Chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 07 tháng 5 năm 1954 “lừng
lẫy năm châu, trấn động địa cầu” đã trở thành một trong những chiến công chói
lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Điện Biên Phủ là một thung lung lòng chảo rộng lớn ở phía
Tây vùng núi Tây Bắc, có chiều dài khoảng 20 km, rộng từ 6-8km; cách Hà Nội
khoảng 200km, cách Luang Prabang (Lào) khoảng 190km theo đường chim bay. Đánh
giá Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng bậc nhất ở Đông Dương,
nên sau khi đánh chiếm Điện Biên Phủ vào ngày 20-11-1953, quân Pháp không ngừng
tăng thêm binh lực, vũ khí, trang thiết bị quân sự, xây thêm nhiều công sự, đồn
lũy và các loại vật tư khác. Được sự giúp đỡ của Mỹ về cố vấn, trang bị kỹ
thuật, kinh tế, Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm quân
sự mạnh nhất Đông Dương.
Về
phía ta, việc quân Pháp nhảy dù tái chiếm Điện Biên Phủ không làm đảo lộn kế
hoạch tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953-1954 của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội
nhân dân Việt Nam, ngay cả trên hướng Tây Bắc. Các đòn tiến công chiến lược
quan trọng của ta trong Đông Xuân 1953-1954 đã buộc khối cơ động của địch phải
phân tán đối phó trên nhiều hướng, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân Việt
Nam thực hiện trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ.
Ngày 06/12/1953,
Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ với bí danh Trần Đình, nhất
trí thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân ủy. Đại tướng Võ Nguyên Giáp
làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Hoàng Văn Thái - Tham mưu trưởng, đồng
chí Lê Liêm - Chủ nhiệm Chính trị, đồng chí Đặng Kim Giang - Chủ nhiệm Cung
cấp.
Với
khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!”, cả nước dồn sức cho
chiến trường Điện Biên Phủ. Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã quyết định tập
trung 04 đại đoàn bộ binh, 01 đại đoàn công pháo với tổng quân số trên 40.000
quân. Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng, xẻ núi
mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến công địch. Trên 260.000
dân công, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn, hướng về Điện Biên Phủ bảo
đảm hậu cần phục vụ chiến dịch... Đến đầu tháng 3/1954, công tác chuẩn bị mọi
mặt cho chiến dịch đã hoàn thành.
Tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có tất cả 49 cứ điểm, được chia làm 3 phân khu. Trên
chiến trường, ta mở ba đợt tiến công vào Điện Biên Phủ. Đợt 1 của chiến dịch
Điện Biên Phủ mở màn ngày 13/3/1954, với trận tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam
thuộc vòng ngoài Phân khu Bắc của tập đoàn cứ điểm. Đợt 2 diễn ra ngày 30/3/1954,
đánh vào phân khu trung tâm. Đợt 3 chiến dịch diễn ra ngày 01/5 và kết thúc
ngày 07/5/1954, đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và tổng công kích tiêu diệt
toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Sau 56
ngày đêm chiến đấu, vượt qua muôn vàn gian khổ, “gan không núng, chí không
mòn”, đến chiều ngày 07/5/1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ Cát cùng
toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng.
Lá cờ “Quyết chiến - Quyết thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy
của địch. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng!
Chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
đã khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ tự lực cánh
sinh, đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, ý chí chiến đấu vì độc lập, tự
do của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ đi vào lịch sử của dân tộc
ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, hay một Đống Đa trong thế kỷ XX, và đi vào
lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô
dịch thuộc địa kiểu cũ của chủ nghĩa đế quốc.
Thắng
lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến
thắng Điện Biên Phủ đã khẳng định sức mạnh to lớn của nhân dân Việt Nam. Có thể
nói, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã hoàn toàn bất ngờ trước sức mạnh của Quân
đội nhân dân Việt Nam, trước việc “Việt Minh” có đủ lương thực và vũ khí để
chiến đấu liên tục trong suốt gần hai tháng trên địa bàn hiểm trở, xa hậu cứ
trước việc xuất hiện của trọng pháo trên trận địa đỉnh núi…
Chiến
thắng Điện Biên Phủ đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, buộc
thực dân Pháp phải ngồi vào bàn Hội nghị cùng ký Hiệp định Geneve chấm dứt cuộc
chiến tranh xâm lược (1945-1954) ở Đông Dương, miền Bắc nước ta được hoàn toàn
giải phóng. Hiệp định Geneve đã tạo được cục diện mới, tạo tiền đề và cơ sở
pháp lý rất quan trọng để dân tộc ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954 -1975).
Chiến
thắng Điện Biên Phủ là sự cộng hưởng của sức mạnh dân tộc và thời đại, sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh Việt Nam, bản sắc văn
hóa giữ nước Việt Nam mà nền tảng là lòng yêu nước; các nhân tố đó tiếp tục là
sức mạnh bảo đảm cho sự thành công của công cuộc xây dựng Tổ quốc Việt Nam XHCN
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét