Thứ Hai, 11 tháng 9, 2023

Cảnh giác hoạt động vu cáo chính quyền “kỳ thị” người dân tộc Khmer

1. Nhận diện luận điệu

Ngày 01/9/2023, trên trang blog Đối Thoại tán phát bài “Người Khmer ở Việt Nam và người Việt ở Campuchia”, nội dung xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với công tác dân tộc và công tác đảm bảo nhân quyền ờ Việt Nam; vu cáo chính quyền “kỳ thị” người dân tộc Khmer; đồng thời, kích động tư tường mâu thuẫn, thù địch, hẹp hòi, ly khai dân tộc.

2. Khảng định

Blog Đối Thoại tán phát bài “Người Khmer ở Việt Nam và người Việt ở Campuchia” đã có các nội dung xuyên tạc sai sự thật trắng chợn, thiếu khoa học

3. Cơ sở phản bác

3.1. Cơ sở lý luận

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã quan tâm và ban hành nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Khmer, như: Chỉ thị 68-CT/TW ngày 14/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VI và Thông báo số 67-TB/TW ngày 14/3/2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X “Về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer”. Nghị quyết số 21/NQ- TW của Bộ Chính trị “Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010” và Kết luận số 28-KL/TW ngày 14/8/2012 của Bộ Chính trị “Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2011 - 2020” nhằm xây dựng tổng thể các chính sách ưu đãi riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Đồng bằng sông Cửu Long, trọng tâm là đối với đồng bào Khmer giai đoạn 2014 - 2020 và có Chiến lược phát triển toàn diện đối với đồng bào dân tộc Khmer đến năm 2030, định hướng đến năm 2050; Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/1/2018 của Ban Bí thư về tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình hình mới... Việc thể chế hóa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã được Chính phủ, các ban, bộ, ngành và các địa phương có đông đồng bào dân tộc Khmer thực hiện nghiêm túc, cụ thể, phù hợp với sự phát triển chung của cả vùng và từng địa phương. Chính phủ ban hành 100 văn bản thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng đang triển khai thực hiện trên địa bàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có 58 chính sách chung có liên quan đến chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số và vùng dân tộc thiểu số và 42 chính sách riêng đối với đồng bào dân tộc thiểu số; chủ yếu là các quyết định phê duyệt các chính sách, dự án quan trọng, toàn diện đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung đối với đồng bào Khmer nói riêng.

3.2. Cơ sở thực tiễn

Về giáo dục, đào tạo: Công tác chăm lo sự nghiệp giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao dân trí, duy trì và phát triển tiếng nói, chữ viết của đồng bào Khmer luôn được Đảng, Nhà nước và cấp ủy, chính quyền các địa phương đặc biệt quan tâm, chú trọng. Nhiều chính sách ưu đãi đối với học sinh, sinh viên dân tộc Khmer như: cử tuyển, dự bị đại học, học bổng, hỗ trợ tiền, gạo, miễn giảm học phí; chính sách thu hút đối với giáo viên, cán bộ giáo dục công tác trong vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn của đồng bào được thực hiện có hiệu quả. Hệ thống trường phổ thông, trường dân tộc nội trú, trường dạy nghề cho con em đồng bào Khmer đã phát triển đến 100% các huyện có đông đồng bào Khmer; tỷ lệ huy động trẻ em Khmer trong độ tuổi đến trường đạt trên 90%. Tính đến cuối năm 2022, toàn vùng đã có 30 trường phổ thông nội trú ở cấp huyện và tỉnh, được xây dựng với tổng số vốn đầu tư hăng trăm tỷ đồng. Bình quân hằng năm có trên 500 em người dân tộc Khmer được tuyển sinh theo hình thức cử tuyển. Việc dạy song ngữ ở các trường tiểu học, trung học cơ sở vùng đồng bào dân tộc Khmer từng bước được mở rộng (Theo số liệu thống kê, các tỉnh có đông đồng bào Khmer hiện đã có hàng trăm trường dạy song ngữ, riêng tỉnh Sóc Trăng có 158 trường, với 1.672 lớp và 42.988 học sinh). Đa số địa phương đã quan tâm thực hiện tốt chế độ chính sách cho giáo viên và các vị sư tham gia giảng dạy chữ Khmer tại các điểm chùa, trường học trong dịp hè. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học ở hầu hết các trường có đông đồng bào Khmer sinh sống được tăng cường đầu tư, cơ bản đáp ứng yêu cầu; đội ngũ giáo viên là người Khmer được quan tâm, đào tạo, bồi dưỡng; số giáo viên đạt chuẩn tăng cả về số lượng và chất lượng, nhiều cán bộ quản lý và giảng dạy người dân tộc Khmer đạt được những thành tích xuất sắc, được phong tặng danh hiệu cao quý trong những năm đổi mới.

Về công tác y tế: Công tác chăm lo sức khỏe cho đồng bào Khmer luôn được cấp ủy, chính quyền, chú trọng. Mạng lưới y tế cơ sở thường xuyên được đầu tư, củng cố. Chất lượng khám chữa bệnh từng bước được nâng lên; công tác phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe, vệ sinh an toàn thực phẩm được triển khai đồng bộ, rộng khắp. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn dưới 30%. Mỗi năm, đã có trên 70 nghìn lượt người được khám, chữa bệnh miễn phí.

Công tác văn hóa, thông tin: Việc bảo tồn, khai thác và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer những năm qua được triển khai thực hiện, đạt nhiều kết quả. Đài phát thanh của các địa phương đã tăng thời lượng phát sóng các chương trình bằng tiếng Khmer. Các địa phương có đông đồng bào dân tộc Khmer phát hành báo chữ Khmer, báo ảnh Thông tấn xã Việt Nam đã phát hành song ngữ Việt - Khmer; mở trang web phục vụ nhu cầu và nâng cao nhận thức của người dân. Một số tỉnh đã xây dựng nhà truyền thống dân tộc Khmer; Tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng xây dựng được nhà bảo tàng dân tộc Khmer, đồng thời sưu tầm được nhiều hiện vật văn hóa vật thể, phi vật thể có giá trị. Một số nơi đã xây dựng trung tâm văn hóa tiêu biểu của đồng bào Khmer. Các di tích lịch sử văn hóa của đồng bào Khmer cơ bản được đầu tư tu bổ với hàng trăm tỷ đồng từ Trung ương và địa phương. Các lễ hội truyền thống được duy trì và tổ chức tốt. Các đội văn nghệ chuyên nghiệp, quần chúng được khuyến khích đầu tư phát triển. Việc giao lưu văn hóa, họp mặt hữu nghị với các dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam và các nước láng giềng tiếp tục được tăng cường, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân của Đảng và Nhà nước ta. Mạng lưới truyền thanh đến nay đã tới 100% thôn, ấp; Internet đã được phát triển ở nhiều nơi, tạo điều kiện để đồng bào tiếp cận với nhiều thông tin của cả nước và thế giới. Tỷ lệ hộ đồng bào dân tộc Khmer có phương tiện nghe, nhìn tăng cao, đạt bình quân 98% như Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, nhiều địa phương đạt 100%, như Kiên Giang, Cần Thơ.

4. Phương hướng thực hiện tốt chính sách với người dân tộc Khmer

Một là, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị các cấp ở các tỉnh vùng đồng bào dân tộc Khmer sinh sống nhận thức nghiêm túc, sâu sắc những quan điểm của Đảng về công tác dân tộc trong tình hình mới; kịp thời cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Chính phủ thành chính sách, chương trình hành động, kế hoạch thực hiện cụ thể, phù hợp với điều kiện thực tế tại các địa phương đồng bào Khmer sinh sống. Trong quá trình thực hiện cần có sự phân công, phân cấp rõ trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền, các ban, bộ, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

Hai là, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên phải thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động đồng bào, đồng thời thực hiện tốt phong cách công tác dân vận “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”; kiên trì thực hiện quan điểm “Dân là chủ”, “Dân làm chủ”; nắm chắc diễn biến tâm tư, tình cảm của đồng bào, phát huy và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; giải quyết kịp thời, đúng đắn những bức xúc chính đáng của đồng bào, trong đó đặc biệt chú trọng tới vấn đề đất đai, tôn giáo. Tập trung mọi nguồn lực chăm lo phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho đồng bào, yếu tố quan trọng để củng cố niềm tin giữa Nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Ba là, coi trong xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, chăm lo cho đội ngũ cán bộ người dân tộc Khmer, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, bố trí cán bộ một cách hợp lý để từng bước nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền, đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc Khmer.

  

1 nhận xét:

  1. Mỗi công dân Việt Nam cần nêu cao tinh thần cảnh giác, nhận diện được âm mưu của của các thế lực thù địch và bọn phản động không để chúng lừa gạt, kích động, lôi kéo.

    Trả lờiXóa