Xung
quanh dịp kỷ niệm 100 năm thắng lợi của cách mạng Tháng Mười vĩ đại, hiện nay
trên mạng xã hội đang có một số quan điểm, ý kiến xét lại về ý nghĩa, giá trị
lịch sử của cách mạng Tháng Mười. Đặc biệt, một số quan điểm đã tập trung phủ
nhận vai trò lãnh đạo của chính đảng cách mạng của giai cấp vô sản trong cách
mạng Tháng Mười, cho rằng cách mạng Tháng Mười là cuộc cách mạng tự phát của
công nhân, nông dân và binh lính nước Nga khi bị áp bức đến cùng cực. Thực
chất, các quan điểm trên đều là các quan điểm phản khoa học, không dựa trên căn
cứ lý luận và thực tiễn nhằm thực tiến tới môt cái đích chung là phủ nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng cộng sản nói chung. Bằng thực tiễn cách mạng Tháng Mười,
chúng ta hãy làm rõ điều đó.
"Ngày
7 tháng 11 năm 1917, tiếng súng cách mạng tháng Mười Nga đã vang lên như một
hồi kèn xung trận làm chấn động địa cầu, thức tỉnh cả loài người tiến bộ"[1].
Cách mạng tháng Mười Nga, cuộc cách mạng vô sản đầu tiên thành công trên một
phần sáu trái đất, đã chặt đứt mắt xích yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ
nghĩa đế quốc, mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cuộc cách mạng tháng Mười vĩ đại
đã để lại cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nói chung cũng như cách
mạng Việt Nam
nói riêng nhiều bài học kinh nghiêm quý báu. Một trong số những bài học đó
chính là bài học về sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp vô sản – nhân tố
quyết định thắng lợi của cách mạng tháng Mười.
Trên cở
nghiên cứu sâu sắc những quan điểm khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác, trong
quá trình hoạt động và lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động Nga, V.I Lênin - lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân Nga,
ngay từ rất sớm đã nhận thức rõ rằng: sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân
và nhân dân lao động Nga chỉ có thể đi tới thắng lợi khi nước Nga có được một
chính đảng cách mạng của giai cấp vô sản.
Kế thừa
và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác về đảng cộng sản, V.I Lênin đã
khái quát và đưa ra nhiều luận điểm quan trọng về đảng và công tác xây dựng
đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Một mặt, Người khẳng định tính đúng đắn
của những luận điểm cơ bản
của C.Mác và Ph.Ăngghen về chính đảng cách
mạng của giai cấp vô sản; chỉ rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của đảng đối
với sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa. Mặt khác, từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng tháng Mười
và phong trào công nhân Nga, Lênin đã phát triển tư tưởng của C.Mác, Ph.
Ăng-ghen về chính đảng của giai cấp vô sản lên một tầm cao mới, hình thành học
thuyết về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Dựa trên
những quan điểm chung của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác về chính đảng cách
mạng của giai cấp vô sản và những quan điểm sáng tạo của mình, Lênin đã vận
dụng vào thực tiễn quá trình xây dựng đảng Bônsêvíc - chính đảng cách mạng của
giai cấp công nhân Nga: đây chính là nhân
tố có ý nghĩa quyết định nhất dẫn đến thắng lợi của cách tháng Mười và sau này
trở thành bài học kinh nghiệm quý báu cho quá trình xây dựng chính đảng
cách mạng của giai cấp công nhân nhiều nước trên thế giới.
Đảng Bônsêvíc Nga có
tiền thân từ Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga được thành lập sớm vào năm 1898
nhưng ban đầu chịu ảnh hưởng tư tưởng của phái kinh tế và Betxtanh. Ngay sau
khi đảng công nhân xã hội dân chủ Nga ra đời, Lênin đã vạch ra kế hoạch đấu
tranh để biến đảng này thành đảng kiểu mới dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa Mác. Tại Đại hội II của Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga (1903),
khi thông qua Cương lĩnh và Điều lệ, Đảng chia thành 2 phái: phái đa số do
Lênin đứng đầu gọi là "Bônsêvich", phái thiểu số còn lại do Mactôp (L.Martov)
đứng đầu gọi là "Mensêvich".
Tới Đại hội VI họp ở Praha (1912), những người Bônsêvich cắt đứt quan hệ với Mensêvich,
thành lập Ban Chấp hành Trung ương do Lênin lãnh đạo và Văn phòng Nga của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga để chỉ đạo các công tác
trong nước, thường gọi là Đảng Bônsêvich (Sau khi cách mạng tháng Mười Nga thành
công, Đại hội VII (1918) đổi thành Đảng Cộng sản (Bônsêvich) Nga).
Suốt quá trình cách mạng tháng Mười, Đảng Bônsêvíc đã chuẩn bị, chỉ đạo
chặt chẽ cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo khởi nghĩa, Đảng đã kiên quyết đấu
tranh chống lại bọn Mensêvíc và bọn xã hội - cách mạng để giữ vững nguyên tắc
của chủ nghĩa Mác. Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng Bônsêvíc Nga đã
đưa tới thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Mười, mở ra một trang sử mới cho
nước Nga cũng như cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.
Bài học về sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Bônsêvíc Nga trong cách mạng tháng
Mười thể hiện trên những vấn đề cụ thể sau:
Trước hết, Đảng Bônsêvíc Nga đã nhạy bén với tình hình
thực tế cách mạng trong nước và hoàn
cảnh quốc tế.
Đầu thế kỷ XX, trung tâm cách mạng thế giới chuyển từ Đức sang Nga, nước
Nga trở thành nơi tập trung mâu thuẫn của thời đại, là nhà tù của các dân tộc.
Với những chính sách sai lầm của chế độ quân chủ chuyên chế đứng đầu là Nga
hoàng, đời sống của nhân dân lao động nước Nga vô cùng khổ cực. Mâu thuẫn giữa
địa chủ và nông nô ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn mới giữa giai cấp tư sản Nga và
giai câp vô sản cũng xuất hiện và ngày càng rõ rệt. Chính sách phân biệt đối xử
của Nga hoàng đã tạo ra mâu thuẫn trong nội bộ nuốc Nga, giữa các dân tộc thuộc
Nga. Bên ngoài, mâu thuẫn giữa nước Nga với các nước đế quốc khác cũng lên tới
đỉnh điểm với mưu đồ chia lại thị trường thế giới…
Đặc điểm, tình hình đó cộng thêm hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế
(1900-1903) và thất bại của Nga hoàng trong chiến tranh Nga-Nhật (1904) đã làm
nước Nga lún sâu vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Nắm bắt chính xác tình hình
đó, những người Bônsêvíc trong Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga đã lãnh đạo giai cấp công nhân và
nhân dân lao đông Nga tiến hành cuộc cách mạng dân chủ tư sản(DCTS) lần thứ
nhất (1905). Mặc dù cuộc cách mạng DCTS lần thứ nhất thất bại nhưng nó đã giáng
một đòn mạnh mẽ vào thành trì của chế độ Nga hoàng, báo hiệu sự sụp đổ của nó
trong tương lai, đồng thời đó là lần tập dượt cách mạng quý báu của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động để chuẩn bị cho các hành động cách mạng tiếp
theo.
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) nổ ra, chính phủ Nga hoàng
nhảy vào tham chiến với mưu đồ đẩy mâu thuẫn trong nước ra bên ngoài và chia
lại thị trường thế giới. Thế nhưng sau hai năm tham chiến, nền kinh tế Nga trở
nên kiệt quệ, nợ nước ngoài lên tới 8 tỉ rúp vàng, nạn đói diễn ra tràn lan
khắp đất nước, mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giai cấp phát triển đến độ sâu sắc.
Việc tham gia vào chiến tranh thế giới lần thứ nhất của chính phủ Nga hoàng còn
làm cho nền độc lập của nước Nga bị đe dọa, nước Nga đứng trước nguy cơ trở
thành thuộc địa của các nước đế quốc khác…
Đứng trước tình hình đó, đầu năm 1917, Đảng Bônsêvíc Nga đứng đầu là Lênin
đã chủ động lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân và binh linh
Nga đứng lên đòi lật đổ Nga hoàng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Đảng Bônsêvíc, tháng
1 năm 1917 phong trào bãi công của quần chúng đã phát triển mạnh mẽ ở Pêtơrôgrát. Nhận thấy xu
hướng phát triển của phong trào, những người Bônsêvíc đã chủ trương tiếp tục
bãi công để đi đến tổng bãi công và khởi
nghĩa. Chủ trương đúng đắn đó đã đưa tới thắng lợi của quân khởi nghĩa ở
Pêtơrôgrát chiều 27 tháng 2 và sau đó là trên cả nước với sự ra đời của các
xôviết.
Sau thắng lợi của cuộc cách mạng DCTS tháng 2, trong điều kiên có hai
chính quyền song song tồn tại là các xôviết của công nhân, binh lính và chính
phủ lâm thời của giai cấp tư sản. Với đặc điểm là giai cấp vô sản Nga vẫn chưa
đủ mạnh để lật đổ giai cấp tư sản, hơn nữa trong các xôviết, bọn Mensêvíc vẫn còn
chiếm đa số, Lênin và những người Bônsêvíc đã chủ trương giành chính quyền về tay các xôviết bằng
phương pháp hòa bình. Thế nhưng đến tháng 7 năm 1917, do bọn Mensêvíc và bọn xã
hội cách mạng liên minh với giai cấp tư sản để tiến công Đảng Bônsêvíc, trong
nước thì tình hình tiến triển theo hướng có lợi cho giai cấp tư sản, bên ngoài
nguy cơ về sự can thiệp và sự giúp đỡ từ phía Anh và Pháp cho bọn phản cách mạng trong nước đang hiển hiện. Mặt khác, vào lúc
này công nhân, nông dân và binh lính Nga đã thấy rõ bộ mặt của giai cấp tư sản
và bọn Mensêvíc, sẵn sàng theo cách mạng, do đó, Lênin và Đảng Bônsêvíc đã chủ
trương chuyển phương pháp cách mạng sang giành chính quyền bằng con đường bạo
lực. Phân tích một cách sâu sắc tình hình trong nước và quốc tế, Đảng Bônsêvíc
Nga đã tích cực chuẩn bị mọi mặt, nắm lấy tình thế và thời cơ cách mạng để phát
động khởi nghĩa giành chính quyền. Sau khi trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách
mạng, trước những biến chuyển mau lẹ của tình hình, Lênin đã quyết định phát
động khởi nghĩa sớm hơn một ngày. Ngày 24 tháng 10(lịch Nga), từ điện Kremmi,
Lênin đã viết thư gửi các Ban chấp hành trung ương quyết định ngay tức khắc
phải khởi nghĩa: "Dù thế nào ngay tối nay, đêm nay phải bắt chính phủ,
tước vũ khí sĩ quan…trì hoãn là chết". Mệnh lệnh của Lênin đã biến thành
hành động của quân khởi nghĩa. Chỉ trong 2 ngày 24 và 25 tháng 10 cách
mạng đã giành được thắng lợi ở thủ đô và đến đầu tháng 2 năm 1918 cách mạng
giành thắng lợi trên toàn quốc
Như vậy, nhờ nắm bắt chính xác đặc điểm tình
hình trong nước, quốc tế và nắm vững thời cơ
cách mạng đó, Lênin và Đảng Bônsêvíc Nga đã lãnh đạo công nhân, nông dân và
binh lính Nga làm nên thắng lợi của cách mạng tháng Mười vĩ đại, giành chính
quyền về tay các xôviết, mở ra một trang sử mới cho các dân tộc trên toàn nước
Nga, đồng thời mở ra một thời đại mới trong lịch sử toàn thế giới- thời đại quá
độ từ CNTB lên CNXH.
Thứ hai, kiên định mục tiêu lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế Nga hoàng,
giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời bám
sát thực tiễn vận động của cách mạng, Đảng Bônsêvíc đã đề ra đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo trong cách mạng tháng Mười.
Trên cơ sở kiên
định mục tiêu đã xác định, trong quá trình chuẩn bị những tiền đề cho cách mạng tháng Mười đặc
biệt sau cuộc cách mạng DCTS tháng 2, Lênin
và Đảng Bônsêvích đã chú trọng vào những vấn đề thực tiễn như: Tuyên truyền
chống chiến tranh đế quốc; chủ trương “Bôn-sê-vích hóa quân đội”; thiết lập sự
kiểm soát của công nhân đối với sản xuất và phân phối; giải quyết vấn đề trao
ruộng đất cho nông dân... để tập hợp lực lượng quần chúng đông đảo, trung thành
với Đảng, qua đó, nâng cao uy tín, phát triển tổ chức đảng và các xô viết địa
phương.
Mặt khác, trong điều kiện tình hình phức tạp sau cuộc cách mạng DCTS
tháng 2 với sự tồn tại của hai chính quyền song song, Đảng Bônsêvích đã xác
định chủ trương chuyển biến cách mạng đúng đắn bằng phương pháp hòa bình. Sở dĩ
như vậy là bởi: Sau cách mạng DCTS tháng hai, quần chúng tuy mới thức tỉnh
nhưng chưa am hiểu về chính trị; Lúc này những người Bônsêvích còn đang trực
tiếp lãnh đạo quần chúng trên đường phố trong khi bon Mensêvíc và bon xã hội cách mạng đã "lẻn vào chiếm ghế" giành đa số trong các xôviết,
một bộ phận những người Bônsêvích khác lại đang ở nước ngoài chưa về kịp, một
bộ phận thì đang bị cầm tù. Hơn nữa, vào thời điểm này trình độ giác ngộ, tổ
chức của giai cấp vô sản Nga vẫn còn kém do đặc điểm cấu thành trong thời kỳ
chiến tranh, bộ phận cốt cán thì bị động viên vào quân đội...Về phía kẻ thù,
thời điểm sau cách mạng tháng 2, giai cấp tư sản vẫn chưa dám dùng bạo lực với
quần chúng, chúng sử dụng chiêu bài bảo vệ tổ quốc và giả danh cách mạng nên
còn lừa bịp được quần chúng. Rõ ràng, vào lúc này nhiệm vụ của những người
Bônsêvíc là phải tuyên truyền, giác ngộ quần chúng để quần chúng nhận rõ bộ
mặt của bọn Mensêvíc và bọn phản cách mạng, từ đó đi theo cách mạng. Đó chính
là cơ sở để Đảng Bônsêvích phát huy sức
mạnh của quần chúng giành lấy chính quyền. Như vậy, phương pháp chuyển biến
cách mạng bằng con đường hòa bình vào thời điểm đó là hoàn toàn đúng đắn và như
Lênin đã khẳng định "đó là con đường quý và hiếm".
Tuy nhiên, sau
tháng 7 năm 1917 trước sự tấn công điên cuồng của kẻ thù đối với Đảng Bônsêvích
và những chuyển biến mau lẹ của thực tiễn cách mạng, con đường hòa bình không
còn phù hợp nữa. Lênin và Đảng Bônsêvích đã
quyết định phải giành chính quyền bằng con đường bạo lực. Đây là sự nhạy bén và
sáng tạo trong tư duy và năng lực lãnh đạo của Đảng Bônsêvích Nga.
Nắm chắc tình thế và thời cơ cách mạng, Lênin và Đảng Bônsêvíc đã quyết
định phát động khởi nghĩa vào ngày 25 tháng 10. Sau khi kế hoạch khởi nghĩa bị
lộ, những người Bônsêvíc theo mệnh lệnh của Lênin đã kiên quyết lãnh đạo công
nhân, nông dân và binh lính Nga tiến hành khởi nghĩa ngay trong ngày 24 tháng
10. Chính sự nhạy bén và kiên quyết trong quá trình lãnh đạo đó của Đảng Bônsêvíc
đã làm kẻ thù không kịp trở tay, đưa tới thắng lợi nhanh chóng của quân khởi
nghĩa ở thủ đô trong ngày 25 tháng 10, tạo bàn đạp quan trọng để đánh đuổi bọn
Mensêvíc ra khỏi các xô viết ngay trong Đại hội xô viết toàn Nga trong ngày hôm
đó.
Sau khi cách mạng thắng lợi trên toàn quốc (đầu tháng 2
năm 1918), Đảng Bônsêvíc Nga tiếp tục đề ra đường lối lãnh đạo cách mạng đúng đắn
như đập: Đập tan bộ máy
Nhà nước cũ, xây dựng bộ máy Nhà nước mới; Thông qua: "Sắc lệnh hòa bình" và "Sắc
lệnh ruộng đất"; Thành lập Hồng quân để bảo vệ thành quả cách mạng; Quốc
hữu hóa các nhà máy xí nghiệp của giai cấp tư sản, xây dựng nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa... Những đường lối cách mạng đúng đắn đó chính là cơ sở để chính
quyền xôviết non trẻ đứng vững trước sự chống phá của thù trong, giặc ngoài,
không ngừng lớn mạnh và phát triển, đưa tới sự ra đời của Liên bang cộng hòa
XHCN Xô viết (12/1922).
Thứ ba, trong quá trình lãnh đạo cách mạng tháng Mười, Đảng Bônsêvíc Nga đã kết
hợp tốt giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức các phong trào cách mạng
trong quần chúng từ đó tạo ra những chuyển biến tích cực trong nhận thức và
hành động cách mạng của đảng viên và quần chúng nhân dân.
Trong cách mạng tháng Mười, Lê-nin và Đảng Bônsêvích
không chỉ giáo dục, vận động quần chúng, mà còn trực tiếp tổ chức các phong
trào quần chúng, như: Nông dân chiếm đất hoang của địa chủ, công nhân đấu tranh
và thực hiện ngày làm việc 8 giờ; binh lính bắt tay thân thiện ngoài mặt
trận... Những phong trào này vừa đem lại lợi ích thực tế, vừa tập dượt, rèn
luyện năng lực và kỹ năng đấu tranh cho quần chúng. Thích ứng với mỗi một sự
kiện, mỗi một đối tượng, một thời kỳ chuyển biến của cách mạng, Lê-nin và Đảng
Bônsêvích không chỉ nêu ra cương lĩnh hành động chung, mà còn nêu ra những khẩu
hiệu riêng, cách thức tổ chức riêng để tập hợp, giáo dục, tập dượt quần chúng
cũng như phát triển các tổ chức đảng và các xôviết. Đặc biệt sau cuộc cách mạng
DCTS tháng 2, những người Bônsêvíc đã trực tiếp xuống đường phố với quần chúng,
hòa mình vào phong trào đấu tranh của quần chúng để trực tiếp định hướng nhận
thức, xây dựng niềm tin qua đó thúc đẩy quần chúng nhiệt tình hành động theo
mục tiêu đã xác định của Đảng. Chính việc kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa
công tác tư tưởng và công tác tổ chức các phong trào cách mạng trong quần chúng
đã giúp Lê-nin và Đảng Bônsêvích kịp thời đưa những chủ trương mới của Đảng đến
với quần chúng, biến những chủ trương đó thành hành động cách mạng của quần
chúng. Đây chính là nguồn sức mạnh vĩ đại và to lớn nhất giúp Đảng Bônsêvích Nga
phát huy vai trò lãnh đạo vinh quang của mình thực hiện thắng lợi cuộc cách
mạng tháng Mười lịch sử.
Như vậy, nghiên cứu,
tìm hiều về cách mạng tháng Mười để thấy rằng: dù dòng chảy lịch sử vẫn
trôi với biết bao đổi thay nhưng ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng tháng Mười
vẫn còn mãi, nó như mặt trời
chói lọi," chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp
bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng
nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”[2]. Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười vĩ
đại với bài học về vai trò lãnh đạo của
chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân không chỉ có sức sống mãnh liệt
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế mà nó còn có một ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với cách mạng Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét