LẠI BÀN VỀ TIẾN SĨ Ở VIỆT NAM
Theo
thống kê của Bộ Giáo dục – Đào tạo, năm học 2020 - 2021, đào tạo trình độ tiến
sĩ ở Việt Nam tuyển được 1.735. Tính đến thời điểm tháng 11/2022, quy mô đào tạo
tiến sĩ của cả nước là 8.933 nghiên cứu sinh ở tất cả các lĩnh vực và ngành đào
tạo. Trong khi đó, ở một số nước khác như Trung Quốc, chỉ riêng trong lĩnh
vực kỹ thuật (engineering), số tuyển mới năm 2020 tại các trường đại học công lập
ở nước này là 195.850 nghiên cứu sinh; ở Israel, năm học 2020 - 2021 con số này
là 11.855 nghiên cứu sinh tiến sĩ. Theo thống kê năm 2016 của Bộ Giáo dục Hoa Kỳ,
Mỹ có 3.609.000 Tiến sĩ trên 322 triệu dân và con số tuyển sinh hằng năm luôn đạt
trên 60.000 nghiên cứu sinh, gấp đôi so với quốc gia xếp thứ 2 là Đức.
Hiện
nay, mục tiêu và chuẩn đầu ra trình độ tiến sĩ của Việt Nam đã được quy định
theo Khung trình độ quốc gia Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định 1982/QĐ-TTg
ngày 18/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ). Theo đó, về cơ bản gần như tương
thích và phù hợp với Khung tham chiếu các trình độ ASEAN và Khung trình độ Châu
Âu, bảo đảm những người được đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ sau khi tốt nghiệp được
trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng, mức tự chủ và trách nhiệm để bắt đầu triển
khai và tiến hành các nghiên cứu khoa học một cách độc lập. Nếu so sánh số
lượng và tỷ lệ Tiến sĩ ở Việt Nam trên tổng số dân thì con số này quả thực chưa
là gì so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới nếu như không muốn nói
là rất thấp.
Một
số người có thể cho rằng sự so sánh này là khập khiễng nếu so sánh bình quân đầu
người số Tiến sĩ ở Việt Nam với một số quốc gia phát triển. Tuy nhiên, dựa vào
sự thiếu hiểu biết của một bộ phận người dân về tính chất của học vị Tiến sĩ,
ngày 06 tháng 3 năm 2023 vừa qua, trên trang Facebook của mình, Việt Tân đã mượn
ý bài thơ của Nguyễn Khuyến để rêu rao tình trạng “Tiến sĩ giấy” ở Việt Nam hiện
nay.
Trước
hết, chúng ta cần hiểu rằng, cũng giống như các quốc gia khác trên thế giới, ở
Việt Nam, Tiến sĩ chỉ đơn giản là một người học xong đại học, được nhận vào làm
nghiên cứu sinh, chọn một đề tài, tham gia nghiên cứu, rồi viết luận án và bảo
vệ... vậy là đã có một tiến sĩ. Một tiến sĩ sẽ có trình độ chuyên sâu về một
ngành nhất định. Quan trọng hơn là họ có khả năng nghiên cứu và tìm tòi sáng tạo
trong ngành nghề đấy. Các trường đại học có chương trình nghiên cứu tiến sĩ được
cấp phép, và họ phải có đủ cơ sở vật chất, cũng như đủ giáo sư trình độ và kinh
nghiệm để giúp đỡ nghiên cứu sinh. Quá trình làm nghiên cứu sinh cũng rất tốn
thời gian, chủ yếu là để họ có đủ thời gian để thí nghiệm, thực nghiệm các ý tưởng
của mình.
Các
nghiên cứu sinh, trước khi thành tiến sĩ thường đã viết được vài bài báo cho
các tạp chí chuyên khoa. Vì vậy nên ngày nay ta có tiến sĩ côn trùng học,
tiến sĩ kĩ sư hệ thống, tiến sĩ tâm lí học, tiến sĩ văn khoa, tiến sĩ lịch sử
và rất nhiều chuyên ngành khác. Các vị tiến sĩ này đều có "bằng thực",
có thừa năng lực theo tiêu chí được công nhận tiến sĩ, nhưng yêu cầu họ đi tìm
nguyên nhân vì sao cá chết hàng loạt ở Hồ Tây, vì sao san hô ở biển lại chết
hàng loạt… thì thật vô duyên. Đừng bảo là đấy là không phải chuyên môn của họ,
mà các tiến sĩ hóa học, tiến sĩ sinh học đâu phải ai cũng có thể xông vào tìm
nguyên nhân cá chết. Năm 2010, khi công ty BP gây ra thảm họa tràn dầu ở vịnh
Mexico, chính phủ Mỹ đã rất tích cực tìm cách làm ngưng dòng chảy, cũng như dọn
dẹp dầu tràn, cứu hộ động vật… Nước Mỹ có rất nhiều tiến sĩ kỹ sư hoá, tiến sĩ
kỹ sư môi trường, nhưng họ đâu có đi giúp dọn dẹp và xử lí thảm họa tràn dầu. Đấy
không phải là việc của họ, nếu họ xông vào trong khi không được nhà nước yêu cầu,
không được công ty hướng dẫn thì chỉ gây hại.
Mặt
khác, các công trình nghiên cứu tiến sĩ cũng phải tùy thuộc vào chuyên ngành mà
đánh giá. Tôi có một người bạn làm Tiến sĩ Y khoa ở Đức, khi công bố tên đề tài
của mình trước Hội đồng tuyển sinh về các tư thế quan hệ tình dục đồng giới nam
đã khiến cả hội trường cười ngả nghiêng về mức độ nghe có vẻ vô ích của nó. Thế
nhưng, anh ấy đã chứng minh cho Hội đồng nhận ra rằng chính những kiến thức nhỏ
nhặt đó sẽ giúp cho con người ở những góc độ ít ngờ tới trong bảo vệ sức khỏe của
cộng đồng LGBT.
Còn
các công trình nghiên cứu khoa học xã hội như nghiên cứu ngôn ngữ, nghiên cứu
hành vi, văn hóa… đều có giá trị nhất định. Các nghiên cứu ngôn ngữ có thể giúp
chúng ta hiểu được quá trình tiến hóa của ngôn ngữ và từ đó chỉ ra được những tập
tính ngôn ngữ - vốn có ứng dụng rất cao trong lí luận và ảnh hưởng quần chúng. Các
nghiên cứu về hành vi xã hội như nịnh hót cũng rất quan trọng, nó chỉ ra cách
người ta tương tác trong một xã hội. Ở một số công ty, các nhân viên sang nước
ngoài làm việc phải học lễ phép và văn hóa nước đó, bao gồm cả cách chào hỏi và
khen tặng người khác... để có thể thành công trong công việc. Những kiến thức ấy
không phải tự nhiên mà có. Các nhà nghiên cứu khoa học xã hội, bao gồm các tiến
sĩ đã phải nghiên cứu rất nhiều mới rút ra được cái gì nên học. Học vị tiến sĩ
cũng chỉ là chìa khóa, nó có thể mở được một vài ổ khóa chứ không phải mọi ổ
khóa. Ngay cả khi cánh cửa đã mở, thì học vị tiến sĩ cũng không có giá trị gì
khi người cầm nó không biết cách dùng những cơ hội mở ra trước mắt họ.
Từ những nhận thức đó, chúng ta cần có
cái nhìn chính xác về học vị Tiến sĩ và trò bịp bợm, gian manh của Việt Tân và
các thế lực thù địch, dựa vào sự thiếu hiểu biết của một bộ phận nhân dân nhằm
bôi nhọ, hạ thấp uy tín nền giáo dục Việt Nam, xuyên tạc chủ trưởng đương lối của
Đảng ta về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho tổ quốc trong cuộc cách mạng
khoa học công nghệ 4.0.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét