“QUÁN
TRIỆT NGUYÊN TẮC RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC “NÓI PHẢI ĐI ĐÔI VỚI LÀM” TRONG TÁC PHẨM
“SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC””
Tác
phẩm: “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào tháng 10 năm
1947 - thời điểm đất nước ta đã vượt qua hoàn cảnh “ ngàn cân treo sợi tóc” và
bước vào vừa kháng chiến, vừa kiến quốc với những thuận lợi và khó khăn, thách
thức mới. Tinh thần, nội dung cơ bản của tác phẩm có thể khai thác ở nhiều
chiều cạnh khác nhau, nhưng đều hướng đến cách thức thực hiện mục đích đào thải
những thói hư, tật xấu, những chứng bệnh trái với đạo đức cách mạng trong đội
ngũ cán bộ, đảng viên đang cản trở bước tiến cách mạng. Tác phẩm “ Sửa đổi lối
làm việc” đã góp phần quan trọng vào xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự
là tấm gương sáng về đức tính hy sinh cho Đảng, cho đất nước, góp phần tạo nên
những chiến công vang dội, được ghi vào lịch sử oai hùng dân tộc. Nhân kỷ niệm
70 năm ra đời tác phẩm, cần tiếp tục khai thác nội dung, khẳng định ý nghĩa
khoa học, giá trị nhân văn, tầm vóc tinh hoa văn hóa Việt Nam đối với rèn luyện
đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay. Một trong những nội
dung quan trọng, giá trị cần được khai thác là:“Quán triệt nguyên tắc rèn luyện
đạo đức “Nói phải đi đôi với làm” trong tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc”” của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
“Nói phải đôi với làm” biểu hiện, sự cụ
thể hóa nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn một cách dễ hiểu nhất.
Xuyên suốt toàn bộ nội dung và thấm vào từng luận điểm một tinh thần của nguyên
tắc: “ nói phải đi đôi với làm” trong đó, sự tập trung chủ yếu vào thực tiễn
rèn “ việc làm” là cơ bản. Tư tưởng của Người trong tác phẩm đã phản ánh đúng
thực trạng hạn chế, khuyết điểm ở nhiều cán bộ đảng viên là “Nói không đi đôi
với làm”, gây tác hại cho Đảng. Qua đó vận dụng vào hoàn cảnh hiện nay để nó có
sức sống, có ý nghĩa mang tính hiện thời, hiện thực sâu sắc.
Rèn
luyện đạo đức trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” hướng đến thực hiện mục
tiêu đào thải những “chứng bệnh” như: chủ quan; hẹp hòi; ba hoa,v.v đúng với
chỉ dẫn của Người. Những chứng bệnh trên được hiểu là những mặt đối lập, sự đối
kháng, những kẻ thù nguy hiểm nhất của phát triển đạo đức cách mạng. Người chỉ
rõ: “Bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh hẹp hòi,v.v., mỗi chứng bệnh là một kẻ
địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch
bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong
phá ra…..phải chữa hết những chứng bệnh đó”[1]. Nội
dung, tinh thần trên cho thấy một nguyên tắc, một yêu cầu cơ bản là: phải kiên
quyết chống, chữa, khắc phục một cách triệt để.
“Nói phải đi đôi với làm” là một biện
pháp hữu hiệu, là một nguyên tắc cơ bản nhất để khắc phục những chứng bệnh trên,
đồng thời là một định hướng thiết thực
cho rèn luyện đạo đức cán bộ, đảng viên hiện nay. Có thể tiếp cận và luận giải ở
một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất: Quán triệt nguyên tắc rèn luyện đạo đức “ Nói phải đi đôi với
làm” trong chống bệnh “ Ba hoa”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dành nhiều nội
dung và cách thức chống, chữa chứng bệnh, thói “ba hoa”. Thói “ba hoa” được Chủ
tịch Hồ Chí Minh dành cả mục VI để dẫn giải và chỉ ra cách thức chống một cách
cụ thể. Sự dẫn giải từ những biểu hiện đến nguyên nhân và đến tác hại của nó đối
với phát triển Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và rèn luyện đạo đức
cách mạng theo nguyên tắc “Nói phải đi đôi với làm”. Mặc dù nội dung về thói “
ba hoa” được dẫn giải nhiều, nhưng bản chất là: lý luận không gắn với thực
tiễn; nói không đi đôi với làm; vi phạm nguyên tắc tính Đảng một cách trực tiếp.
Người chỉ rõ: “ Lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau. Vì kém
tính Đảng mà có những bệnh sau này”[2]. Người
xác định “bệnh, thói ba hoa” ở vị trí thứ nhất trong 12 chứng bệnh có tính nguy
hiểm, cần phải chống ở lĩnh vực đạo đức.
Quán triệt nguyên tắc rèn luyện đạo
đức “Nói đi đôi với làm” trong chống thói “ bao hoa” có tính toàn diện cả trong
học tập lý luận, cách nói, cách diễn đạt và cả trong việc làm; đồng thời phải
cụ thể hóa vào từng việc, trong từng hoàn cảnh một cách sát thực. Người chỉ rõ:
thói “ ba hoa” có nhiều vẻ, nhưng tập trung nhất ở “Dài dòng, rỗng tuếch”[3] và
bệnh “ sáo cũ”. Nội dung này biểu hiện ở: “Kém lý luận, hoặc khinh lý luận,
hoặc lý luận suông”. Những biểu hiện ấy đều dẫn đến tách rời lý luận và thực
tiễn; nói không đi đôi với làm. Người chỉ dẫn: “Viết và nói cố nhiên phải vắn
tắt. Song trước hết phải có nội dung. Phải chữa cho hết bệnh nói dài, viết
rỗng”[4]; “
Học cốt để làm. Học mà không làm được, học mấy cũng vô ích”[5].
Tinh thần, nội dung trên vận dụng vào rèn luyện đạo đức thì mỗi cán bộ, đảng
viên phải vừa học để nắm thực chất, vừa chuẩn xác trong diễn đạt, vừa tích cực
trong thực hành, tự tu dưỡng bản thân mình thống nhất với nhau. Khi vận động và
tổ chức quần chúng phải nói, diễn đạt phù hợp với trình độ của dân cho họ hiểu,
dễ hiểu và thể hiện tinh thần rèn luyện tích cực để lôi cuốn, tập hợp quần
chúng noi theo bằng tấm gương hành vi của mình. Tinh thần, nội dung ấy được Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn trong mục: “Cách chữa thói ba hoa”. Trong đó nổi bật
nhất là: “Ta viết cho ai xem? Nói cho ai nghe”[6].
Chiếu dọi tinh thần trên vào quán
triệt nguyên tắc rèn luyện đạo đức “ Nói phải đi đôi với làm” cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên hiện nay cũng phải từ những nội dung, giá trị và cách thức ấy một
cách cụ thể. Phải tích cực tự rèn trong học tập lý luận; tự rèn để có kỹ năng trong
dùng từ ngữ, diễn đạt phù hợp với trình độ, đặc điểm tâm lý cho quần chúng ở
từng đối tượng. Không hiểu bản chất lý luận sẽ rơi vào rập khuôn (nhai lại) từ
ngữ có tính hàn lâm, người dân không hiểu được. Cùng với nó là tự tu dưỡng, rèn
luyện mình bằng các hành vi, hoạt động cụ thể trở thành tấm gương sáng về đức
tính hy sinh phục vụ lợi ích của dân, của Đảng, của dân tộc. Qua mục II về: Mấy
điều kinh nghiệm trong tác phẩm, với những ví dụ của đồng chí “A” xin đi làm
giáo viên; về kêu gọi làng kiểu mẫu, trại kiểu mẫu,v.v để mỗi cán bộ, đảng viên
thấy “ Nói phải đi đôi với làm” rất cụ thể. Trên cơ sở ấy cụ thể hóa vào chức
trách, nhiệm vụ của mình một cách sát thực. Mỗi người đều làm được như vậy sẽ
chữa được thói “ba hoa”; tuân thủ nguyên tắc rèn luyện đạo đức “ Nói phải đi
đôi với làm” một cách thiết thực.
Chiếu dọi vào điều kiện hiện nay, đặc
biệt thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị,v.v,
thì còn những biểu hiện của nói nhiều, làm ít hay nói không đi đôi với làm ở
không ít cán bộ, đảng viên. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”; “tự chuyển hóa” trở thành một trong những nguy cơ
trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa, của dân tộc và sự lãnh
đạo của Đảng là một minh chứng dễ hiểu. Trong “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ và chứng minh qua mục: “Chính sách thì đúng, cách làm thì
sai”. Trong các nội dung được trình bày, nổi lên một vấn đề: “ …khẩu hiệu thì
đúng, nhưng thực hành không có kết quả mỹ mãn”[7]. Mặc
dù khái quát ấy đã 70 năm, nhưng vẫn còn nguyên giá trị, bởi vì hiện nay: quan
điểm của Đảng rất đúng, nhưng cách làm của mỗi cán bộ, đảng viên chưa phù hợp,
cho nên kết quả chưa được mỹ mãn.
Thứ hai: Quán triệt nguyên tắc rèn luyện đạo đức “ Nói phải đi đôi với
làm” trong chống bệnh “khai hội”
“Bệnh khai hội” là một trong hai chứng bệnh
liên quan đến vấn đề quần chúng và quan hệ giữa cán bộ cấp trên với cán bộ cấp
dưới khi thực hiện nhiệm vụ của Đảng. Tuy nhiên, bệnh khai hội có tính chất của
“một chứng bệnh” cần phải chống như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra là: “Ông cán”
làm một “tua” hai, ba giờ đồng hồ. Nói gì đâu đâu. Còn công việc thiết thực
trong khu, trong tỉnh, trong huyện, trong xã dó, thì không động đến….Có ai hiểu
gì đâu là thảo luận”[8]; “Chỉ
có mấy cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phòng giấy mà viết, cứ tưởng
mình là đúng, mình viết là hay”[9]. Chứng
bệnh khai hội ấy là một phương diện của vi phạm nguyên tắc “Nói phải đi đôi với
làm” nói chung và ở góc độ đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng. Bởi vì, nó
cản trở tiến trình cách mạng, gây tổn thất đến lợi ích của nhân dân, dân tộc,
tạo ra những thói hư tật xấu trong cán bộ, đảng viên. Quán triệt nguyên tắc rèn
luyện “Nói phải đi đôi với làm” là khắc phục, đào thải bệnh khai hội như trên.
Coi sự tuân thủ nguyên tắc này có tính bức thiết nhất, đồng thời có thái độ
kiên quyết nhất để khắc phục bệnh khai hội như trên hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Nói tóm lại, cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên
truyền, khẩu hiệu, viết báo,v.v. của chúng ta, đều phải lấy câu này làm khuôn
phép.
Từ trong quần chúng mà ra. Về sâu
trong quần chúng”[10];
“ Bất cứ việc to, việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn
hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm đấu tranh lòng ham, ý
muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà định cách làm việc, cách tổ
chức…”[11].
Từ chỉ dẫn trên, đặt ra yêu cầu cho
mỗi cán bộ, đảng viên, chiếu dọi vào suy nghĩ, hành động của mình ở từng cương
vị, chức trách cụ thể và tự mình kiểm điểm, tự phê bình để hiện thực hóa nguyên
tắc “ Nói phải đi đỗi với làm” trong thực tiễn hiện nay. Ngoài ra còn phải vận
dụng vào phê bình đồng chí, đồng đội để cùng nhau khắc phục bệnh “ khai hội”
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra.
Nghị quyết trung ương 4 khóa XII, Chỉ
thị 05 của Bộ Chính trị về “ tự phê bình và phê bình”; về “học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cũng sẽ phải “khai hội”, triển
khai,v.v, nhưng cần chấm dứt ngay những biểu hiện lệch lạc như đã cảnh báo
trong “Sửa đổi lối làm việc”. Đây là một nguyên tắc để khai hội đúng với “Nói
phải đi đôi với làm” và đi vào thực tiễn. Cụ thể là, nói trong tự phê bình và
phê bình cũng như thực hành trong tự phê bình và phê bình xuyên suốt từ khai
hội đúng đến hành vi và thực tiễn thực hiện có chất lượng, hiệu quả thiết thực.
Thứ ba: Quán triệt nguyên tắc rèn luyện đạo đức “Nói phải đi đôi với
làm” trong tự phê bình và phê bình
Tự phê bình và phê bình là nội dung,
là biện pháp cơ bản được Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung nhiều trong các chỉ dẫn
học tập, rèn luyện, đặc biệt trong “Sửa đổi lối làm việc”. Rèn luyện đạo đức
theo nguyên tắc “Nói phải đi đôi với làm” của cán bộ, đảng viên hiện nay phải
đúng với chỉ dẫn trong “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi tự
phê bình và phê bình.
Trước hết, quán triệt mục đích tự phê
bình và phê bình như Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Mục đích phê bình cốt để giúp
nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn. Cốt
đoàn kết và thống nhất nội bộ”[12];
“Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người”[13].
Tinh thần ấy có giá trị định hướng, có ý nghĩa của một nguyên tắc trong rèn
luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên hiện nay. Chất lượng, hiệu quả tự phê bình
và phê bình hiện nay chưa cao có nguyên nhân cơ bản là vận dụng nguyên tắc ấy
chưa thật tương xứng. Biểu hiện nể nang khi phê bình hoặc khi nghe những lời đồng
chí, đồng đội phê bình còn mặc cảm tâm lý, khó chịu trong tiếp thu vẫn còn.
Điều đó đặt ra phải chấn chỉnh, sửa chữa. Khắc phục bằng cách vận dụng tư tưởng
Chủ tịch Hồ Chí Minh về: Muốn họ thành tâm sửa chữa, phải giải thích rõ ràng,
làm cho họ tự trông thấy, tự nhận rõ sự sai lầm đó, làm cho họ vui lòng sửa
đổi, chứ không phải bị cưỡng bức mà sửa đổi[14]. Chỉ có như vậy mới tạo ra tự phê và phê bình
một cách trung thực, thẳng thắn, đoàn kết cùng tiến bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Vì vậy, phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để,
thật thà, không nể nang, không thêm bớt,v.v.”[15].
Tính nguyên tắc của tự phê bình và
phê bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh được hiểu như hai mặt thống nhất. Người chỉ
rõ: “Hai việc đó phải đi đôi với nhau”[16].
Qua đó để thấy rõ trong vận dụng không quá đề cao hay tuyệt đối hóa mặt nào.
Về phương pháp tự phê bình và phê
bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ trong “Sửa đổi lối làm việc” là: “ …phải lấy
lòng thân ái, lòng thật thà…”[17];
“Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa
như mỗi ngày phải rửa mặt…”[18].
Phương pháp như trên, đã bao hàm thực hành tự phê bình và phê bình phải thường
xuyên, liên tục, thực tế. Với cách diễn đạt dễ hiểu là như “mỗi ngày phải rửa
mặt”, nhưng tầm vóc khái quát rất cao.
Xâu
chuỗi toàn bộ những vấn đề trên trong tính lô gích toát lên một nguyên tắc:
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; giữa “Nói phải đi đôi với làm” trong rèn
luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên nói chung và hiện nay nói riêng. Sự thống
nhất ấy được quán triệt, vận dụng một cách tích cực sẽ đào thải được những tàn
tích của thói hư, chứng bệnh đang cản trở phát triển đạo đức cách mạng hiện
nay. Nguyên tắc này cũng có tính chất của một biện pháp và của một nguyên tắc
cơ bản. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những thói, những chứng bệnh ấy là kẻ địch,
một thứ giặc nội xâm, cho nên có tính chất mâu thuẫn đối kháng và rất nguy
hiểm, nhưng biện pháp giải quyết không phải là cái gì có tính chất “ đao to,
búa lớn” mà bằng tự phê bình và phê bình trong nội bộ thường xuyên. Tự phê bình
và phê bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là: “bài thuốc hữu hiệu nhất” trong
đấu tranh đào thải những chứng bệnh ấy một cách hiệu quả khi rèn luyện đạo đức
cho cán bộ, đảng viên.
Vận dụng vào rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên hiện nay, đặc biệt
theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị ,v.v, cũng
lấy tinh thần nguyên tắc trên để thực hiện một cách sát hợp. Khi tự phê bình và
phê bình thành nền nếp, thói quen hàng ngày thì học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đi vào thực tiễn cuộc sống sinh động. Đặc biệt
để có phong cách Hồ Chí Minh thì tự phê bình và phê bình càng phải có những
biện pháp cụ thể và sát hợp. Tư tưởng về tự phê và phê bình như “mỗi ngày phải
rửa mặt” một cách nghiêm túc thành thói quen, nền nếp thì sẽ nâng cao chất
lượng, hiệu quả rèn luyện đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh hiện nay.
Toàn bộ những nội dung của tư tưởng
Hồ Chí Minh trong “ Sửa đổi lối làm việc” có giá trị bền vững đối với lịch sử
dân tộc và đặc biệt hiện nay. Khi những biểu hiện của chứng bệnh, thói hư tật
xấu, trái với đạo đức cách mạng lại có xu hướng “trỗi dậy” càng cho thấy giá
trị cũng như tính cấp thiết vận dụng nguyên tắc “Nói đi đôi với làm” hiện nay.
Một trong những phương diện quan trọng, cụ thể trực tiếp nhất là đưa ngay “ Nói
phải đi đôi với làm” vào thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Chỉ thị 05
của Bộ Chính trị. Nó không chỉ là một nguyên tắc cơ bản, mà còn là một động lực
tinh thần to lớn cho rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và thực
hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu đã chỉ ra trong Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng./.
[1] Hồ Chí
Minh, toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.278
[2] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.307
[3] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.339
[4] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.340
[5] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.243
[6] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.346
[7] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.281
[8] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.287
[9] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.287
[10] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.288
[11] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.288
[12] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.272
[13] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.272
[14] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.323
[15] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.272
[16] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.279
[17] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.279
[18] Hồ Chí
Minh, sđd, tr.279
nói mà không làm thì cũng như không
Trả lờiXóa