Lê
Phong
Để có
tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh rất chú ý xuất phát từ thực tế
Việt Nam. Yêu cầu phát triển của Việt Nam là: dân tộc độc lập, đất nước giàu
mạnh, mọi người được tự do, dân chủ, hạnh phúc. Điều này được Hồ Chí Minh thể
hiện ngay trong tiêu đề văn bản hành chính của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa:
“Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” và trong nhiều lần phát biểu khác. Hoàn cảnh thực
tế Việt Nam trong từng giai đoạn, mỗi thời kỳ là một tiêu điểm làm cơ sở cho
mọi suy nghĩ của Hồ Chí Minh. Những điều diễn ra trong thực tế luôn hiển hiện
trước mắt mọi người, nhưng không phải ai cũng nhận thức được như nhau. Nhận
thức chính xác tình hình thực tế phụ thuộc rất lớn vào tầm nhìn, bản lĩnh của
con người. Với tầm cao trí tuệ, Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ, chính xác tình
hình thực tế Việt Nam, đưa ra quan điểm sát hợp.
Điều này được thể hiện rõ nét nhất, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, dân tộc Việt Nam bị chế độ thực dân đặt ách thống trị và thực hiện chính
sách bóc lột hà khắc. Nhân dân Việt Nam sống hết sức cơ cực, vừa chịu áp bức
của phong kiến, vừa chịu ách đô hộ của thực dân. Đứng trước hoàn cảnh đất nước
bị giặc ngoại xâm áp bức, với truyền thống yêu nước và ý chí đấu tranh bất
khuất, các phong trào yêu nước đã nổ ra ở khắp nơi. Nhưng các phong trào đó đều
thất bại vì không lôi kéo được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia và không
phản ánh đúng được xu thế của thời đại. Tình hình đó đã đặt ra yêu cầu phải tìm
được con đường mới đúng đắn phù hợp cho dân tộc. Thực tiễn đó đã thôi thúc Hồ
Chí Minh tìm ra con đường cứu nước mới, không thể rập khuôn theo những lối mòn
của những nhà yêu nước đương thời. Trong khi đó, ở phương Tây, cuộc cách mạng
tư sản diễn ra mạnh mẽ, nhân dân các nước đó đã được “tự do, bình đẳng”. Thực
tiễn các nước phương Tây đã thôi thúc Người phải sang tận nơi để tìm hiểu tường
tận rồi từ đó trở về “cởi ách” cho dân tộc mình. Từ hoàn cảnh đất nước khi đó
đã đặt ra yêu cầu bức thiết cần phải tìm ra một con đường và đưa cách mạng Việt
Nam đi tới thắng lợi chính là điểm xuất phát trong suy nghĩ của Người.
Suốt quá trình tìm đường
cứu nước cho đến khi giành được chính quyền, lãnh đạo chính quyền, xây dựng nhà
nước mới, Người luôn xuất phát từ thực tiễn để rút ra những nhận định, giải đáp
những yêu cầu của thực tiễn, khái quát thành lý luận chỉ đạo hoạt động thực
tiễn. Trong cuộc hành trình qua các châu lục, từ châu Âu đến châu Phi, châu Mỹ
La tinh, qua các nước từ Việt Nam đến Trung Quốc, Pháp, Mỹ, Anh… Người luôn
muốn tìm hiểu thực tiễn cuộc sống của nhân dân lao động, bằng việc trực tiếp làm
những công việc của họ. Thực tiễn cuộc sống của nhân dân các nước thuộc địa và
các nước tư bản đã giúp Người có những nhận thức mới. Đó là những tài liệu sống
vô cùng quý giá, chân thực cho những bài tố cáo tội ác của thực dân, là cơ sở
để Người viết “Bản án chế độ thực dân Pháp”; đồng thời, là cơ sở để Người phác
họa con đường cách mạng Việt Nam thể hiện trong các văn kiện quan trọng như:
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Những dữ liệu của thực tiễn cùng với quá trình nghiên cứu lý luận của chủ
nghĩa Mác là cơ sở quan trọng giúp Người đề ra tư tưởng cách mạng tự lực cánh
sinh: “Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công
cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân
anh em”[1]. Sau này, Người tiếp tục khẳng định, một dân
tộc cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập. Có thể
thấy, Hồ Chí Minh luôn trên cơ sở của thực tiễn để đề ra lý luận giải đáp các
vấn đề thực tiễn đặt ra.
Phong cách tư duy luôn
xuất phát từ thực tiễn của Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở việc Người luôn quán
triệt quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hành động. Khi đến với chủ nghĩa
Mác, Người không áp dụng một cách máy móc, giáo điều, mà luôn đứng trên “mảnh
đất hiện thực” của cách mạng Việt Nam, trên nền của văn hóa phương Đông để vận
dụng chủ nghĩa Mác - Lênin. Người luôn tư duy biện chứng, bổ sung, phát triển
lý luận của chủ nghĩa Mác trên cơ sở những vấn đề thực tiễn ở nước ta nói riêng
và các nước phương Đông nói chung. Như vậy, quan điểm thực tiễn luôn được Người
quán triệt sâu sắc và triệt để, đảm bảo lý luận thống nhất với thực tiễn, bổ
sung phát triển lý luận trên cơ sở thực tiễn và phù hợp với thực tiễn.
Quá
trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hồ Chí Minh cho rằng không
nên coi lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác là kinh thánh, là những
công thức có sẵn, cứng nhắc, mà phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn của đất
nước để vận dụng lý luận đó vào nước ta cho phù hợp: “Tuy chúng ta đã có những
kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta không thể áp dụng những
kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta”[2]. Với đặc điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu, điểm xuất
phát thấp đi lên chủ nghĩa xã hội càng phải lựa chọn hình thái, bước đi thích
hợp; tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội. Người nêu rõ quan điểm: “chủ
nghĩa xã hội không thể làm mau được mà phải làm dần dần”[3]. Nếu không xuất phát từ thực tiễn, không nhận thức sâu
sắc những đặc điểm hoàn cảnh của đất nước và rập khuôn cách làm của nước ngoài
thì có thể không thành công.
Trong mọi hoàn cảnh,
phong cách tư duy luôn xuất phát từ thực tiễn của Hồ Chí Minh là phương châm
chỉ đạo hành động của Người, đó là phải luôn phân tích tình hình cụ thể của
lịch sử, vận dụng sáng tạo lý luận vào những hoàn cảnh cụ thể để đưa ra những
quyết sách đúng đắn cho cách mạng thành công. Sự phân tích cụ thể tình hình đối
với toàn bộ vấn đề giải phóng dân tộc và giải phóng thuộc địa đã đưa tầm nhìn
của Hồ Chí Minh ghi dấu ấn vào lịch sử.
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa