CHIẾN TRANH NGÀY NAY PHẢI CHĂNG LÀ
"SỰ ĐỤNG ĐỘ GIỮA CÁC NỀN
VĂN MINH”?
"Sự đụng độ giữa các nền văn minh" là một luận thuyết
của S.Hun-ting-ton được sinh ra sau thời kỳ Chiến tranh lạnh, nhằm tạo cơ sở lý
luận cho chính sách bành trướng và xác lập "giá trị" phương Tây,
"giá trị" Mỹ trên phần còn lại của quả đất. Trong luận thuyết của
mình, S.Hun-ting-ton cho rằng, "nguồn gốc cơ bản của mọi xung đột trên thế
giới thời kỳ sau Chiến tranh lạnh sẽ không còn là hệ tư tưởng hay kinh tế nữa"[1]; rằng "cuộc
chiến tranh thế giới tới đây, nếu nó xảy ra, sẽ là cuộc chiến tranh qua các nền
văn minh"; rằng văn hoá đã thay thế "bức màn sắt, hệ tư tưởng"[2].v.v.
Bằng lập luận đó, S.Hun-ting-ton đã xoá bỏ vấn đề tư tưởng, kinh
tế và giai cấp trong các xung đột của thế giới đương đại; đã tước bỏ bản chất
thực sự của chiến tranh, thay vào đó là sự đụng độ về văn minh, văn hoá; chưa
nói đến hậu quả tệ hại của luận thuyết này là làm cho loài người phải chờ đợi
và chuẩn bị một cuộc chiến tranh trong tương lại, chiến tranh "giữa các
nền văn minh". Có thật là các mối quan hệ trong thời đại ngày nay không
còn mang dấu ấn giai cấp? có thật là chiến tranh ngày nay đã mất đi bản chất
chính trị - giai cấp của nó? Câu trả lời ở đây rõ ràng là không phải như vậy!
Trước hết, cần
khẳng định rằng bản thân lập luận của S.Hun-ting-ton cũng không phải là một lập
luận không có tính giai cấp; trái lại nó mang đậm bản chất giai cấp, là lập
luận của một đại biểu tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc trong thời đại mới. Thử
hỏi, sự đụng độ giữa các nền văn minh, đó là sự đụng độ giữa các nền văn minh
nào? Phải chăng, theo S.Hun-ting-ton, đó là sự đụng độ giữa văn minh phương
Tây, thực chất là văn minh Mỹ với các nền văn minh "phi phương Tây",
"phi Mỹ" trên thế giới? Đúng như vậy! Như thế rõ ràng là, cái văn
minh, văn hoá mà S.Hun-ting-ton đưa ra không phải thuần tuý chỉ là văn minh,
văn hoá, mà là rất đậm đặc tư tưởng, lập trường của giai cấp mà ông ta đại
biểu. S.Hun-ting-ton đã đặt những nền văn minh "phi phương Tây", đặc
biệt là các nền văn minh Hồi giáo, Nho giáo vào vị trí đối lập với văn minh phương
Tây, coi các nền văn minh này là những "mối đe doạ chủ yếu", những
"thách thức" các "giá trị" phương Tây, thậm chí những người
sau còn liệt vào là "những nguy cơ khủng bố".
Như vậy, chiến tranh, dù là theo cách diễn đạt của S.Hun-ting-ton,
cũng không phải là sự đụng độ giữa các nền văn minh, phi ý thức hệ, phi chính
trị; mà là chiến tranh do chủ nghĩa đế quốc tiến hành chống các quốc gia độc
lập có chủ quyền, là chiến tranh của nhân dân các nước đó chống chủ nghĩa đế
quốc để bảo vệ nền độc lập và sự sống của mình. Chẳng cần phải bàn luận nhiều,
thực tế những cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ và Đồng minh chống Nam Tư năm
1999, chống Áp-ga-ni-xtan năm 2002, chống I-rắc năm 2003 đã chứng minh rõ điều
đó. Nếu có gọi là "sự đụng độ", "sự va chạm" giữa các nền
văn minh thì không phải do những khác biệt giữa các nền văn minh tạo ra, mà là
do tham vọng chính trị và lợi ích vị kỷ của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế
quốc Mỹ.
Thứ hai, luận
thuyết của S.Hun-ting-ton đã cố gắng phủ nhận bản chất giai cấp, mục đích chính
trị của chiến tranh, lại như được những thành tựu của cách mạng khoa học công
nghệ làm cho nó có vẻ có sức thuyết phục hơn! Điều đó dẫn đến những hậu quả tai
hại, mà dường như chúng ta cũng đã thấy được qua các cuộc chiến tranh gần đây.
Không phải không có người còn nhận thức sai lầm rằng, dường như luận điểm chiến
tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực không còn giá trị, đã
mất đi ý nghĩa thực tiễn của nó!? Hậu quả tất yếu của sự nhận thức sai lầm ấy
là dẫn đến thái độ không đúng đối với chiến tranh. Kẻ phát động chiến tranh,
gây ra chiến tranh thì có thể được xem là "người đi cứu nhân dân", là
‘hợp pháp", "chính nghĩa"; còn các quốc gia dân tộc bị tiến công
lại bị quy cho là nguyên nhân chủ yếu sinh ra chiến tranh.
Sự lẫn lộn trong xem xét tính chất, đâu là chính nghĩa, đâu là phi
nghĩa của chiến tranh không những bị chi phối bởi lập trường giai cấp, mà còn
là hệ quả trực tiếp của việc nhận thức mơ hồ mục đích chính trị của chiến
tranh, của việc "tước đi" bản chất thực sự của chiến tranh. Điều này
càng trở nên trầm trọng khi kẻ gây chiến tranh lại có một lực lượng "đồng
minh" đông đảo đa quốc gia và núp dưới danh nghĩa tổ chức quốc tế lớn nhất
hành tinh: Liên hợp quốc.
Cần khẳng định rằng, luận điểm chiến tranh là sự kế tục của chính
trị bằng thủ đoạn bạo lực vẫn giữ nguyên giá trị trong thời đại ngày nay. Cái
chính trị mà chiến tranh kế tục ấy không phải là cái gì đó gọi là "văn
minh" phi giai cấp, phi ý thức hệ như S.Hun-ting-ton nói; mà là chính trị
của một giai cấp nhất định, của một nhà nước, một quốc gia nhất định. Cũng
không thể cho rằng, với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại đã làm
cho chiến tranh chỉ là sự đọ sức về khoa học và công nghệ giữa các bên tham
chiến. Sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt trên lĩnh vực
quân sự, dù có diễn ra hết sức sâu sắc, mà hiện nay chúng ta chưa có thể tiên
lượng và phân tích hết được những tác động của nó đến chiến tranh tương lai,
cũng không có nghĩa là dẫn đến sự thay đổi về nguồn gốc, bản chất, tính chất
của chiến tranh. Dù cho chiến tranh tương lai, hình thức có thể có nhiều thay
đổi nhưng sử dụng sức mạnh quân sự để khuất phục ý chí đối phương vẫn là mục
đích của kẻ phát động chiến tranh. Vũ khí công nghệ cao mà các cuộc chiến tranh
sử dụng dù có hiện đại thế nào chăng nữa nhưng chúng vẫn chỉ là phương tiện,
công cụ để tiến hành chiến tranh.
Thứ ba, cần
phải khẳng định bản chất thực sự của chiến tranh; đồng thời làm rõ mục đích
chính trị cụ thể mà chiến tranh hiện nay kế tục là gì, có điều gì mới. Ở đây,
luận điểm Lêninnít về chiến tranh vẫn là cơ sở phương pháp luận khoa học cho
phép lý giải bản chất chính trị của các cuộc chiến tranh trên thế giới hiện
nay. V.I.Lê-nin đã nhiều lần nhấn mạnh và vạch rõ bản chất của chiến tranh.
Người chỉ rõ: "Chiến tranh chẳng qua chỉ là chính trị từ đầu đến cuối, chỉ
là sự tiếp tục thực hiện cũng những mục đích... của các giai cấp... với những
phương pháp khác mà thôi"[3], "Chiến tranh
là sự phản ánh chính sách đối nội mà nước đó đã thi hành trước đây"[4]. Nghiên cứu bản
chất Chiến tranh Thế giới lần thứ I, V.I.Lê-nin viết: "Chính toàn bộ đường
lối chính trị của toàn bộ hệ thống các quốc gia ở châu Âu trong mối quan hệ
kinh tế và chính trị của các quốc gia đó mới là cái cần xem xét để hiểu được
rằng điều tất nhiên, không thể tránh được là hệ thống ấy đã gây ra cuộc chiến
tranh hiện nay"[5].
Muốn xác định mục đích chính trị cụ thể của chiến tranh cần phải
xem xét đường lối chính trị của các bên tham chiến: kẻ phát động chiến tranh và
người chống lại cuộc chiến tranh đó. Cuộc chiến tranh do Mỹ và phương Tây phát
động chống Nam Tư năm 1999, chống I-rắc năm 2003 được nhiều nhà quân sự cho
rằng có thể là các chiến tranh mang tính điển hình của thế giới đương đại. Đây
là ví dụ sinh động cho thấy mục đích chính trị thực sự của kẻ phát động chiến
tranh được biểu hiện trên hai vấn đề chủ yếu: mục đích chiến lược cơ bản và mục
đích chính trị cụ thể, trực tiếp.
Mục đích chiến lược cơ bản của Mỹ là đứng ra làm vai trò sen đầm
quốc tế, điều khiển, thao túng tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới, kiến
tạo trật tự thế giới mới đơn cực cho Mỹ chi phối, xác lập "giá trị"
Mỹ, mà theo cách diễn đạt của S.Hun-ting-ton thì đó là "văn minh phương
Tây", "văn hoá Mỹ" trên toàn hành tinh. Mục đích chiến lược cơ
bản ấy được thực hiện thông qua nhiều biện pháp chính trị, kinh tế, văn hoá,
đối ngoại... và đặc biệt là sử dụng vũ lực. Ở nơi nào dùng những biện pháp phi
quân sự không đạt được mục đích thì Mỹ lại sử dụng vũ lực; việc phát động chiến
tranh chống một quốc gia dân tộc nào đó, ở nơi nào đó là biện pháp "cần
thiết" để thực hiện những nhiệm vụ của mục tiêu chiến lược. Rõ ràng, tham
vọng trở thành bá chủ thế giới là nguyên nhân chủ yếu gây ra chiến tranh và là
chính trị mà các cuộc chiến tranh do Mỹ phát động kế tục, chứ không phải là sự
đụng độ giữa các nền văn minh nào cả.
Mục đích chiến lược cơ bản ấy quy định mục đích chính trị cụ thể,
trực tiếp của từng cuộc chiến tranh. Mục đích chính trị cụ thể của từng cuộc
chiến tranh vừa là sự biểu hiện mục đích chiến lược cơ bản trong từng trường
hợp cụ thể, vừa phản ánh tính đặc thù, riêng biệt của mục đích chính trị trong
từng cuộc chiến tranh. Ở cuộc chiến Kô-sô-vô, mục đích cụ thể của Mỹ và NATO
tuyên truyền công khai là đè bẹp ý chí phản kháng của nhân dân Nam Tư, buộc
chính phủ Nam Tư chấp nhận điều kiện do Mỹ đưa ra, đòi hạ bệ Tổng thống, thực
chất đòi thay đổi thể chế chính trị, biến Nam Tư thành nước nằm trong quỹ đạo
của Mỹ. Trong chiến tranh chống I-rắc, mục đích cụ thể của Mỹ cũng là nhằm làm
cho nước này thành quốc gia phát triển theo những "giá trị" Mỹ. Như
vậy là, cho dù mục đích cụ thể của từng cuộc chiến tranh chống các quốc gia độc
lập có chủ quyền có khác nhau, nhưng đều là sự tiếp tục đường lối chính trị đối
nội, đối ngoại phản động của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, đều
nhằm xác lập "giá trị" phương Tây, "giá trị" Mỹ lên các
quốc gia dân tộc đó; và đều là sự thể hiện chủ nghĩa cường quyền mới của chủ
nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ.
Phương pháp luận khi xem xét nguồn gốc, bản chất, tính chất của
chiến tranh trong thời đại ngày nay vẫn là phải xem xét bản chất giai cấp và
đường lối chính trị của quốc gia tiến hành chiến tranh, phải "nghiên cứu
chính trị được tiến hành trước chiến tranh, chính trị đang dẫn đến và đã dẫn
đến chiến tranh" như Lê-nin từng dạy. Nếu mục đích chính trị của kẻ phát
động chiến tranh là "áp đặt ý chí" của mình cho đối phương, thì việc
chống lại sự "áp đặt ý chí" ấy là mục đích chính trị trực tiếp của
các quốc gia dân tộc bị tấn công nhằm chống lại kẻ thù, bảo vệ độc lập chủ
quyền của mình. Đó là cuộc chiến tranh để khẳng định và bảo vệ "quyền dân
tộc tự quyết" - như Lê-nin nói - của các quốc gia dân tộc chống chủ nghĩa
cường quyền mới của chủ nghĩa đế quốc.
Nhiều học giả phân tích rằng, trong thời đại ngày nay một cuộc
chiến tranh nổ ra giữa hai nước sẽ có thể dẫn đến sự can thiệp của cả cộng đồng
quốc tế. Với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống truyền thông và các phương tiện
thông tin hiện đại, và với những lợi ích đan xen, ràng buộc lẫn nhau giữa các
quốc gia, cuộc chiến tranh xảy ra giữa hai nước trong một thời gian rất ngắn sẽ
tập trung sự chú ý của cộng đồng thế giới. Do quan điểm, lập trường và lợi ích
khác nhau sẽ hình thành một sự "tập hợp lực lượng" của các bên tham
chiến. Điều đó càng làm cho cuộc chiến tranh không chỉ có tính chất nội bộ của
riêng hai nước, mà có thể xuất hiện các liên minh quốc gia chống lại nhau. Mục
đích chính trị của cuộc chiến tranh ấy vẫn lấy mục đích chính trị của
"quốc gia chủ thể" làm trục xoay.
Chiến tranh trong thời đại ngày nay không chỉ là sự phản ánh chính
trị cụ thể của các bên tham chiến, mà còn thể hiện những mâu thuẫn của thời
đại; là sự thể hiện bản chất và tham vọng của chủ nghĩa đế quốc; là cuộc đấu
tranh của các lực lượng chính trị đối lập nhau mang tính toàn cầu; chứ tuyệt
nhiên không phải là "sự đụng độ giữa các nền văn minh", hay
"chiến tranh qua các nền văn minh" phi ý thức hệ như luận thuyết của
S.Hun-ting-ton.
[1] S.Hun-ting-ton,
Sự va chạm của các nền văn minh, Nxb Lao động, H. 2003, tr. 20
[2] S.Hun-ting-ton,
Sự va chạm của các nền văn minh, Nxb Lao động, H. 2003, tr. 14
[3] V.I. Lê-nin
toàn tập. Nxb TB. M. 1981, tập 32, tr. 356
[4] V.I. Lê-nin
toàn tập. Nxb TB. M. 1977, tập 39, tr. 361
[5] V.I. Lê-nin
toàn tập. Nxb TB. M. 1981, tập 32, tr. 102
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét