“Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến” được xem là bảo vật quốc gia trong “Tài sản tinh
thần vô giá” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc Việt Nam. Đây là một
văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự có giá trị lịch sử trong mọi thời đại, là
lời hịch của non sông, thể hiện ý thức sâu sắc và niềm tin vững chắc vào con
đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước
ta phải đối mặt với ba thứ giặc: “giặc đói”, “giặc dốt” và “giặc ngoại xâm”, vận
mệnh dân tộc như “ngàn cân treo trên sợi tóc”. Trước tình hình đó, Trung ương
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp nhằm giữ vững
chính quyền cách mạng, bảo vệ nền tự do, độc lập vừa mới giành được. Song, thực
dân Pháp bội ước, liên tiếp tiến công và tàn sát nhân dân ta hết sức dã man;
chúng dã tâm cướp nước ta lần nữa. Do vậy, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp
(18/12/1946) dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị nhận định khả
năng hoà hoãn đã hết và quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Đêm ngày 19/12/1946,
cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ và ngay trong đêm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Ngày 20/12/1946, tại Hang Trầm
(Chương Mỹ), Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi của Người.
Chỉ với 198 từ, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh đã giải đáp
đúng và trúng những vấn đề cơ bản của Cuộc kháng chiến đặt ra, cụ thể là:
Thứ
nhất, Lời kêu gọi đã chỉ rõ nguyên nhân và quyết tâm chiến lược của cuộc kháng
chiến, từ đó khơi
dậy và phát huy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, đoàn kết, yêu hòa bình, độc lập tự
do của dân tộc Việt Nam.
Mở đầu Lời kêu gọi Người viết: “Chúng
ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”. “Không!
Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ”. Yêu nước, yêu hòa bình, độc lập dân tộc, Việt Nam phải đứng
lên kháng chiến để chống xâm lược. Điều đó đáp ứng đúng, trúng tâm tư, nguyện
vọng và khát khao cháy bỏng của quảng đại quần chúng nhân dân; nó cũng khẳng
định rõ tính chất tự vệ, chính nghĩa của cuộc kháng chiến mà dân tộc Việt Nam
phát động. Đây là cội nguồn sức mạnh để dân tộc Việt Nam chiến thắng mọi kẻ thù
xâm lược và gây chiến.
Thứ
hai, Lời kêu gọi đã chỉ rõ cuộc kháng chiến của dân tộc ta là kháng chiến toàn
dân, dựa vào nhân dân, động viên và tổ chức toàn dân kháng chiến, lấy lực lượng
vũ trang nhân dân làm nòng cốt.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
Tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp là tiếp tục con đường cách mạng giải
phóng dân tộc, nhằm giữ vững nền tự do, độc lập mà các thế hệ người Việt Nam đã
phải đổ bao xương máu mới giành được, chỉ có thể dựa vào lực lượng đoàn kết của
toàn dân, do toàn dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bác kêu gọi: “Hỡi
anh em binh sỹ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt
máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”.
Thứ
ba, Lời kêu gọi cũng chỉ rõ cuộc kháng chiến sẽ phải kinh qua lâu dài, gian
khổ, hy sinh nhưng nhất định thắng lợi.
Người đã định hướng tư tưởng, xây dựng
và củng cố niềm tin cho quần chúng nhân dân vào thắng lợi của sự nghiệp kháng
chiến do Đảng lãnh đạo, từ đó xác định quyết tâm chiến đấu đến cùng để bảo vệ
vững chắc độc lập dân tộc. “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng
kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”. Với niềm tin vững chắc
đó, lớp lớp người dân Việt Nam đã đứng lên kháng chiến trường kỳ và kết thúc
thắng lợi “nên thiên sử vàng”, nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc được giữ
vững.
Hơn 75 năm trôi qua, thời gian và độ lùi lịch sử càng xa thì
giá trị của Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến càng to lớn, sâu sắc hơn, tiếp
tục soi đường, chỉ lối cho dân tộc ta vững bước tiến lên.
Thấm nhuần sâu sắc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, trong
thời đại mới, với bản chất, truyền thống yêu chuộng hòa bình, độc lập dân tộc
của dân tộc Việt Nam, Đảng ta luôn xác định: Trong khi, đặt lên hàng đầu nhiệm
vụ xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta không
một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Vì
thế, “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị
và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”. Yêu
chuộng hòa bình, Đảng ta khẳng định: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là
thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, trên
tinh thần bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc; những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu
nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; nhưng, bất
kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc của chúng ta đều là đối tượng; đồng thời, chỉ rõ tính hai mặt
tồn tại, đan xen một cách phổ biến trong “mỗi đối tác” và “mỗi đối
tượng”, đòi hỏi phải có cái nhìn biện chứng khoa học để trong từng
thời điểm cụ thể nhận biết rõ đâu là đối tác để tranh thủ hợp tác
và đâu là đối tượng để đấu tranh. Đây là một trong những “vốn liếng” quý
báu, là hành trang quan trọng, tạo thế và lực mới giúp chúng ta vững bước tiến
hành sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Kỷ niệm 76 năm Ngày toàn quốc kháng
chiến, 76 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
cũng là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ôn lại những bài học lịch sử
sâu sắc. Tiếp tục hun đúc tinh thần yêu nước và lòng biết ơn vô hạn đối với
Đảng, với Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi
thác ghềnh, lãnh đạo dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta phải ra sức phát huy truyền thống yêu nước, yêu
chuộng hòa bình; truyền thống đoàn kết, nhân ái, kiên cường, bất khuất của dân
tộc, chung sức, đồng lòng tạo nguồn lực to lớn để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét