Kế thừa và phát huy
truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc; vận dụng đúng đắn
sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của
nước ta, ngay từ khi mới ra đời Đảng ta đã đề ra chủ trương về "Vũ trang cho
công nông" (Luận cương Chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương). Trong những
năm 1930 - 1931, trong cả nước có rất nhiều cuộc bãi công, biểu tình liên tiếp
nổ ra ở hầu khắp các địa phương, mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (tháng 3/1931). Đảng ta chủ trương khi
giành được chính quyền thì thành lập "Quân đội công nông".
Ngày 28 tháng 3 năm 1935 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất
họp tại Ma Cao (Trung quốc) Đảng ta đã ra "Nghị quyết về đội tự vệ".
Đây là Nghị quyết đầu tiên của Đảng về tổ chức, chỉ đạo xây dựng, huấn luyện và
hoạt động của lực lượng tự vệ. Nghị quyết về Đội tự vệ đã khẳng định "Tự vệ
đội càng mạnh thì tức là có điều kiện thuận lợi để sau này tổ chức du kích chiến
tranh và vũ trang bạo động". Thực hiện "Nghị quyết về đội Dân quân tự
vệ" của Đảng, các Đội tự vệ công nông mang tính chất là những tổ chức vũ
trang quần chúng ra đời, đây là tiền thân của các Đội Cứu Quốc quân, Đội Việt
Nam Tuyên truyền giải phóng quân sau này.
Trong những năm 1939 - 1940, phong trào cách mạng của quần
chúng đã từ đấu tranh chính trị từng bước tiến lên đấu tranh vũ trang, kết hợp
chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự. Một số du kích ra đời, được
duy trì và phát triển thành các trung đội Cứu quốc quân. Lực lượng tự vệ được
khẩn trương xây dựng ở trên khắp các tỉnh, nhất là ở Bắc Bộ, Trung Bộ.
Thời kỳ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền (1940 -
1945), đi đôi với chủ trương mở rộng và củng cố các đội tự vệ ở khắp các vùng
nông thôn, thành thị, Đảng ta đã chủ trương thành lập các đội tự vệ cứu quốc,
các tổ, tiểu đội du kích cứu quốc và các đội du kích chính thức. Các đội tự vệ
đã trở thành tổ chức vũ trang quần chúng của các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận
Việt Minh, được xây dựng ở các căn cứ, địa phương có điều kiện; phối hợp với
các đơn vị cứu quốc quân, Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân làm nòng cốt
cho quần chúng thực hiện vũ trang khởi nghĩa từng phần, tiến hành chiến tranh
du kích cục bộ, xây dựng và mở rộng các căn cứ địa Việt Bắc, Đông Bắc, Ninh
Bình, Thanh Hóa, Ba Tơ v.v... đến tháng 8/1945 lực lượng DQTV đã phát triển lên
tới vài chục nghìn người cùng với giải phóng quân và toàn dân thực hiện thắng lợi
cuộc Tổng khởi nghĩa.
Ngày 02/9/1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời trong
vòng vây của các thế lực đế quốc và phản động quốc tế. DQTV Việt Nam trở thành
lực lượng vũ trang của Nhà nước, một trong ba thứ quân của lực lượng vũ trang
nhân dân, một công cụ chủ yếu của chính quyền ở cơ sở. Từ phong trào quân sự
hóa toàn dân, vũ trang toàn dân, tự vệ cứu quốc mà nòng cốt là tự vệ chiến đấu
trong một thời gian ngắn được Mặt trận Việt Minh tổ chức rộng khắp ở các làng
xã, đường phố trong cả nước. Lực lượng này đã thực sự là một công cụ chuyên
chính chủ yếu bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ, bảo vệ
thành quả cách mạng.
Ngày 23/9/1945, Quân đội Pháp được quân Anh giúp sức nổ súng
gây chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ 2. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ các địa
phương ở miền Nam nhất là Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, lực lượng DQTV đã phối hợp
với bộ đội chủ lực anh dũng chiến đấu ngăn chặn địch, diệt ác, trừ gian, phá hoại
đường giao thông...
Ở miền Bắc, lực lượng DQTV phối hợp với công an nhân dân và
Vệ quốc quân tham gia trừng trị bọn phản động nội địa, tích cực chuẩn bị mọi mặt
cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, hưởng ứng
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946) lực lượng
DQTV được nhanh chóng phát triển rộng khắp trong cả nước ngày càng lớn mạnh, là
lực lượng vũ trang quần chúng do mặt trận chỉ đạo đã từng bước được thống nhất
về tổ chức là một bộ phận trong LLVT nhân dân Việt Nam do các xã đội, huyện đội,
tỉnh đội chỉ đạo, chỉ huy và đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ Đảng các
cấp. Đây là bước phát triển mới về chất lượng của lực lượng DQTV. Lực lượng DQTV đã cùng vệ quốc quân và
các lực lượng chính trị tạo thành sức mạnh to lớn cho thế và lực của cách mạng.
Đến đầu năm 1947, lực lượng DQTV đã phát triển lên gần 3 triệu
người, riêng Thủ đô Hà Nội có 6.000 đội viên. Ở chiến trường Nam Bộ, lực lượng
dân quân du kích phát triển trên 27 vạn (nữ có 5,7 vạn); trong đó, du kích chiến
đấu là 1,4 vạn. Ở chiến trường Trung Bộ, đến cuối năm 1949 phát triển 28,5 vạn
dân quân du kích, 22.000 bạch đầu quân. Ở Bắc Bộ, dân quân du kích phát triển mạnh
với hơn 27,9 vạn người với đủ các lứa tuổi, trai, gái. Phòng DQTV (nay là Cục
DQTV) và hệ thống cơ quan DQTV từ quân khu đến các địa phương được thành lập để
chỉ đạo xây dựng phong trào. Trong điều kiện hết sức khó khăn gian khổ, bằng
các loại vũ khí thô sơ tự tạo và vũ khí lấy được của địch, phải đương đầu với
quân đội viễn chinh Pháp được trang bị hiện đại, lực lượng DQTV và du kích đã
cùng nhân dân xây dựng làng xã chiến đấu, dựa vào hệ thống này kiên cường bám đất,
bám dân, tiêu hao lớn quân địch, phá tề, trừ gian; tích cực phối hợp với bộ đội
địa phương chống địch càn quét, bao vây, bức hàng, bức rút nhiều đồn bốt địch,
giải phóng làng xã, mở rộng các khu căn cứ du kích; thực hiện tích cực kiềm chế,
căng kéo lực lượng địch, buộc địch phải phân tán đối phó, tạo điều kiện cho ta
bảo vệ vùng tự do và góp phần cùng bộ đội chủ lực thực hiện nhiều chiến dịch lớn,
đánh bại các biện pháp chiến lược của địch, giành thắng lợi trên các chiến dịch
lớn.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng DQTV
và bộ đội địa phương đã tiêu diệt 23,1 vạn/50 vạn quân địch (chiếm tỷ lệ 46,4%
tổng số lực lượng địch bị tiêu diệt) làm tan rã trên 20 vạn tên (chiến tỷ lệ
35%) và kiềm chế, phân tán trên 90% tổng số lực lượng trên toàn chiến trường,
khiến Đại tướng NaVa phải thú nhận "Quân Pháp đông nhưng chỉ để được 10% lực
lượng cơ động chiến lược". Vì vậy chiến công của lực lượng DQTV và bộ đội
địa phương đã góp phần cùng bộ đội chủ lực giành thắng lợi quyết định trong chiến
dịch Điện Biên Phủ "Lững lẫy 5 Châu, chấn động địa cầu" và giải phóng
hoàn toàn miền Bắc năm 1954.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta giành thắng
lợi đã chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của chủ nghĩa thực dân. Lực lượng dân quân, du
kích và tự vệ đã góp công sức và xương máu vô cùng to lớn vào chiến công của
toàn dân tộc.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chống
Mỹ cứu nước đấu tranh giải phóng ở miền Nam, lực lượng DQTV ở miền Bắc đã tích
cực tham gia cải cách ruộng đất, đánh đổ địa chủ, phong kiến, khôi phục và đẩy mạnh sản xuất, tham gia bắt gọn nhiều
toán biệt kích Mỹ- Ngụy tung ra miền Bắc (nhất là những năm 1960 – 1963). Trong
chống chiến tranh phá hoại miền Bắc chủ yếu bằng không quân, hải quân hiện đại
của đế quốc Mỹ, lực lượng phòng không DQTV miền Bắc đã được tổ chức trên 700
phân đội, tăng cường trang bị nhiều loại vũ khí tương đối hiện đại như: Súng
máy cao xạ 12,7mm, 14,5mm, 58 đại đội pháo cao xạ 37mm đến 100mm và 36 phân đội
pháo binh các loại đánh tàu chiến địch... Lực lượng DQTV đã phối hợp với bộ đội,
công an và nhân dân thực hiện "tay cày tay súng, tay búa tay súng"
chiến đấu liên tục ngày đêm. Cùng với mạng lưới bắn máy bay địch bay thấp bằng
súng bộ binh hình thành lưới lửa tầm thấp dày đặc vô cùng lợi hại, DQTV đã phối
hợp chặt chẽ với bộ đội phòng không, không quân bắn rơi nhiều máy bay địch.
Riêng DQTV đã độc lập bắn rơi 424 máy bay các loại trong tổng số 4.181 máy bay
Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc (chiếm 10%), bắt sống nhiều giặc lái, bắn chìm và bắn
cháy nhiều tàu chiến địch.
Lực lượng DQTV còn làm tốt công tác phòng không nhân dân ở
cơ sở, xây dựng nhiều công trình phòng tránh, khắc phục hậu quả đánh phá của địch,
tiến hành rà bom mìn, thủy lôi, chống phong tỏa bằng đường biển... Đã có 183
triệu lượt người được huy động tham gia đảm bảo giao thông, phục vụ chiến đấu,
phòng tránh sơ tán khắc phục hậu quả do địch gây ra, chi viện sức người sức của
có hiệu quả cho chiến trường miền Nam. Những kinh nghiệm cực kỳ phong phú và
sáng tạo trong xây dựng, hoạt động, chiến đấu của DQTV trong kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ đã đúc kết, rút kinh nghiệm để kịp thời áp dụng trong nhiệm vụ củng
cố quốc phòng hiện nay.
Lực lượng dân quân du kích ở miền Nam trong kháng chiến chống
Mỹ cứu nước đã tỏ rõ khả năng anh dũng phi thường, luôn chủ động đánh địch bằng
mọi thứ vũ khí, vận dụng các hình thức đánh địch hết sức phong phú, sáng tạo
trên khắp 3 vùng chiến lược; kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh
vũ trang, 3 mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận), hình thành thế trận
chiến đấu, phát triển các căn cứ chiến đấu, vành đai du kích, vành đai diệt Mỹ...
thực hiện bám trụ kiên cường, giữ thế xen kẽ, cài răng lược với địch. Đây là một
phương thức tác chiến, một cách đánh độc đáo, sáng tạo của chiến tranh du kích
Việt Nam. Lực lượng dân quân du kích đã phối hợp với nhân dân đấu tranh quyết
liệt chống địch dồn dân lập "Khu trù mật", lập "Ấp chiến lược",
độc lập và phối hợp với bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực trong mọi hoạt động,
góp phần đánh bại các chiến thuật "Trực thăng vận", "Thiết xa vận"
và các chiến lược chiến tranh của Mỹ - Ngụy như: "Bình định", "Ấp
chiến lược", "Tát nước bắt cá", "Chiến tranh đặc biệt",
"Chiến tranh cục bộ", "Việt Nam hóa chiến tranh"... Mặc dù
địch có phương tiện cơ động bằng máy bay và cơ giới, nhưng chúng vẫn phải phân
tán tới 90% quân số để đối phó với lực lượng vũ trang địa phương ta; đó là một
thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng. Trong cuộc tổng tiến công
mùa xuân 1975, lực lượng DQTV cùng bộ đội chủ lực và toàn dân miền Nam tiến
công và nổi dậy đồng loạt; xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải
phóng tỉnh "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" đã góp phần vô cùng
quan trọng vào Đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống
nhất Đất nước. Về chiến tranh du kích ở miền Nam một số nhà báo và chính giới Mỹ
đã phải thừa nhận: "Cuộc chiến tranh du kích là một nghệ thuật mà Việt Cộng
đã trở thành bậc thầy, những nghệ sĩ vĩ đại trong nghệ thuật đó" hoặc
"Chúng ta phải đương đầu với quân du kích tài tình chưa từng thấy trong lịch
sử loài người" (R. Rát-xét, Chủ tịch Ủy ban quân lực Thượng Nghị viện Mỹ).
Từ khi cả nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội lực
lượng DQTV đã làm nòng cốt cho nhân dân ở cơ sở khắc phục hậu quả chiến tranh,
tích cực rà phá, bóc gỡ bom mìn địch, giải phóng hàng triệu héc ta đất canh tác
để nhân dân khôi phục sản xuất, tiếp tục truy quét tàn quân, bọn phản động của
địch còn cài cắm lại. Lực lượng DQTV đã được huy động hàng triệu lượt người
tham gia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, phối hợp và phục vụ bộ đội chiến đấu
góp phần quan trọng vào thắng lợi của 02 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc biên
giới phía Bắc và biên giới Tây Nam, phối hợp với Công an nhân dân và các lực lượng
khác thực hiện tốt việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Đất nước.
Quán triệt thực hiện đường lối đổi mới trong các Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc khoá VI, VII, VIII và các Nghị quyết của Đảng về quốc
phòng - an ninh. Đặc biệt là ngày 29/9/1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ
thị số 55/BBT và ngày 29/01/1990 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số
29/HĐBT về xây dựng lực lượng DQTV trong tình hình mới.
Quán triệt các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc về tăng cường
quốc phòng và an ninh, Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 8 (khoá
IX) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chỉ thị số 16/CT-TW của
Ban Bí thư Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng DQTV
và lực lượng DBĐV trong tình hình mới. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành
Pháp lệnh DQTV năm 1996, Pháp lệnh DQTV năm 2004, Luật Dân quân tự vệ 2009 và mới
đây nhất là Luật Dân quân tự vệ năm 2019. Đây là văn bản có tính pháp lý cao nhất
của Nhà nước nhằm tiếp tục tăng cường chỉ đạo xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh
toàn diện cả về tổ chức, huấn luyện, hoạt động và công tác bảo đảm theo chức
năng, nhiệm vụ chặt chẽ thống nhất với cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều
hành, cơ quan quân sự làm tham mưu. Lực lượng DQTV ngày càng được củng cố, huấn
luyện hoạt động có hiệu quả lớn, phát huy tốt vai trò là một trong những lực lượng
nòng cốt trong lao động sản xuất, bảo vệ sản xuất, phòng chống khắc phục hậu quả,
thiên tai, địch hoạ và phối hợp cừng với các lực lượng khác góp phần giữ vững
an ninh chính trị – Trật tự an toàn xã hội ở các địa phương cơ sở.
Có thể nói những văn bản trên là bước cụ thể hoá đồng bộ nhất,
có ý nghĩa hết sức quan trọng đáp ứng kịp thời yêu cầu về nhiệm vụ xây dựng lực
lượng DQTV trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất
nước, đồng thời ngày càng khẳng định rõ vị trí, vai trò chiến lược của lực lượng
DQTV để góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn
dân vững mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN.
Trải qua 88 năm xây dựng, phát triển, chiến đấu và trưởng
thành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng DQTV là lực lượng
vũ trang quần chúng, sinh ra và lớn lên trong phong trào cách mạng của nhân
dân, gắn bó mật thiết với quê hương, làng bản, với từng căn nhà, đường phố,
công, nông lâm trường, nhà máy, xí nghiệp. Sống, chiến đấu trong lòng dân, được
nhân dân yêu thương, đùm bọc. Trong suốt 88 năm vượt qua đầy khó khăn, gian khổ,
thử thách, hy sinh, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ DQTV đã hết lòng trung thành với
Tổ quốc, với nhân dân, với sự nghiệp cách mạng của Đảng, chiến đấu kiên cường,
mưu trí, dũng cảm lao động học tập, công tác hiệu quả, sáng tạo và đã lập nhiều
chiến công to lớn; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và các lực lượng vũ trang nhân
dân giành những thắng lợi lịch sử Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt
nam XHCN và sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét