Thứ Hai, 27 tháng 7, 2020

Ở VIỆT NAM KHÔNG CẦN “ĐA NGUYÊN CHÍNH TRỊ, ĐA ĐẢNG ĐỐI LẬP”


                     Le Phong

Suốt thời gian gần đây, nhất là lợi dụng việc khi mà Đảng, Nhà nước ta tổ chức xin ý kiến nhân dân về bổ sung, sửa đổi Hiến pháp năm 1992 thì các thế lực thù địch lại càng đẩy mạnh việc chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều thủ đoạn cực kỳ nham hiểm, một trong những thủ đoạn họ đã tiến hành là vừa “khuyên”, vừa yêu cầu Việt Nam nên và cần phải thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, bởi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” mới dân chủ, hơn nữa việc thực hiện kinh tế hàng hóa nhiều thành phần tất yếu dẫn tới “đa đảng đối lập”, và chỉ như vậy mới là dân chủ, mới có nhiều dân chủ.

1. Phải chăng ở Việt Nam chỉ có thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” mới là dân chủ, chế độ một đảng là không dân chủ?
 Không, trăm nghìn lần không. Vì rằng, chế độ dân chủ XHCN ở nước ta chỉ có thể được xây dựng, thực hiện một cách đầy đủ, toàn diện, triệt để dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của một chính đảng duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng mácxit-lêninnit chân chính.
Ở đây cần thấy rằng, dân chủđa nguyên chính trị là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.
Nói dân chủ là nói đến quyền làm chủ xã hội thuộc về ai. Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ”; “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ của dân”. Như vậy, theo Hồ Chí Minh chế độ dân chủ thực chất là chế độ ủy quyền của nhân dân vào Nhà nước và Nhà nước là cơ quan quyền lực của dân, thực thi sự ủy quyền của dân.
Với tư cách là hình thức chế độ chính trị của đất nước, dân chủ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước, mang bản chất giai cấp sâu sắc, do các quan hệ sản xuất trong một xã hội nhất định quy định. Dân chủ phải gắn với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, quyền không thể thoát ly hoàn cảnh và điều kiện kinh tế - xã hội cho phép thực thi cái quyền đó; dân chủ gắn với pháp luật, kỷ cương, gắn với dân trí, với trình độ học vấn và dân chủ còn phụ thuộc vào một loạt yếu tố khác như: tương quan so sánh lực lượng giai cấp, vị thế, vai trò của đảng cầm quyền, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, truyền thống lịch sử... Dân chủ được thực hiện  bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là hai hình thức cơ bản nhất; dân chủ được thể hiện trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng - tinh thần…
Đối với CNXH, dân chủ thuộc bản chất của CNXH, chế độ dân chủ vô sản là chế độ dân chủ gấp triệu lần chế độ dân chủ tư sản như theo cách nói của V.I.Lênin. CNXH không thể tách rời dân chủ, không có dân chủ thì không có CNXH. CNXH, chủ nghĩa cộng sản là đỉnh cao trong sự phát triển của nhân loại, nên cũng là đỉnh cao của dân chủ. Nền dân chủ XHCN không thể tách rời việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; trong thiết chế dân chủ, quyền của công dân, tính tối cao của pháp luật được thừa nhận; những cơ quan quyền lực nhà nước đều do bầu cử mà ra.
Nền dân chủ vô sản gắn chặt với cuộc đấu tranh vì CNXH, cho nên, nó chỉ có thể được thực hiện bằng con đường thiết lập quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản đối với toàn bộ xã hội thông qua đội tiền phong của nó là đảng cộng sản. Chỉ giai cấp vô sản và đảng tiên phong của mình với cơ sở xã hội rộng lớn là quảng đại nhân dân lao động mới có khả năng thiết lập được nền chuyên chính vô sản vừa bảo đảm dân chủ cũng như lợi ích căn bản của đông đảo quần chúng lao động, vừa triệt tiêu mọi khả năng phục hồi chế độ bóc lột và nô dịch. Rõ ràng, việc các đảng cộng sản ở các nước vươn lên khẳng định vị trí đảng cầm quyền duy nhất sau khi đã giành được chính quyền là một quy luật gắn chặt với tiến trình đấu tranh vì nền dân chủ. Một đảng cầm quyền như vậy sẽ luôn luôn thống nhất từ trong bản chất, mục tiêu, phương thức của một nền dân chủ vì quyền lực và lợi ích của đa số những người lao động. Sự cầm quyền (tức vai trò lãnh đạo của đảng), quyền lực của đông đảo nhân dân gắn bó hữu cơ, khăng khít với nhau.
Còn nói đến đa nguyên chính trị là nói đến hệ thống chính trị có nhiều cực, có nhiều đảng phái đại biểu cho những lợi ích đối lập nhau được tự do hoạt động, đó là một chế độ đa đảng. Chế độ đa đảng không phải là dấu hiệu của dân chủ, chế độ một đảng không phải là nguyên nhân của mất dân chủ. Cái gốc để bảo đảm dân chủ hay không dân chủ là tư liệu sản xuất nằm trong tay ai. Dưới CNXH tư liệu sản xuất nằm trong tay nhân dân lao động và họ là người làm chủ xã hội. Dưới chủ nghĩa tư bản tư liệu sản xuất nằm trong tay một thiểu số nhà tư bản, nền dân chủ đó là quyền làm chủ của một nhóm tư bản độc quyền. Còn quần chúng nhân dân chỉ là những người bị thống trị. Chính V.I.Lênin đã từng khẳng định: “Trong chế độ dân chủ tư sản, bọn tư bản dùng trăm phương nghìn kế, - chế độ dân chủ “thuần túy” càng phát triển, thì những mưu kế đó càng tinh xảo và có hiệu quả, - để gạt quần chúng ra, không cho họ tham gia quản lý nhà nước”. Chế độ đa đảng trong hệ thống chính trị tư sản chỉ là sự phân chia quyền lực giữa các phe cánh của một đảng lớn duy nhất là đảng của những nhà tư bản độc quyền. Không có một nhà nước nào không phải là nhà nước chuyên chính của một giai cấp. Chỉ có giai cấp tư sản không dám công khai thừa nhận điều đó mà thôi. Thực chất, chế độ đa đảng ở phương Tây, cũng dựa trên cơ sở nhất nguyên chính trị, vì tất cả các đảng cánh hữu đều nhằm phục vụ chế độ tư bản. Qua tổng tuyển cử, đảng có đa số phiếu thì lập chính phủ điều hành công việc, các đảng khác là đối lập, mà chính các học giả tư sản gọi là đối lập trung thành, nghĩa là không thách thức các thể chế chủ yếu của chế độ tư bản, chỉ phê phán và phản đối một số chính sách cụ thể của chính phủ. Rõ ràng, tính nhất nguyên chính trị của nhà nước tư sản càng khẳng định không bao giờ được lãng quên tính giai cấp của nền dân chủ tư sản. V.I.Lênin khẳng định một cách dứt khoát rằng: “…đảng thống trị của chế độ dân chủ tư sản chỉ cho một đảng tư sản khác được quyền bảo hộ thiểu số; còn đối với giai cấp vô sản, thì trong mọi vấn đề trọng đại, sâu sắc, cơ bản thay cho quyền bảo hộ thiểu số thì có luật giới nghiêm hay những cuộc tàn sát. Chế độ dân chủ càng phát triển, thì trong trường hợp có sự chia rẽ về chính trị sâu sắc và nguy hiểm cho giai cấp tư sản, nó càng tiến gần đến tàn sát hay nội chiến”.
Thử hỏi chúng ta có thể xây dựng CNXH với một hệ thống chính trị như vậy được không? Không! Giai cấp công nhân chỉ có thể đóng được vai trò chủ thể lịch sử của mình khi được Đảng Cộng sản lãnh đạo và trong hệ thống chính trị không có các loại đảng phái đối lập, đại diện cho những lợi ích khác nhau. Điều này hoàn toàn dễ hiểu vì ngoài Đảng Cộng sản thì không có một đảng phái chính trị nào khác có thể lãnh đạo xây dựng CNXH, một chế độ xã hội mà mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ tư hữu và bóc lột. Đã là đảng đối lập với Đảng Cộng sản thì họ chỉ tìm cách thủ tiêu Đảng Cộng sản, thủ tiêu CNXH. Ngay cả đảng xã hội - dân chủ, một kiểu đảng đang hấp dẫn nhiều người cũng không phải là đảng có thể lãnh đạo xây dựng CNXH được. Đường lối của đảng xã hội - dân chủ là đường lối ổn định chủ nghĩa tư bản, là đường lối cải biên chế độ đó mà không đụng chạm đến chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa. Đường phân ranh giới giữa CNXH khoa học và CNXH - dân chủ là thái độ đối với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. CNXH khoa học chủ trương con đường đấu tranh giai cấp, tiến hành cách mạng XHCN, thiết lập chuyên chính vô sản, xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ áp bức bóc lột để đưa lại quyền làm chủ xã hội và no ấm, hạnh phúc cho nhân dân. Còn CNXH - dân chủ thì chủ trương hòa bình giai cấp, ảo tưởng sự tan biến các giai cấp và hòa nhập chủ nghĩa tư bản vào CNXH. Cho nên chỉ có sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản dựa trên nền tảng học thuyết Mác - Lênin là bảo đảm không gì thay thế được cho thắng lợi cuối cùng của CNXH. Mọi sự tìm kiếm nào khác, thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” hay hướng vào con đường xã hội - dân chủ chỉ là mất phương hướng chính trị- giai cấp, mơ hồ bản chất giai cấp của chế độ XHCN của chúng ta và tự mình từ bỏ CNXH.
2. Phải chăng ở Việt Nam thực hiện kinh tế thị trường là kinh tế nhiều thành phần tất yếu dẫn đến “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”?
Không, không bao giờ xảy ra điều đó cả. Vì rằng, không phải cứ có nhiều thành phần kinh tế thì ắt có nhiều giai cấp đối kháng và có nhiều đảng phái chính trị tương ứng.
Các lý luận gia tư sản lập luận rằng, kinh tế thị trường là kinh tế nhiều thành phần; ứng với mỗi thành phần có một giai cấp hoặc tầng lớp; mỗi giai cấp hoặc tầng lớp lại có một đảng phái hoặc tổ chức chính trị tương ứng. Do đó, ở Việt Nam thực hiện kinh tế nhiều thành phần mà lại chủ trương chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo là “mâu thuẫn”, là “nghịch lý” (!), thậm chí họ còn đòi nước ta phải thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, chỉ như vậy mới là dân chủ.
Cần thấy rằng, chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng không để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, vì một xã hội công bằng, văn minh. Người có khả năng và điều kiện làm việc đó không thể ai khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng XHCN của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển đất nước ta.
Hơn nữa, với kinh tế thị trường ở nước ta, các thành phần kinh tế đều là những bộ phận quan trọng hợp thành nền kinh tế đất nước, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, có sự quản lý, điều tiết của nhà nước, phát triển theo định hướng XHCN, do đó không thể cứ nhiều thành phần kinh tế thì có nhiều giai cấp đối kháng và có nhiều đảng phái chính trị tương ứng. Chiêu bài đòi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” của các thế lực thù địch giương ra, thực chất là mưu toan hạ thấp hoặc xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, gây xáo động, rối loạn trong nước, lật đổ chính quyền.
Còn thực chất về mối quan hệ giữa dân chủ và “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” đã được phân tích ở trên, ở đây chỉ xin nhấn mạnh rằng, dân chủ hay không dân chủ không phụ thuộc vào số lượng các đảng chính trị, vào việc áp dụng hay không áp dụng chế độ “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”. Chế độ một đảng hay nhiều đảng, không phải là dấu hiệu của dân chủ hay không dân chủ. Không phải cứ đa đảng thì dân chủ, còn một đảng thì không dân chủ. Chế độ một đảng cũng có thể dân chủ và cũng có thể mất dân chủ, vấn đề là ở chỗ, đảng cầm quyền đó có thực sự cách mạng không, có thực sự vì lợi ích của nhân dân không. Nếu một đảng cầm quyền, dù mang tên cộng sản, nhưng thoái hóa biến chất, xa rời quần chúng, xa rời nhân dân, không có bộ máy và phương thức hoạt động bảo đảm được dân chủ; không có một cơ chế kiểm soát, giám sát được quyền lực; nếu như đảng đó không có khả năng xây dựng được một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân… thì điều chắc chắn là không thể bảo đảm được dân chủ.
Rõ ràng, có hay không có dân chủ, dân chủ được thực hiện ở trình độ cao hay thấp, tất cả phụ thuộc vào bản chất của đảng cầm quyền, chứ không phụ thuộc vào số lượng nhiều hay ít các đảng phái chính trị. Tính chất và trình độ dân chủ của một nước, một xã hội được quyết định chủ yếu bởi tính chất của nền dân chủ, bản chất của đảng cầm quyền, và ở việc phát huy đến mức nào quyền làm chủ của đại đa số nhân dân, thực hiện đến mức nào lợi ích và ý chí của đại đa số nhân dân. Ví như xã hội ở miền Nam nước ta dưới thời Mỹ - Diệm có rất nhiều đảng như: “Cần lao”, “Nhân vị”, “Duy linh”, “Dân chủ”…nhưng không thể nói rằng đó là một xã hội dân chủ, càng không thể nói xã hội đó nhiều dân chủ hơn xã hội XHCN ở nước ta ngày nay.
3. Việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam không có sự cần thiết khách quan cho việc hình thành chế độ “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”.
Thực hiện dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động là bản chất, quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của Nhà nước Việt Nam XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo -  một “Đảng cách mạng. Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”. Đảng Cộng sản Việt Nam không hề áp đặt vai trò độc quyền lãnh đạo của mình. Để được nhân dân thừa nhận là người lãnh đạo, Đảng đã phải trải qua một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ, đầy thử thách, hy sinh với hàng vạn người con ưu tú của Đảng và dân tộc đã ngã xuống. Và thực tế đến nay chưa có một căn cứ nào đủ sức thuyết phục để bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; cũng chưa có lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cách mạng Việt Nam thực hiện dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Đó không phải là ý chí chủ quan về chính trị mà là một tất yếu khách quan của lịch sử, mọi mưu toan hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là trái với yêu cầu khách quan của quá trình phát triển đất nước và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Chỉ có các thế lực thù địch mới tìm mọi cách nói xấu, bôi nhọ Đảng, hòng hạ uy tín, vô hiệu hóa, tiến tới phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Và chỉ có ai dại dột, ngây thơ về chính trị mới bị các thế lực thù địch lừa mỵ, để rồi tự mình phủ nhận những thành quả cách mạng của nhân dân mình, muốn tạo ra những đảng đối lập và ngộ nhận rằng đó là tự do, dân chủ.
4. Làm thế nào để chỉ có một Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất cầm quyền mà vẫn thực hiện tốt được dân chủ?
Khi Đảng trở thành đảng duy nhất cầm quyền, rất thuận lợi cho quá trình dân chủ hóa trong xã hội, tạo được sự ổn định chính trị, thống nhất quyền lực. Đảng Cộng sản là tổ chức duy nhất đứng ra tập hợp ý kiến của toàn Đảng, toàn dân để quyết định mục tiêu, phương hướng xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc, không phải điều hòa, nhân nhượng, đấu tranh với các tổ chức đối lập. Đây là điều cực kỳ quý báu tạo ra sự tác động thuận bảo đảm quá trình dân chủ hóa xã hội diễn ra. Tuy nhiên, chế độ một đảng duy nhất cầm quyền cũng tiềm ẩn nguy cơ làm xơ cứng và mất dân chủ trong xã hội. Nó dễ dẫn Đảng đến sự chủ quan, duy ý chí, quan liêu trong hoạch định chủ trương, đường lối; sự lãnh đạo theo lối mệnh lệnh và quan liêu; dễ dẫn đội ngũ cán bộ, đảng viên sa vào tiêu cực, đặc quyền đặc lợi, tham nhũng, cửa quyền…Tất cả các nguy cơ trên đều tác động cản trở, kìm hãm quá trình dân chủ hóa xã hội.
Cần thấy rằng, quyền lực bao giờ cũng có hai mặt: một mặt, quyền lực là sức mạnh to lớn để Đảng sử dụng nhằm đưa cả dân tộc vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước; mặt khác, quyền lực lại có thể làm hư hỏng con người thậm chí cả một đảng nắm quyền lực. V. I. Lênin và Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra từ rất sớm những biểu hiện hư hỏng đó: tham quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực, tranh giành quyền lực, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân…làm cho dân chủ XHCN chỉ còn là hình thức. Sự sụp đổ của chế độ XHCN và sự tan rã của các Đảng Cộng sản cầm quyền ở Liên Xô và Đông Âu cuối thế kỷ trước cũng có nguyên nhân sâu xa từ đó.
Vậy làm sao một Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền mà không trở thành chuyên quyền, đảng trị, dân vẫn là chủ, còn Đảng thì vừa là người lãnh đạo, lại vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân? Làm sao một Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền mà không sa vào tình trạng quan liêu, xa rời quần chúng có hại cho dân chủ? Không có đảng đối trọng, không có sự giám sát và phản biện của đảng đối trọng, một đảng duy nhất cầm quyền dễ chủ quan, tự mãn…Đây là những vấn đề, cũng là những khó khăn lớn đặt ra đối với vai trò lãnh đạo của mọi Đảng Cộng sản quyền nói chung, Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.
Để giải quyết những vấn đề đó nhằm phát huy và thực hành dân chủ, phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, Đảng phải thật sự trở thành tấm gương về dân chủ trong xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng là để bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. Mức độ thực hiện quyền dân chủ của nhân dân được xem là thước đo đánh giá tính đúng đắn trong sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo làm sao để nhân dân làm chủ ngày càng tốt hơn, dân chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng và sâu sắc hơn - đó là sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản cầm quyền.
Muốn thực hiện được điều đó, một mặt, Đảng phải xác định đúng đắn phương hướng, mục tiêu, con đường đi lên của đất nước, sự hưng thịnh của dân tộc. Theo đó, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị, trước hết là nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được các mục tiêu, nhiệm vụ đã vạch ra; lãnh đạo việc thể chế hóa, pháp luật hóa các nghị quyết của Đảng; thiết kế bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ, quản lý và rèn luyện cán bộ phục vụ việc thực hiện nhiệm vụ chính trị; kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng; tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện đường lối, chính sách.
Mặt khác, để có đủ khả năng, điều kiện lãnh đạo đúng đắn và có hiệu  quả, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng về mọi mặt, làm cho      Đảng tiếp tục phát huy bản chất, truyền thống cách mạng tốt đẹp, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong gương mẫu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm cao trí tuệ, có phương pháp lãnh đạo khoa học, gắn bó mật thiết với nhân dân, đủ sức đoàn kết lãnh đạo toàn dân, vượt qua mọi khó khăn thử thách, thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng. Nhờ vậy, Đảng vươn lên thành biểu tượng về dân chủ - nhân tố có ý nghĩa quyết định tới dân chủ hóa hệ thống chính trị và dân chủ hóa xã hội./.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét