Niềm tin vững chắc vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chính những ý đồ xấu xa trong việc lợi dụng các vụ án “chuyến bay giải cứu”, Việt Á đã làm lộ rõ cái đích mà các thế lực thù địch, phản động, bất mãn và cơ hội chính trị muốn nhắm tới. Chúng muốn lợi dụng các vụ án này nhằm phủ nhận cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đang “rực lửa” ở nước ta; muốn hạ thấp uy tín, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta trong công cuộc đang được người dân cả nước tin tưởng, đánh giá cao, và nguy hiểm hơn là phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng ta.

Nhất quán quan điểm “ba không” trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Những chiêu trò tung ra cùng ý đồ đen tối trong việc lợi dụng các vụ án tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng “chuyến bay giải cứu”, Việt Á thực ra chẳng có gì mới mẻ nếu nhìn vào những hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ra xuyên suốt thời gian qua của các thế lực thù địch, phản động. Song thực tế sống động cũng đã khẳng định những toan tính, âm mưu ấy dù thâm hiểm hay tinh vi đến đâu cũng “chẳng nên cơm nên cháo gì”. Bởi những gì đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên đất nước ta đã bác bỏ hoàn toàn và đầy thuyết phục những luận điệu xuyên tạc, vu cáo của những kẻ, thế lực cố tình quay ngược bánh xe lịch sử.

Đảng ta không hề né tránh mà từ lâu đã thẳng thắn nhìn nhận, tình hình tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, là thách thức lớn đối Đảng và Nhà nước; mục tiêu ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng vẫn chưa đạt được, nhất là sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI diễn ra tháng 1-2011. Với quyết tâm mạnh mẽ ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, Ban chấp hành Trung ương - cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại hội Đảng - tại Hội nghị Trung ương lần thứ 5 diễn ra tháng 5-2012 đã thông qua chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng.

Triển khai thực hiện chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương, ngày 1-2-2013, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng để chỉ đạo toàn diện công tác phòng, chống tham nhũng trên cả nước. Chỉ 3 ngày sau khi Bộ Chính trị ký ban hành Quyết định, ngày 4-2-2013, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng gồm 16 thành viên do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng ban đã ra mắt và họp Phiên thứ nhất.

Trong hơn 10 năm qua sau khi Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được thành lập, hàng loạt vụ án, đại án tham nhũng đã được đưa ra xét xử với số lượng cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ cấp cao, bị xử lý nhiều hơn bất cứ một giai đoạn nào trước đó. Phòng, chống tham nhũng giờ đây được thực hiện ở diện rộng hơn, đi vào chiều sâu và thực chất; từ bị động, đang dần chuyển sang trạng thái chủ động tấn công, nhất là vào những nguyên nhân căn cơ, gốc rễ, qua đó, củng cố niềm tin của đảng viên và nhân dân vào công cuộc phòng, chống tham nhũng của Đảng, cũng như vai trò của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Với quyết tâm và sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, công tác phòng, chống tham nhũng trong hơn 10 năm qua đã được đẩy mạnh chưa từng có, mang lại những kết quả mang tính bước ngoặt. Việc xử lý nhanh chóng, quyết liệt, dứt khoát với nguyên tắc “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có điểm dừng”, bất kỳ ai dù giữ chức vụ cao đến đâu nếu vi phạm pháp luật đề bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật là minh chứng, là sự khẳng định mạnh mẽ quyết tâm đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước ta.

Trong 6 tháng đầu năm 2023, đã thi hành kỷ luật 270 tổ chức Đảng, gần 10 nghìn đảng viên, trong đó có gần 4.000 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, vi phạm những điều đảng viên không được làm. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, đã thi hành kỷ luật 91 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 17 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 23 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang (tăng gần 2 lần so với nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội XII). Các cơ quan chức năng đã chuyển gần 1.200 vụ việc có dấu hiệu tội phạm sang cơ quan điều tra để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật (tăng gần 2 lần so với cả nhiệm kỳ Đại hội XII).

Có thể khẳng định, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí đã thu được những kết quả rất quan trọng, góp phần vào thành tựu chung của đất nước, tạo không khí phấn khởi trong xã hội, tăng cường niềm tin trong nhân dân với Đảng và chế độ. Những nỗ lực trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Việt Nam là một trong những chủ đề thu hút nhiều sự quan tâm, ghi nhận của báo chí quốc tế. Thập kỷ qua, Việt Nam tăng hơn 30 bậc về chỉ số nhận thức tham nhũng, theo xếp hạng của Tổ chức Minh bạch thế giới (TI). Báo cáo Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) năm 2022 do TI công bố cuối tháng 1-2023, Việt Nam là 1 trong số 6 quốc gia khu vực châu Á - Thái Bình Dương có tiến bộ nổi trội nhất trong chống tham nhũng, với 42 điểm, tăng 9 điểm kể từ năm 2018. Đó chính là sự bác bỏ thuyết phục nhất với mọi toan tính muốn lợi dụng các vụ án “chuyến bay giải cứu”, Việt Á hay các vụ án tham nhũng, tiêu cực để chống phá Đảng, Nhà nước ta.Description: https://facebook.com/security/hsts-pixel.gif?c=3.2/.

LOẠI BỎ TƯ TƯỞNG "CHỦ NGHĨA HẬU DUỆ"

 


Tục ngữ Việt có câu “Con hơn cha là nhà có phúc”. Đó không chỉ là mong muốn, khát vọng nhân văn của thế hệ trước đối với thế hệ sau mà còn phần nào nói lên tình cảm, niềm tin của ông cha gửi gắm vào sự nỗ lực phấn đấu trưởng thành, tiến bộ của con cháu. Trên thực tế, dù ước vọng “nhà có phúc” là chính đáng, nhưng vẫn có một số cán bộ, đảng viên hoặc là thiếu phương pháp giáo dục, rèn luyện, quản lý con một cách đúng mực, hoặc là nuông chiều, nâng đỡ con một cách vội vàng, thái quá khiến con cái họ sớm ảo tưởng về mình rồi thui chột, sa ngã.

Với những nhân sự đủ tài đức, tiêu chuẩn và trải qua quá trình rèn luyện, công tác, trưởng thành từ cơ sở mà được bổ nhiệm, mọi người dân đều cảm thấy yên lòng và tỏ ý khẩu phục, tâm phục đối với quyết định bổ nhiệm nhân sự này. Còn với những nhân sự được bổ nhiệm dù trẻ tuổi, có bằng cấp cao, song chưa trải qua rèn luyện, thử thách nhiều trong thực tiễn, chưa chứng tỏ được năng lực nổi trội so với người khác và chưa có nhiều cống hiến cho tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương thì dư luận thường đặt câu hỏi đầy nỗi niềm: “Đồng chí này là con đồng chí nào?”. Một thời gian sau, chính những nhân sự được “bổ nhiệm thần tốc” đó không những chưa chứng minh được trình độ cao, khả năng triển vọng của mình, lại còn vi phạm nguyên tắc lãnh đạo, vi phạm những điều đảng viên không được làm, thậm chí vi phạm đạo đức, lối sống thì dư luận thêm một lần bày tỏ sự phiền lòng, ta thán một cách chua chát: “Hạt giống đỏ” chưa nảy mầm đã thành “hạt giống lép!”.

Công bằng mà nói, không hẳn con em quan chức nào tiếp bước sự nghiệp công danh, con đường chính trị của cha anh mình cũng đều thua kém thế hệ đi trước, mà ngược lại, không ít “hậu duệ” đã góp phần làm vẻ vang thêm truyền thống “danh gia vọng tộc” và vị thế “trâm anh thế phiệt” của mình. Vì những người này đều có đặc điểm chung là được tiếp thu, hấp thụ những giá trị tích cực, nổi trội từ truyền thống gia đình, dòng họ; được giáo dục, rèn luyện đến nơi đến chốn và bản thân họ cũng luôn có ý thức tu dưỡng, dấn thân, cống hiến hết mình cho tập thể, cộng đồng, xã hội và đất nước. Tuy nhiên, còn một bộ phận quan chức thời nay vẫn để tâm lý, quan niệm “cha truyền con nối” từ chế độ quan lại chuyên chế phong kiến ăn sâu vào nếp nghĩ, hành xử của mình. Từ đó, họ tìm mọi cách để cho "cậu ấm, cô chiêu" mình được có cơ hội tiếp cận, làm chủ, sở hữu quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước càng sớm càng tốt. Thậm chí có người sẵn sàng “hy sinh đời bố, củng cố đời con”, ra vẻ “tự nguyện” rời nhiệm sở trước một hai năm nhưng không phải để dành cơ hội cho những người tài cao đức trọng, giàu tinh thần cống hiến mà lại mở đường ưu tiên cho “hậu duệ” của mình.

Nếu các quan chức không nghiêm khắc dạy bảo con từ bé, lại còn nâng đỡ con thái quá, nóng vội trong việc sắp đặt chức vụ, trao truyền quyền lực cho con không phù hợp, tương xứng với khả năng, thực lực, uy tín, kinh nghiệm từng trải của con thì vô hình trung sẽ làm con tự ảo tưởng về mình, từ đó tự phụ, tự mãn và tự “kết liễu” sớm sự nghiệp chính trị của chính mình. Nhưng nguy hại hơn, khi những “hậu duệ” mà “y phục không xứng kỳ đức” nằm trong bộ máy công quyền không chỉ ngăn cản, làm mất cơ hội phấn đấu, tiến thân của những cán bộ, đảng viên chân chính mà còn gây mất đoàn kết nội bộ và tác động không thuận đến sự phát triển lành mạnh của tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương và đất nước. Đây là bài học cảnh tỉnh đối với bất cứ cán bộ, đảng viên nào vẫn muốn “chủ nghĩa hậu duệ” can thiệp sâu vào chốn quan trường và làm biến dạng, tha hóa quyền lực nhà nước, để rồi không sớm thì muộn, sức mạnh dư luận xã hội và kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước sẽ đánh bại, loại bỏ “chủ nghĩa hậu duệ” ra khỏi đời sống chính trị của đất nước./.

KIÊN QUYẾT KHẮC PHỤC BỆNH QUAN LIÊU TRONG CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ

 

Quan liêu, xét về bản chất là sự tha hóa quyền lực của cơ quan công quyền. Sự tha hóa này biểu hiện chủ yếu ở bên ngoài là hiện tượng giấy tờ, bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian và ở bên trong là tâm lý hám danh, chạy theo chủ nghĩa thành tích, chạy theo địa vị, chức quyền và lợi dụng địa vị chức quyền, lợi dụng sơ hở của cơ chế quản lý để mưu cầu lợi ích cá nhân dẫn tới lạm quyền và lộng quyền. Bệnh quan liêu với các đặc trưng chủ yếu là “sự thống trị của bàn giấy”, xa quần chúng, xa thực tế, xa cuộc sống, chỉ chú ý đến hình thức, không chú ý đến bản chất của sự vật, lấy phương pháp mệnh lệnh hành chính thay cho phương pháp làm việc khoa học. Nói chung, cách làm việc như vậy thường không quan tâm đến hiệu quả của công việc.

Công tác tổ chức - cán bộ cũng là một trong những lĩnh vực biểu hiện rõ nhất đặc trưng của bệnh quan liêu, đó là: Vừa thiếu dân chủ, độc đoán chuyên quyền, vừa tùy tiện vô trách nhiệm; vừa tập trung quan liêu, vừa phân tán tự do vô tổ chức, vô kỷ luật; bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian chồng chéo, tệ giấy tờ, hình thức, trọng đẳng cấp và địa vị, xa rời thực tế; đối với cán bộ, công chức làm công tác tổ chức cán bộ mắc bệnh quan liêu thường không có quan điểm phục vụ nhân dân mà đứng trên nhân dân, trong cách tổ chức, quản lý, tác phong công tác thường thoát ly thực tiễn.

Để ngăn ngừa, khắc phục bệnh quan liêu trong công tác tổ chức cán bộ, cần tập trung, giáo dục, nâng cao nhận thức về đấu tranh chống bệnh quan liêu; điều chỉnh, sắp xếp cơ cấu tổ chức, cơ chế và phương thức hoạt động của bộ máy theo hướng tinh giảm, hợp lý và hiệu quả; phát huy dân chủ, tổ chức cho quần chúng tham gia vào công tác tổ chức cán bộ; giáo dục quan điểm quần chúng, xây dựng tác phong làm việc khoa học, sâu sát thực tế cho cán bộ, đảng viên. Mặt khác, phải tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời chấn chỉnh, xử lý kiên quyết những sai phạm của cán bộ, đảng viên./.

Thứ Hai, 11 tháng 9, 2023

NHÌN NHẬN KHÁCH QUAN VỀ MỐI QUAN HỆ VIỆT MỸ

Việc Hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan thăm Đà Nẵng cùng thời điểm chương trình truyền hình “Mở đường ra biển”, và Thủ tướng Phạm Minh sang thăm Trung Quốc và tham dự Hội nghị thường niên Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) ở Thiên Tân hay chuyến thăm của tổng thống Hoa Kỳ đến thăm Việt Nam sắp tới đã thành đề tài cho những kẻ chống phá đơm đặt, dựng chuyện xuyên tạc quan hệ Việt Nam với Hoa Kỳ, Việt Nam với Trung Quốc suốt thời gian qua.

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

Ngay từ ngày đầu cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vấn đề quyền con người luôn luôn được quan tâm và là một trong những mục tiêu cao cả nhất trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng tới nay.

PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM PHỦ NHẬN VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

Hiện nay, các thế lực thù địch đang tiếp cận, khai thác và tích cực xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ta. Chúng ra sức tuyên truyền cho rằng: Bản chất Nhà nước pháp quyền tức là đề cao tính thượng tôn pháp luật mà lại đề cập bảo đảm và phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, liệu có hợp quy luật khách quan

PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI MỸ THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, để bảo vệ nền độc lập non trẻ, Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã xác định: “Đối với Mỹ, việc ngoại giao mới có đôi phần kết quả, cần phải nhanh chóng tiến tới để Mỹ chính thức công nhận nền độc lập hoàn toàn của Việt Nam và giao hòa với chúng ta”. Với phương châm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động liên hệ với một số nhân vật có tầm ảnh hưởng đối với Chính phủ Mỹ.

GIÁ TRỊ TRƯỜNG TỒN CỦA TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

Vào buổi sáng ngày 02-9-1945  bản tuyên ngôn độc lập đã được chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba đình lịch sử. Bản tuyên ngôn độc lập đó là sự mong mỏi của hàng triệu con tim Việt Nam, đồng thời khẳng định với bạn bè quốc tề về chủ quyền lãnh thổ. Tuy nhiên vẫn có những luận điệu xuyên tạc về giá trị bản tuyên ngôn độc lập, đó là sự xuyên tạc rất nguy hại làm sai lệch những giá trị văn hóa của dân tộc.

PHƯƠNG THỨC, THỦ ĐOẠN MỚI CỦA “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”

Mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là không thay đổi, song chúng luôn có phương thức và thủ đoạn mới hết sức tinh vi, nham hiểm để chống phá cách mạng nước ta. Bởi vậy, thường xuyên nêu cao cảnh giác, nhận diện, vạch trần những chiêu trò mới của chúng để có giải pháp đấu tranh, phòng, chống hiệu quả là một nội dung hết sức quan trọng trong tình hình hiện nay. 

NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM NHỮNG THÀNH TỰU KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN

Hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tích kỳ diệu trên tất cả các lĩnh vực, đời sống nhân dân được nâng lên đáng kể, vụ thế đất nước ta trên trường quốc tế được đánh giá cao. Tuy vậy, vẫn còn những tiếng kêu lạc điệu của kẻ lạc loài do bất đồng chính kiến, hậm hực trước những thành quả mà đất nước ta đã đạt được trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có ngành giáo dục. Chúng thường phát tán các bài viết có nội dung xuyên tạc chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước ta trên lĩnh vực giáo dục, đào tạo, phủ nhận những thành quả đạt được của hệ thống giáo dục các cấp, bôi nhọ, nói xấu đảng, nói xấu chế độ. Chúng đã đánh đồng những hạn chế, yếu kém trong giáo dục của nước ta trong thời gian qua với toàn bộ nền giáo dục đất nước. Chắc là ở phương trời Tây, chúng bị bịt tai, che mắt nên chỉ thấy hạn chế mà không thấy những ưu điểm, tiến bộ trong nền giáo dục Việt Nam những năm qua, ngang ngược hơn chúng còn dám cho rằng “nền giáo dục của Việt Nam là một nền giáo dục băng hoại không thể cứu vãn” và quy kết, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nên nền giáo dục mới yếu kém. Đến đây thì bộ mặt của kẻ phản động đã lộ nguyên hình, từ giáo dục bọn chúng đã lái sang chính trị, từ phủ nhận thành quả của nền giáo dục sang phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với ngành giáo dục nói riêng, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước nói chung.

HÃY DỪNG NGAY NHỮNG PHÁN XÉT VÔ CĂN CỨ CHO RẰNG “Ở VIỆT NAM THIẾU TỰ DO TÔN GIÁO”

Ở Việt Nam hiện nay, những ngày lễ lớn của các tôn giáo, nhất là lễ Phật đản, Vu Lan, Noel... không chỉ là của những người theo các tôn giáo mà trở thành ngày vui chung, ngày hội lớn của mọi người. Nhờ có những chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam nên ngày càng nhiều những hình ảnh sinh động này.

ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA LUÔN TÔN TRỌNG VÀ PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN, LUÔN LẤY “DÂN LÀM GỐC”

Yếu tố dân chủ (hay nói cách khác là phát huy quyền làm chủ của nhân dân) là yếu tố hết sức quan trọng được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Đảng, Nhà nước và chính quyền có trách nhiệm quan tâm đến việc phát huy quyền làm chủ nhân dân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Nhà nước pháp quyền phải là nhà nước dân chủ, nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Người luôn nhấn mạnh rằng dân làm chủ và dân là chủ. Nhà nước và Đảng phải chịu  khó nghe dân, gặp dân, hiểu dân, học dân, hỏi dân, và tẩy sạch bệnh thành tích, quan liêu hay nhũng nhiễu nhân dân.

CẢNH GIÁC VỚI LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC MỐI QUAN HỆ HỮU NGHỊ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC

Trong giai đoạn hiện nay, những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, phủ nhận đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta là một trong những chiêu thức, thủ đoạn hết sức thâm độc, nham hiểm của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội nhằm phủ nhận đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, nhất là suy diễn một cách phiến diện, bịa đặt, xuyên tạc mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đặc biệt lợi dụng một số vấn đề còn bất đồng, tranh chấp về chủ quyền biển đảo giữa nước ta và Trung Quốc trên biển Đông để cố tình xuyên tạc cho rằng chúng ta quá lệ thuộc vào Trung Quốc, từ đó kích động một bộ phận quần chúng có cách nhìn phiến diện, tiêu cực, thiếu khách quan, toàn diện cố tình xuyên tạc sự thật về mối quan hệ Việt Nam- Trung Quốc. Gần đây nhất ngày 10/8/2023, trên trang blog Đối thoại, đối tượng Tử Long phát tán bài “Việt Nam vẫn im lặng về vụ bãi Cỏ Mây”; ngày 11/8/2023, trên trang blog VOA Tiếng Việt tán phát tin bài “Việt Nam muốn mở thêm Tổng lãnh sự quán ở Trung Quốc, hứa không tiếp xúc chính thức với Đài Loan”, nội dung xuyên tạc đường lối đối ngoại, chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế của Việt Nam và chuyến thăm, làm việc của Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ tại Trung Quốc, kêu gọi Việt Nam cần thay đổi biện pháp trong giải quyết các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông.

CẦN KHÔN KHÉO ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG

Những năm gần đây Trung Quốc đẩy mạnh các hành vi sai trái, tạo ra những lo ngại rất lớn về tình hình an ninh, an toàn trên Biển Đông. Vấn đề Biển Đông đã trở thành “điểm nóng”, Trung Quốc đã làm phức tạp thêm tình hình và có những hành động leo thang căng thẳng trong khu vực khiến cộng đồng quốc tế hết sức quan ngại.

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẠNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH

Mạng xã hội là một trong những phương tiện chủ yếu và phổ biến nhất, có thể trò chuyện và tương tác trực tuyến mọi lúc mọi nơi, nội dung do người dùng tạo ra, có mức độ phổ biến lớn, ưu thế lan tỏa rộng và tốc độ nhanh, môi trường tự do thông tin, khuyến khích sự chia sẻ, kết nối, trao đổi và sáng tạo… Nước ta là một trong những quốc gia có dân số sử dụng internet đông nhất trên thế giới, trên tổng dân có gần 70 triệu người dùng mạng xã hội đạt 71,0% tổng dân số. Mạng xã hội có số lượng người sử dụng nhiều như: Facebook, Youtobe, Zalo, FB Mesenger, Instagram, TikTop…

Nhìn lại 16 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW về nội dung công tác phát triển cán bộ nữ - Những kết quả đạt được và định hướng trong thời gian tới

Ngày 27-4-2007, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW, “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết này có ý nghĩa quan trọng, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác phụ nữ; tiếp tục đổi mới công tác phát triển cán bộ nữ, để phụ nữ Việt Nam “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên... Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế”.

KHI “TẬP TRUNG” VÀ “DÂN CHỦ” BỊ TÁCH RỜI

Trong các nguyên tắc của Đảng thì tập trung dân chủ là nguyên tắc rất cơ bản trong lãnh đạo, tổ chức và sinh hoạt Đảng. Tuy nhiên, khi vận hành, với động cơ cá nhân, lợi ích nhóm, nguyên tắc này bị lợi dụng, lạm dụng, bóp méo, trở thành bình phong, hợp lý hóa cho các sai phạm của lãnh đạo...

ĐỪNG LỢI DỤNG TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN ĐỂ LÀM NHỮNG ĐIỀU XẰNG BẬY

Lâu nay chúng ta vẫn hay nói đến những từ như “tự do” “dân chủ” “nhân quyền” và thường thì đa phần mọi người hay hiểu một cách nôm na như: Tự do là không bị ràng buộc, kiểm soát; dân chủ là bình đẳng, mọi người có quyền ngang nhau; nhân quyền là quyền con người.

CẢNH GIÁC VỚI VIỆC KHAI THÁC, SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Mạng xã hội phát triển rất nhanh và vai trò của nó ngày càng tăng lên trong đời sống xã hội và quốc phòng. Chưa bao giờ mạng xã hội trở nên phổ biến và chiếm lấy phần lớn thời gian sử dụng Internet của con người, mang lại các giá trị to lớn về mọi mặt. Mạng xã hội mang lại nhiều lợi ích, dễ sử dụng, song mạng xã hội cũng có mặt xấu, “độc hại” khiến người sử dụng nó phải gánh chịu hậu quả nếu vi phạm quy tắc sử dụng. Bên cạnh những lợi ích do mạng xã hội đem lại, mạng xã hội đang là môi trường thuận lợi để các thế lực thù địch lợi dụng tung tin xấu, độc, đẩy mạnh hoạt động chống phá, gây rối loạn tình hình.

VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀO ĐẤU TRANH BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TA HIỆN NAY

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động đang ra sức chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Chúng rêu rao rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin đã sụp đổ hoàn toàn cùng với sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa; đó là thứ lý luận lỗi thời, đang ngăn trở con đường đi lên của dân tộc Việt Nam. Với kiểu lý lẽ đó, chúng đòi Đảng ta phải từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin với tư cách là nền tảng tư tưởng, có như vậy con đường phát triển của cách mạng Việt Nam mới đi đúng theo quỹ đạo của thế giới. Thế nhưng, chúng đã lầm. Càng phủ nhận thì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh càng được tôn vinh, tỏa sáng, khẳng định giá trị.

Phản bác quan điểm xuyên tạc lịch sử; phủ nhận công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của toàn Đảng, toàn dân

1. Nhận diện luận điệu

Ngày 02/9/2023, trên trang blog Tiếng Dân tán phát bài “Ai đã lựa chọn con đường cho Việt Nam?”; ngày 03/9/2023, trên trang blog Việt Nam Thời Báo tán phát bài ‘Tuyên ngôn độc lập 02/9 danh chính ngôn thuận sự thành”, nội dung xuyên tạc lịch sử; phủ nhận công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội, đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; bôi nhọ, nói xấu các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Phản bác quan điểm phủ nhận vai trò của Công đoàn Việt Nam

1. Nhận diện luận điệu

Ngày 31/8/2023, trên trang blog Việt Nam Thời Báo, đối tượng Hàn Lam tán phát bài “Đội trưởng Đội tiên phong của giai cấp công nhân đang ở đâu?”; trên trang blog Đối Thoại tán phát bài “Nhà ở xã hội, ảo tường hại dân, hại nước”, nội dung xuyên tạc các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề đảm bảo đời sống cho người lao động; phủ nhận vai trò của Công đoàn Việt Nam; đồng thời, yêu cầu “tự do” phát triển các “tổ chức công đoàn độc lập” để đảm bảo lợi ích cho người lao động tại Việt Nam.

Cảnh giác hoạt động vu cáo chính quyền “kỳ thị” người dân tộc Khmer

1. Nhận diện luận điệu

Ngày 01/9/2023, trên trang blog Đối Thoại tán phát bài “Người Khmer ở Việt Nam và người Việt ở Campuchia”, nội dung xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với công tác dân tộc và công tác đảm bảo nhân quyền ờ Việt Nam; vu cáo chính quyền “kỳ thị” người dân tộc Khmer; đồng thời, kích động tư tường mâu thuẫn, thù địch, hẹp hòi, ly khai dân tộc.

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH VỚI QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

Hiện nay, với sự phổ biến của internet, mọi người có thể dễ dàng truy cập để tìm kiếm thông tin phục vụ cho các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Tuy nhiên, đây cũng là nơi để các thế lực thù địch lợi dụng truyền bá các quan điểm sai trái nhằm mục đích chống phá Đảng và Nhà nước ta. Vì thế, mỗi người dùng internet cần trang bị cho mình những hiểu biết để nhận diện và đấu tranh với những quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch.

NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ CHÍNH QUYỀN VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

 Lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo là thực tế hiện hữu, mục tiêu chiến lược của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng nước ta. Trong thời gian gần đây, vấn đề dân tộc, tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc và miền núi được các thế lực thù địch xem “là “trọng điểm ưu tiên” làm “ngòi nổ” trong tổng thể kế hoạch chống chính quyền cách mạng”[1]. Nhận diện âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng nước ta thực sự là nhu cầu cấp thiết của cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân hiện nay.

Phê phán quan điểm “Bất tuân dân sự” Quân đội nhân dân Việt Nam

Hiện nay, trên không gian mạng xã hội đang lan truyền quan điểm “Bất tuân dân sự” Quân đội, với những thủ đoạn che giấu tinh vi của các thế lực thù địch, đã khiến cho không ít người nhẹ dạ cả tin. Vì vậy, việc nhận diện kịp thời và phê phán sự phi lý, phản động của quan điểm “Bất tuân dân sự” Quân đội là việc làm cấp thiết trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Thứ Năm, 7 tháng 9, 2023

ĐÂU TRANH LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU LỢI DỤNG CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

ĐÂU TRANH LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU LỢI DỤNG CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
 
Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian qua được Đảng, Nhà nước ta quan tâm thực hiện với quyết tâm chính trị cao. Với tinh thần “không có vùng cấm”, phát huy tốt vai trò của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Những kết quả đó được nhân dân cả nước đồng tình ủng hộ và đánh giá cao; qua đó góp phần tăng cường năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên, các phần tử cơ hội, phản động vẫn ra sức xuyên tạc, chống phá đối với Đảng, Nhà nước ta thông qua công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Với quyết tâm chính trị cao, chúng ta đã phát hiện và đưa ra xử lý nhiều vụ việc liên quan đến tham nhũng thì chúng lại lợi dụng vào đó và cho rằng “tình trạng tham nhũng năm sau lại cao hơn năm trước”; chúng vu cáo rằng thể chế “sinh ra tham nhũng”. Từ luận điệu trên có thể thấy rằng, những phần tử cơ hội, phản động đang lợi dụng những kết quả trong công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng để xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ nhằm hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Từ đó chúng muốn cổ xúy, kích động thực hiện âm mưu đa đảng nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Để nhận thức rõ và đấu tranh có hiệu quả với những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch về vấn đề này, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân phải đề cao tinh thần cảnh giác khi tiếp nhận các thông tin. Luôn đứng vững trên lập trường cách mạng để phân tích, đánh giá các vấn đề có liên quan. Theo đó, công tác tuyên truyền, giáo dục của các cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước ở các cấp phải thực sự kiên quyết, kiên trì và có hiệu quả thiết thực. Một vấn đề có ý nghĩa quan trọng hiện nay là tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện các nội dung về công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước. Trong đó, việc tổ chức quán triệt, học tập, nghiên cứu và thực hiện cuốn sách của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng – Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” là một giải pháp rất thiết thực, hiệu quả.
Phải luôn tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng để xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước./.