Thứ Tư, 18 tháng 5, 2022

NHÀ VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH- BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA CỦA TINH HOA DÂN TỘC VÀ TRÍ TUỆ THỜI ĐẠI

 

Trên con đường học tập và rèn luyện để trở thành người dẫn đường cho dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm giầu trí tuệ của mình bằng tất cả vốn văn hoá dân chủ, nhân đạo, tiến bộ của loài người để từ đỉnh cao của trị thức thời đại mà hoạt động và sáng tạo văn hoá.

Trước khi ra nước ngoài tiếp xúc với văn hoá phương Tây, Nguyễn Tất Thành được quê hương và gia đình trang bị cho một vốn văn hoá dân tộc và văn hóa phương Đông khá vững vàng, tạo cho anh một bản lĩnh để tiếp thu có chọn lọc những giá trị chân chính của văn hoá nhân loại, để “hoà mà không đồng”. Trước hết là văn hoá Nghệ - Tĩnh và truyền thống yêu nước thương nòi, tình đồng bào, nghĩa làng xóm, ý chí kiên cường, bất khuất và tinh thần lạc quan... Sau nữa là văn hoá đế độ của xứ Huế với lòng nhân ái, tính hiền hoà, sự thanh lịch, v.v..

Là nơi giao lưu văn hoá giữa Bắc và Nam, Đông và Tây, nên từ khi lập quốc, Việt Nam đã mở rộng cửa đón nhận ảnh hưởng của văn hoá phương Đông, trước hết là văn hoá Ấn Độ và văn hoá Trung Hoa, trong đó nổi bật là tinh thần từ bị, bác ái, thương người... của Phật giáo; triết lý hành động, tư tưởng “phò đời, giúp nước”, quan niệm “dân vi bang bản” về việc đề cao “lễ nhạc” (thực chất là văn hoá), đề cao đạo đức, luân lý, tinh thần coi trọng hiền tài, kẻ sĩ (trí thức), v.v. của Nho giáo; phong cách sống giản dị, chan hoà với thiên nhiên của Lão học... Tất cả những nhân tố tích cực đó của văn hoá phương Đông kết hợp với truyền thống văn hoá của dân tộc đã tạo cho Người một bản lĩnh mà sự tiếp xúc văn hoá có mở rộng đến đâu cũng không bị tách rời và xa cách với cội nguồn - của mình. Như một học giả phương Tây đã nhận xét: “Người ta thấy một người Á Đông gia nhập hàng ngũ của Mác, có thể trở thành người cộng sản ngay trên đất nước mình, không hề lay chuyển, nhưng cộng sản theo cách của mình, bởi vì Người tìm được cách diễn tả và làm sinh động học thuyết đó bằng những dạng truyền thống tương tự”

Trên bước đường học tập và nghiên cứu, Nguyễn Tất Thành đã từng bước hấp thụ văn hoá nhân đạo và dân chủ phương Tây. Khi còn ở trường Dục Thanh, qua tủ sách “Tân thư” của cụ Nguyễn Thông ở Ngọa du sào, người thanh niên ham học này đã từng làm quen với những tư tưởng mới của Vonte, Rútxô, Môngtétxkiơ... Khi xuất dương, anh Nguyễn tìm sang tận nước Mỹ, quê hương của bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng, và đã khắc sâu vào tâm trí mình câu nói bất hủ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do, cho quyền sống của con người là những giá trị căn bản của Cách mạng Mỹ mà anh Nguyễn ghi nhận và đánh giá cao.

Trở lại Pari, thủ đô của nước Pháp, trung tâm văn hoá, khoa học và nghệ thuật của châu Âu, anh Nguyễn càng có điều kiện để nhanh chóng chiếm lĩnh vốn tri thức của thời đại. Anh tiếp thu truyền thống tự do, bình đẳng, bác ái của cuộc Đại Cách mạng Pháp 1789; kết giao với những bậc trí thức và hấp thụ những trí tuệ lỗi lạc của nền văn hóa Pháp. Anh sử dụng tư tưởng của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền để lên án bọn thực dân đã phản bội lại những giá trị quá khứ của cha ông họ.

Ngay từ khi còn ở Pháp cũng như sau này trở về hoạt động tại miền Nam Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần làm phong phú và làm sâu sắc thêm vốn văn hóa và văn học Trung Quốc, từ cổ điển đến hiện đại, mà chúng ta có thể tìm thấy dấu tích trong Ngục trung nhật ký cũng như trong nhiều áng văn thơ khác của Người. Khi đã trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc vẫn tìm hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên và tiếp thu từ học thuyết đó những yếu tố phù hợp với mục tiêu trước mắt của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.

Chính trí tuệ mẫn tiệp, vốn sống thực tế phong phú và vốn văn hoá rộng lớn đã dẫn Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa xã hội khoa học, đỉnh cao và kết tỉnh thành tựu của văn hoá loài người. Do vậy, con đường Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin có những nét đặc biệt.

Một là, khác với nhiều trí thức tư sản phương Tây, họ đến với triết học Mác chủ yếu như đến với một học thuyết nhằm giải quyết những vấn đề về bản thể luận và nhận thức luận, nghĩa là vẫn luẩn quẩn trong tư duy tư biện chứ không phải tư duy hành động, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là để tìm kim chỉ nam cho nghiệp cứu nước.

          Khi còn ở nước Anh, anh Nguyễn đã từng biết đến câu châm ngôn ghi trên mộ Các Mác: “Các nhà triết học đều chỉ nhằm giải thích thế giới mà quên mất rằng chức năng chính của nó là cải tạo thế giới”. Và Người cũng đã hiểu rằng, triết học Mác không phải là một mớ giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động - điều mà Lênin vẫn hằng tâm niệm và đi theo. Với tinh thần đó, Nguyễn Ái Quốc đã lược bỏ cái vỏ ngoài ngôn từ để đi vào bản chất, nắm lấy những nguyên lý cốt lõi, cái kim chỉ nam. Người không đi tìm những kết luận có sẵn trong tác phẩm của các nhà kinh điển, mà qua đó rút ra phương pháp luận để tự mình tìm ra những luận đề và phương pháp, vận dụng thích hợp chúng trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Hai là, Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin không phải chỉ qua sách vở mà chủ yếu là từ trong thực tiễn đấu tranh tìm đường cứu nước, trực tiếp đọc các tác phẩm của những bậc thầy vĩ đại. Trong một lần nói chuyện với nữ văn sĩ người Đức là Jhon Stern, Bác Hồ có kể rằng khi ở Pari, theo lời khuyên của Jean Longuet, Người đã tìm đọc Tư bản của Các Mác, trực tiếp đọc Luận cương và nhiều tác phẩm của Lênin, Người tiếp tục hoàn thiện thế giới quan và trình độ lý luận mácxít của mình ở Liên Xô trong thời gian từ tháng 6-1923 đến tháng 11-1924.

Tóm lại, để trở thành nhà văn hoá lớn, để làm chủ được hàng chục ngôn ngữ khác nhau, sử dụng chúng một cách thành thạo trong viết văn, viết báo, làm thơ, viết kịch, v.v., khi thì xuất hiện như một nhà báo Pari sành sỏi, khi lại trầm tĩnh hàm súc như một thi sĩ cổ điển phương Đông..., Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã trải qua một chặng đường dài mấy chục năm học tập và rèn luyện, vừa thu hái vừa gạn lọc, từng bước vươn lên những đỉnh cao của trí tuệ thời đại, để từ tấm cao đó mà vận dụng và phát triển, sáng tạo và đổi mới, đóng góp vào kho tàng văn hóa thế giới những giá trị đặc sắc, in đậm dấu ấn Việt Nam - Hồ Chí Minh.

                                                                                           Thái Bình

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét