Internet
ra đời đã trở thành nguyên nhân, động lực, môi trường, chất xúc tác cho hàng
loạt các thay đổi căn bản trên các mặt đời sống xã hội của loài người. Với Việt
Nam, từ ngày chính thức kết nối với mạng Internet (19/11/1997), không gian mạng
đã thay đổi nhiều khía cạnh của xã hội theo cả chiều tích cực và tiêu cực, đặt
ra cho các nhà quản lý nước ta nhiều vấn đề trong phát triển hạ tầng và bảo đảm
sự phát triển bền vững không gian mạng Việt Nam.
1. Sự phát triển hạ tầng không gian mạng Việt Nam
Không gian Internet phát triển mạnh
là điểm sáng của Việt Nam trong hơn hai thập kỷ qua. Tốc độ tăng trưởng người
dùng Internet, sử dụng mạng xã hội của nước ta thuộc vào hàng cao nhất trong
khu vực. Internet được mở rộng tới mọi đối tượng người dân, vươn tới vùng núi,
nông thôn, biên giới và ra cả hải đảo. Sự phát triển về hạ tầng không gian mạng
ở Việt Nam thể hiện ở các điểm sau:
Về tên miền “.vn”. Tên miền “.vn”
vẫn giữ vị trí đứng đầu trong khu vực ASEAN về số lượng đăng ký sử dụng; giữ vị
trí thứ 7 trong TOP 10 quốc gia Châu Á về số lượng tên miền cấp cao mã quốc
gia. Và tên miền “.vn” tiếp tục có tỷ lệ tăng trưởng đăng ký sử dụng cao hơn
tên miền quốc tế với khoảng cách ngày càng cách biệt. Tính đến tháng 10/2015,
Việt Nam có 335.794 tên miền không dấu và 926.065 tên miền tiếng Việt.
Về tài nguyên địa chỉ
Với số lượng địa chỉ IPv4 là
15.758.080, giữ vị trí thứ 2 Đông Nam Á, thứ 8 trong khu vực Châu Á và đứng thứ
28 trong số các nước có nhiều địa chỉ IPv6 nhất trên thế giới. Trong bối cảnh
IPv4 đang cạn kiệt (sử dụng 32 bit địa chỉ) do phát triển mạnh về số lượng các
nút và mạng thành phần kết nối Internet, năm 1998, ủy ban kỹ thuật Internet
(IETF- Internet Engineering Task Force) đã định hình giao thức cho thế hệ tiếp
theo của Internet. Giao thức đó dựa trên IPv6 (với định dạng 128 bit địa chỉ)
và khả năng đánh số lớn gấp nhiều lần so với IPv4. Nhiệm vụ của giai đoạn tới
sẽ chuyển đổi bảo đảm tương thích của thiết bị kết nối giữa hai giao thức
Internet cơ bản này.
Về hạ tầng kết nối và an toàn thông
tin: Với số lượng các tổ chức và cá nhân kết nối không ngừng tăng, theo đó số
lượng cổng kết nối và lưu lượng trao đổi qua Trạm trung chuyển Internet quốc
gia (VNIX - hạ tầng kỹ thuật quan trọng hỗ trợ, thúc đẩy phát triển Internet
của Việt Nam) cũng tăng mạnh.
2. Các yếu tố đe dọa sự phát triển
bền vững của không gian mạng Việt Nam
Hiện nay, tuy xu thế hòa bình, hợp
tác là chủ đạo, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, tội phạm và khủng
bố vẫn đang diễn ra tại nhiều nước trên thế giới ngày càng phức tạp, tạo nên
nhiều bất ổn. Trong khi các nước lớn bắt tay nhau, và nhiều nước khác cũng đang
ngấm ngầm bắt tay với các nước lớn nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, nên họ thiếu
những tác động tích cực vào quan hệ hợp tác, trong đó có vấn đề phòng, chống
tội phạm trên không gian mạng. Mặt khác, các tổ chức phản động quốc tế, tổ chức
khủng bố đang tận dụng lợi thế của không gian mạng để tăng cường các hoạt động
thù địch chống phá ta với quy mô lớn.
Ở trong nước, theo thống kê của các tổ chức về an ninh
mạng, hàng năm không gian mạng Việt Nam luôn phải đối mặt với nhiều loại hình
tiến công ngày càng thường xuyên hơn, sức tàn phá nhiều hơn, quy mô rộng khắp
hơn. Điển hình là các vụ giả mạo trang tin, lừa đảo trên mạng; tiến công từ
chối dịch vụ, phát tán mã độc hoặc vi rút máy tính, thư rác, phần mềm gián
điệp, đánh cắp thông tin, phá hoại dữ liệu,... Trong các cuộc tiến công mạng,
bên cạnh các đối tượng tiến công trong nước, hệ thống thông tin của ta còn chịu
sự tiến công từ mạng nước ngoài. Các thế lực thù địch đang theo đuổi âm mưu
“diễn biến hòa bình”, kích động bạo loạn, hòng lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam và
xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, chúng đang triệt để tuyên truyền
thông tin qua không gian mạng tiến công chúng ta dưới nhiều hình thức, như: tác
động đa nguyên, đa đảng; tuyên truyền các nội dung phản động; bôi nhọ lãnh đạo
và những thành quả cách mạng,... Tình hình đó tác động không nhỏ đến sự phát
triển không gian mạng Việt Nam.
3. Thực trạng mô hình tổ chức lực lượng tác chiến
không gian mạng của nước ta hiện nay
Đối với Quân đội, công nghệ thông tin bảo đảm cho
chiến đấu, phục vụ công tác chỉ huy, quản lý, điều hành, là nền tảng của các hệ
thống tự động hóa chỉ huy; các hệ thống vũ khí công nghệ cao. Trong thời gian
qua, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã có nhận thức đúng về những tiện ích, những
nguy cơ, thách thức an ninh từ môi trường không gian mạng, từ đó đề ra những
chủ trương, biện pháp ưu tiên phát triển lực lượng tác chiến không gian mạng.
Bộ Quốc Phòng đang từng bước triển khai xây dựng, phát triển lực lượng tác
chiến không gian mạng; đầu tư, nâng cao tiềm lực; triển khai các biện pháp bảo
vệ hệ thống thông tin quân sự, quốc phòng; chủ động xây dựng các phương án
phòng vệ đáp trả các cuộc xâm nhập, tiến công mạng nhằm vào chủ quyền quốc gia.
Bên cạnh những kết quả đã làm
được, việc tổ chức lực lượng tác chiến không gian mạng trong phòng, chống chiến
tranh không gian mạng của Quân đội vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập đó là:
Công
tác quản lý Nhà nước về hoạt động bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian
mạng và phòng, chống chiến tranh không gian mạng mới đang triển khai xây dựng
và từng bước hoàn thiện. Các chương trình hành động, cơ sở lý luận và nghệ
thuật quân sự về tác chiến không gian mạng chưa được đầu tư nghiên cứu, xây
dựng và hoàn thiện; Lực lượng tác chiến không gian mạng mới được thành lập;
việc phối hợp giữa lực lượng tác chiến không gian mạng của Quân đội với lực
lượng An ninh mạng của Bộ Công an, lực lượng Bảo đảm An toàn thông tin của Bộ
Thông tin và Truyền thông và các lực lượng có liên quan còn hạn chế; Hoạt động
của các lực lượng chuyên trách về tác chiến không gian mạng chưa đáp ứng được
yêu cầu thực tiễn; thiếu kinh nghiệm về hoạt động tác chiến; phương tiện,
trang, thiết bị chuyên dụng, vũ khí mạng, cơ sở vật chất phục vụ nhiệm vụ tác
chiến không gian mạng chưa được đầu tư tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ.
Những bất cập, hạn chế trên làm giảm đáng kể hiệu quả
hoạt động của lực lượng tác chiến không gian mạng và các lực lượng liên quan,
nếu chậm khắc phục, nguy cơ không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ tác chiến
không gian mạng và phòng, chống chiến tranh không gian mạng trong tình hình mới
là hiện hữu.
4. Định hướng nghiên cứu về tổ chức,
xây dựng lực lượng tác chiến không gian mạng của Quân đội ta
Về cấu trúc mô hình tổ chức lực lượng, tác chiến không
gian mạng cần có đủ cơ cấu các thành phần: hệ thống chỉ huy tác chiến, cơ quan
quản lý, điều hành hệ thống và các đơn vị tác nghiệp cũng như hệ thống bảo đảm
hỗ trợ kỹ thuật và nghiệp vụ. Mô hình tổ chức phải mang tính mở và đồng bộ với
các hệ thống khác, như: TTLL, tác chiến điện tử, hệ thống chỉ huy bảo đảm tác
chiến,…
Về lực lượng, phải phù hợp với tổ chức, biên chế của
Quân đội hiện nay và xu hướng phát triển trong tương lai. Tổ chức lực lượng
tinh gọn, hiện đại, có khả năng chuyển đổi linh hoạt, bảo đảm độ liên kết vững
chắc trong từng khu vực và toàn bộ hệ thống trên địa bàn cả nước. Đội ngũ cán
bộ, chiến sỹ cần được đào tạo, huấn luyện để có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
chuyên sâu; vũ khí, trang bị hiện đại, tích hợp với các hệ thống khác một cách
vững chắc, tin cậy; phát triển và làm chủ công nghệ trong khai thác, sử dụng.
Cùng với đó, tổ chức, xây dựng lực lượng tác chiến
không gian mạng phải bảo đảm tính kinh tế, hiệu quả về quốc phòng - an ninh.
Việc đầu tư phát triển hệ thống vũ khí, trang bị kỹ thuật cần có tính kế thừa,
phát triển và phù hợp với nhu cầu, điều kiện của người khai thác, sử dụng, theo
mục tiêu, yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của các lực lượng tác chiến không gian
mạng. Tác chiến không gian mạng của Quân đội ta là loại hình tác chiến trên môi
trường mới, chưa nhiều kinh nghiệm. Những đề xuất trên đây vừa là mục tiêu, vừa
là yêu cầu cần đạt được trong nghiên cứu, xây dựng, phát triển lực lượng tác
chiến không gian mạng của Quân đội đáp ứng yêu cầu trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, trên MXH bọn phản động đã tung nhiều thông tin xuyên tạc, bịa đặt, chống đối Đảng và Nhà nước ta; chúng ta cần hết sức tỉnh táo và đề cao cảnh giác, không để mắc mưu của chúng.
Trả lờiXóa