Hiện nay, các phần tử phản động, chống phá tiếp tục sử dụng luận điệu xuyên tạc về tình hình tự do thông tin, tự do Internet, mạng xã hội ở Việt Nam nhằm mục đích chống phá nền dân chủ, kích động, chia rẽ trong xã hội, tạo cớ để các thế lực bên ngoài can thiệp vào nước ta. Chúng cho rằng, ở Việt Nam mạng xã hội bị đàn áp và mạng xã hội không có tự do thông tin, người dùng mạng xã hội không được bày tỏ chính kiến, suy nghĩ của mình... Đây là những luận điệu hoàn toàn bịa đặt và xuyên tạc. Thực tế đã chứng minh, mạng xã hội ở Việt Nam hoạt động tự do và người tham gia mạng xã hội được Nhà nước tôn trọng, bảo đảm quyền lợi bằng các quy định của pháp luật, tránh bị xâm hại bởi những kẻ xấu trên không gian mạng.
Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán chủ
trương, chính sách tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người,
trong đó có quyền tự do thông tin, tự do Internet. Thực tế, chúng ta đạt được
những thành tựu trong phát triển kinh tế như ngày nay, một phần là nhờ chúng ta
tận dụng tốt cơ hội từ Internet, chính điều kiện phát triển tự do về Internet
và mạng xã hội đã góp phần quan trọng trong xây dựng, phát triển đất nước; điều
này đã là “một phần tất yếu” của các tầng lớp xã hội.
Thông qua các trang mạng xã hội, người dân có thể
bày tỏ thông tin và chính kiến của mình; không những thế còn có nhiều cơ quan,
tổ chức trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương đã sử dụng
Internet, mạng xã hội để làm việc, giải quyết các thủ tục hành chính và liên hệ
trực tiếp với người dân... Những việc đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ ở Việt
Nam đã chứng minh rằng ở Việt Nam không có chuyện đàn áp mạng xã hội, mà trái lại
còn được Đảng, Nhà nước bảo đảm sự phát triển tự do. Đến nay, có khoảng hơn 300
trang mạng xã hội khác nhau đã đăng ký hoạt động và có khoảng trên 76 triệu người
dùng mạng xã hội. Trong đó, Facebook là mạng xã hội phổ biến nhất vì nhờ có thiết
kế thuận lợi cho người sử dụng khi tạo lập tài khoản cá nhân, cũng như những
tính năng trao đổi thông tin, bày tỏ cảm xúc, quan điểm cá nhân với những người
cùng nhóm, cùng sở thích... nên đã thu hút được nhiều thành viên tham gia. Tiếp
sau Facebook là các trang My Space, Twitter, các blog…Với cơ chế hoạt động của
mạng xã hội có tính chất tương tác cao, “cư dân mạng” dễ dàng chia sẻ những
thông tin cá nhân với nhau, nên đã thu hút số người tham gia ngày càng đông,
trong đó có giới trẻ. Điều này đã tạo ra những mặt thuận lợi cho mọi thành viên
khi tham gia mạng xã hội, đó là có thể chia sẻ cũng như tìm kiếm những thông
tin cần thiết phục vụ nhu cầu hoạt động riêng của mỗi người.
Tuy nhiên, thực hiện quyền tự do
Internet, mạng xã hội luôn được đặt trong khung khổ pháp luật. Bởi vì, bên
cạnh những thông tin chính thống, bổ ích, có tính giáo dục, còn có các thông
tin không chính thống, sai sự thật, xuyên tạc, cổ xúy cho lối sống lệch chuẩn
cũng được đưa lên mạng xã hội với các mục đích khác nhau. Thời gian gần đây,
tình trạng sử dụng mạng xã hội để lừa đảo chiếm đoạt tài sản, vu khống, nói xấu,
kích động… diễn ra ngày càng phức tạp và tinh vi, gây mất trật tự xã hội, ảnh
hưởng đến uy tín, danh dự và công việc, tài sản của các tổ chức và cá nhân. Thực
trạng đó đã tạo ra bức xúc trong dư luận xã hội… Mạng xã hội đã và đang trở
thành công cụ hàng đầu để các thế lực thù địch lợi dụng tiến hành phá hoại tư
tưởng; làm gia tăng nguy cơ lộ lọt bí mật nhà nước và mạng xã hội tác động tiêu
cực đối với sự phát triển văn hóa, nguy cơ làm xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc.
Vì vậy, cùng với việc phát triển mạng xã hội, cần phải có sự quản lý của nhà nước,
các cơ quan pháp luật đối với mạng xã hội.
Theo đó, trong thời gian qua, Nhà nước
Việt Nam đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như: ban hành các văn bản pháp
luật (Luật Báo chí năm 2016; Luật Tiếp cận thông tin năm 2016; Luật An ninh mạng
năm 2018; Nghị định số 72/2013/NÐ-CP quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ
internet và thông tin trên mạng; Nghị định số 174/2013/NÐ-CP quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và
tần số vô tuyến điện; Quy định về những điều đảng viên không được làm…) triển
khai công tác phát hiện, đấu tranh, xử lý nghiêm các đối tượng có hoạt động lợi
dụng Internet, mạng xã hội vi phạm pháp luật. Nhờ đó mới bảo đảm
an ninh mạng, phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng mạng xã hội,
Internet để vi phạm pháp luật Việt Nam.
Điều này là hoàn toàn phù hợp và không
chỉ ở Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện như vậy. Ngay ở Mỹ,
quốc gia tự cho mình là “đất nước tự do”, Quốc hội nước này đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật nhằm xử lý, ngăn chặn việc lợi dụng Internet, mạng xã hội để
khủng bố, kích động bạo lực hay vi phạm sở hữu trí tuệ...
Như vậy có thể khẳng định ở Việt Nam
không hề có chuyện đàn áp mạng xã hội, hay cấm đoán người dân tham gia mạng xã
hội. Rõ ràng, mà trái lại việc người dân tham gia mạng xã hội còn được Đảng,
Nhà nước bảo đảm sự phát triển tự do, phòng ngừa sự xâm hại của những kẻ xấu.
Mỗi người dân Việt Nam cần tỉnh táo trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; không để chúng lợi dụng, lôi kéo, kích động tiến hành các hoạt động bất hợp pháp.
Trả lờiXóa