Người anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực trước lúc chết khẳng định rằng người Việt Nam sẽ không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù. Ông từng nói " Chỉ khi nào người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây".
Nguyễn Trung Trực (1839 – 1868) là thủ lĩnh
phong trào khởi nghĩa chống Pháp vào nửa cuối thế kỷ 19 ở Nam Bộ, Việt Nam.
Sinh ra dưới thời Minh Mạng, thuở nhỏ ông có tên là Chơn. Từ năm Kỷ Mùi (1859)
đổi là Lịch (Nguyễn Văn Lịch, nên còn được gọi là Năm Lịch), và cũng từ tên
Chơn ấy cộng với tính tình ngay thật, nên ông được thầy dạy học đặt thêm tên
hiệu là Trung Trực.
Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực ở xóm Lưới,
thôn Vĩnh Hội, tổng Trung An, huyện Phù Cát, trấn Bình Định (ngày nay là thôn
Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát). Ông nội là Nguyễn Văn Đạo, cha là Nguyễn
Văn Phụng (hoặc Nguyễn Cao Thăng), mẹ là bà Lê Kim Hồng.
Sau khi hải quân Pháp nhiều lần bắn phá duyên hải Trung Bộ, gia
đình ông phải phiêu bạt vào Nam, định cư ở xóm Nghề (một xóm trước đây chuyên
nghề chài lưới), làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, Phủ Tân An (nay
thuộc xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An) và sinh sống bằng nghề chài
lưới vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ. Không rõ năm nào, lại dời lần nữa xuống làng Tân
Thuận, tổng An Xuyên.(nay là xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau)
Ông là con trưởng trong một gia đình có 8 người con. Lúc nhỏ,
ông rất hiếu động, thích học võ nên khi lớn lên ông là người có thể lực khỏe
mạnh, giỏi võ nghệ và là người có nhiều can đảm, mưu lược. Sớm phiêu bạt vào
Nam từ nhỏ, vì thế, cuộc đời và sự nghiệp của cụ gắn với miền Tây Nam bộ. Là
người tinh thông võ nghệ và có lòng yêu nước nồng nàn, khi còn trẻ chàng trai
họ Nguyễn đã ý thức được sự xâm lược của thực dân nên đã sớm có tư tưởng chống
Pháp. Cuộc đời của cụ gắn với hai sự kiện nổi tiếng trong các phong trào chống
Pháp lúc bấy giờ.
Trận đầu tiên diễn ra vào năm 1861 trên vàm
Nhựt Tảo (huyện Tân Trụ, tỉnh Long An ngày nay). Cụ và các nghĩa binh là nông
dân giả làm đám rước dâu trên sông để tiếp cận và đốt cháy tàu L’Esperance của
quân Pháp. Chiến công này làm dấy lên phong trào chống Tây ngay sau khi đại đồn
Chí Hòa thất thủ vào ngày 25-2-1861.
Tiếng tăm của Nguyễn Trung Trực vang dội, làm
binh lính Pháp phải dè dặt. Nhậm chức Lãnh binh, Nguyễn Trung Trực đưa quân về
hoạt động ở các tỉnh miền Tây. Cụ đưa quân về trấn giữ Hà Tiên nhưng chậm một
bước so với quân Pháp. Thay vì phải trở ra Bình Thuận theo lệnh triều đình,
Nguyễn Trung Trực đưa quân xuống khu vực sông Cái Lớn (Kiên Giang) để chờ thời
cơ. Uy tín của cụ đã lan rộng nên dễ dàng tập hợp được người yêu nước trong
cộng đồng Kinh-Hoa-Khmer ở địa phương.
Trận thứ hai diễn ra vào lúc 4 giờ sáng
16-6-1868, Nguyễn Trung Trực dẫn quân xuất phát từ Tà Niên (nay là xã Vĩnh Hòa
Hiệp, huyện Châu Thành, Kiên Giang) đánh úp đồn Kiên Giang, gây hoang mang
trong quân lính Pháp. Sau đó, cụ kéo quân về Hòn Chông-Kiên Lương rồi ra Phú
Quốc để tiếp tục chiến đấu.
Về sau, thi sĩ Huỳnh Mẫn Đạt quê ở Rạch Giá đã
nhắc đến cụ qua hai câu thơ ghi lại hết công trạng của ông tại Long An và Kiên
Giang: “Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa; Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần.”
Nhưng quân Pháp quá mạnh, cuộc kháng chiến của
Nguyễn Trung Trực sớm kết thúc. Không cam tâm để đồng đội bị đói khát, dân
thường bị giết hại vô tội, cụ Nguyễn phải đầu hàng tại Phú Quốc
Sau khi đưa Nguyễn Trung Trực về Gia định tìm cách dụ dỗ không
thành .Địch áp dải cụ về Kiên Giang .Sau đó, cụ bị xử chém đầu tại chợ Rạch
Giá. Người dân nghe hung tin, nhất là người dân Tà Niên, đã tổ chức dệt chiếu
trải cho cụ đứng khi bị xử tử.
Trước khi chết, cụ Nguyễn mở mắt nhìn bầu trời
quê hương, nhìn những người cụ từng thọ ơn cưu mang cùng đồng đội trong thời
gian qua. Cụ Nguyễn Trung Trực dõng dạt hô lớn: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước
Nam mới hết người Nam đánh Tây”.
Lời nói của Nguyễn Trung Trực đã đúng, tiếp đó
là rất nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp nổ ra, hơn 100 năm sau đó nhân dân Việt
Nam biết bao thế hệ đứng lên chống sự cai trị của thực dân,đế quốc phương tây
để giành độc lập tự do./.
bài viết rất ý nghĩa
Trả lờiXóa