Thứ Hai, 2 tháng 9, 2019

PHƯƠNG PHÁP GẮN LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA HỒ CHÍ MINH



                                                       Lê Phong
Để có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh rất chú ý xuất phát từ thực tế Việt Nam. Yêu cầu phát triển của Việt Nam là: dân tộc độc lập, đất nước giàu mạnh, mọi người được tự do, dân chủ, hạnh phúc. Điều này được Hồ Chí Minh thể hiện ngay trong tiêu đề văn bản hành chính của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” và trong nhiều lần phát biểu khác. Hoàn cảnh thực tế Việt Nam trong từng giai đoạn, mỗi thời kỳ là một tiêu điểm làm cơ sở cho mọi suy nghĩ của Hồ Chí Minh. Những điều diễn ra trong thực tế luôn hiển hiện trước mắt mọi người, nhưng không phải ai cũng nhận thức được như nhau. Nhận thức chính xác tình hình thực tế phụ thuộc rất lớn vào tầm nhìn, bản lĩnh của con người. Với tầm cao trí tuệ, Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ, chính xác tình hình thực tế Việt Nam, đưa ra quan điểm sát hợp.

Điều này được thể hiện rõ nét nhất, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam bị chế độ thực dân đặt ách thống trị và thực hiện chính sách bóc lột hà khắc. Nhân dân Việt Nam sống hết sức cơ cực, vừa chịu áp bức của phong kiến, vừa chịu ách đô hộ của thực dân. Đứng trước hoàn cảnh đất nước bị giặc ngoại xâm áp bức, với truyền thống yêu nước và ý chí đấu tranh bất khuất, các phong trào yêu nước đã nổ ra ở khắp nơi. Nhưng các phong trào đó đều thất bại vì không lôi kéo được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia và không phản ánh đúng được xu thế của thời đại. Tình hình đó đã đặt ra yêu cầu phải tìm được con đường mới đúng đắn phù hợp cho dân tộc. Thực tiễn đó đã thôi thúc Hồ Chí Minh tìm ra con đường cứu nước mới, không thể rập khuôn theo những lối mòn của những nhà yêu nước đương thời. Trong khi đó, ở phương Tây, cuộc cách mạng tư sản diễn ra mạnh mẽ, nhân dân các nước đó đã được “tự do, bình đẳng”. Thực tiễn các nước phương Tây đã thôi thúc Người phải sang tận nơi để tìm hiểu tường tận rồi từ đó trở về “cởi ách” cho dân tộc mình. Từ hoàn cảnh đất nước khi đó đã đặt ra yêu cầu bức thiết cần phải tìm ra một con đường và đưa cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi chính là điểm xuất phát trong suy nghĩ của Người.
Suốt quá trình tìm đường cứu nước cho đến khi giành được chính quyền, lãnh đạo chính quyền, xây dựng nhà nước mới, Người luôn xuất phát từ thực tiễn để rút ra những nhận định, giải đáp những yêu cầu của thực tiễn, khái quát thành lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Trong cuộc hành trình qua các châu lục, từ châu Âu đến châu Phi, châu Mỹ La tinh, qua các nước từ Việt Nam đến Trung Quốc, Pháp, Mỹ, Anh… Người luôn muốn tìm hiểu thực tiễn cuộc sống của nhân dân lao động, bằng việc trực tiếp làm những công việc của họ. Thực tiễn cuộc sống của nhân dân các nước thuộc địa và các nước tư bản đã giúp Người có những nhận thức mới. Đó là những tài liệu sống vô cùng quý giá, chân thực cho những bài tố cáo tội ác của thực dân, là cơ sở để Người viết “Bản án chế độ thực dân Pháp”; đồng thời, là cơ sở để Người phác họa con đường cách mạng Việt Nam thể hiện trong các văn kiện quan trọng như: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những dữ liệu của thực tiễn cùng với quá trình nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác là cơ sở quan trọng giúp Người đề ra tư tưởng cách mạng tự lực cánh sinh: “Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”[1]. Sau này, Người tiếp tục khẳng định, một dân tộc cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập. Có thể thấy, Hồ Chí Minh luôn trên cơ sở của thực tiễn để đề ra lý luận giải đáp các vấn đề thực tiễn đặt ra.
Phong cách tư duy luôn xuất phát từ thực tiễn của Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở việc Người luôn quán triệt quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hành động. Khi đến với chủ nghĩa Mác, Người không áp dụng một cách máy móc, giáo điều, mà luôn đứng trên “mảnh đất hiện thực” của cách mạng Việt Nam, trên nền của văn hóa phương Đông để vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin. Người luôn tư duy biện chứng, bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác trên cơ sở những vấn đề thực tiễn ở nước ta nói riêng và các nước phương Đông nói chung. Như vậy, quan điểm thực tiễn luôn được Người quán triệt sâu sắc và triệt để, đảm bảo lý luận thống nhất với thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận trên cơ sở thực tiễn và phù hợp với thực tiễn.
Quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hồ Chí Minh cho rằng không nên coi lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác là kinh thánh, là những công thức có sẵn, cứng nhắc, mà phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn của đất nước để vận dụng lý luận đó vào nước ta cho phù hợp: “Tuy chúng ta đã có những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta”[2]. Với đặc điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu, điểm xuất phát thấp đi lên chủ nghĩa xã hội càng phải lựa chọn hình thái, bước đi thích hợp; tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội. Người nêu rõ quan điểm: “chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được mà phải làm dần dần”[3]. Nếu không xuất phát từ thực tiễn, không nhận thức sâu sắc những đặc điểm hoàn cảnh của đất nước và rập khuôn cách làm của nước ngoài thì có thể không thành công.
Trong mọi hoàn cảnh, phong cách tư duy luôn xuất phát từ thực tiễn của Hồ Chí Minh là phương châm chỉ đạo hành động của Người, đó là phải luôn phân tích tình hình cụ thể của lịch sử, vận dụng sáng tạo lý luận vào những hoàn cảnh cụ thể để đưa ra những quyết sách đúng đắn cho cách mạng thành công. Sự phân tích cụ thể tình hình đối với toàn bộ vấn đề giải phóng dân tộc và giải phóng thuộc địa đã đưa tầm nhìn của Hồ Chí Minh ghi dấu ấn vào lịch sử.


1 nhận xét: