Mọi lý luận và học thuyết khoa học ra đời, phát triển đều dựa trên hai căn cứ: Một mặt là kế thừa chọn lọc các tri thức khoa học hợp lý mà nhân loại đã tích luỹ trong quá khứ; mặt khác, tổng kết những kinh nghiệm hoạt động thực tiễn trong mỗi lĩnh vực tương ứng mà lý thuyết khoa học đó quan tâm, phản ánh. Sự hình thành, phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Cuối thế kỷ XVIII
được coi là thời kỳ bão táp của cách mạng tư sản. Trên lĩnh vực kinh tế, sự ra
đời của nền sản xuất công nghiệp đã diễn ra nhanh chóng ở nước Anh, một phần
châu Âu lục địa và Bắc Mỹ. Sản xuất công nghiệp đã nhanh chóng làm biến đổi bộ
mặt kinh tế - xã hội của thế giới mà theo đánh giá của Các Mác và Phriđrích
Ăngghen: chỉ sau hơn hai thế kỷ tồn tại, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một khối
lượng của cải vật chất nhiều hơn tất cả các thời đại trước gộp lại. Lực lượng
sản xuất phát triển nhanh chóng kéo theo sự biến đổi và ngày càng hoàn thiện
quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Cùng với quá trình ấy, sự
ra đời và hình thành ngày càng rõ nét hai lực lượng xã hội đối lập nhau: giai
cấp tư sản và giai cấp công nhân. Giai cấp tư sản đã củng cố từng bước vững
chắc địa vị thống trị của mình và cũng bắt đầu bộc lộ những bản chất cố hữu của
nó: bóc lột, áp bức nhân dân lao động vì quyền lợi của giai cấp mình. Trong khi
đó, giai cấp công nhân xuất hiện, từng bước lớn mạnh, trở thành một lực lượng
xã hội quan trọng trong lĩnh vực sản xuất, trong nền kinh tế. Trong lĩnh vực xã
hội - chính trị, họ cũng như các giai cấp và tầng lớp lao động khác, bị áp bức,
bóc lột thậm tệ. Tình trạng bất công xã hội, bất bình đẳng và nghèo khó đè nặng
lên vai họ.
Trong điều kiện ấy,
những phản kháng đầu tiên của giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động
ngày càng tăng lên. Nhận thức được sự phản kháng ấy, một bộ phận trí thức tư
sản và tiểu tư sản có tư tưởng cấp tiến đã phản ánh những lợi ích, khát vọng
của giai cấp công nhân và của quần chúng lao động bị áp bức chống lại sự bất
công xã hội. Một giai đoạn mới trong tiến trình phát triển của tư tưởng xã hội
chủ nghĩa đã bắt đầu với tên tuổi của 3 nhà tư tưởng vĩ đại: Hăngri Đơ Xanh
Ximông, Sáclơ Phuriê và Rôbớt Ôoen.
- Cơlôđơ Hăngri Đơ
Xanh Ximông (1769 - 1825)
Ông là người viết
nhiều tác phẩm đề cập nhiều nội dung có tính chất xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, ông có
công lao đề cập, luận giải cho lý thuyết về giai cấp và xung đột giai cấp. Mặc
dù ông chưa thể phân định chính xác về nguồn gốc cũng như bản chất kinh tế - xã
hội của các giai cấp nhưng đây là một đóng góp mới của ông đối với kho tàng tri
thức nhân loại về xã hội nói chung, về tư tưởng xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Ông tự tuyên bố là
người phát ngôn của giai cấp cần lao và giải phóng giai cấp ấy là mục đích cuối
cùng của những nỗ lực mà ông thực hiện trong cuộc đời.
Ông cũng chỉ ra
tính chất nửa vời, thiếu triệt để và không vì lợi ích của nhân dân lao động,
của cuộc Cách mạng tư sản Pháp 1789, nên theo ông cần có một cuộc cách mạng
mới, một cuộc "tổng cách mạng". Để thực hiện cuộc cách mạng mới đó,
ông chủ trương phải bằng "con đường bình yên chung", mặc dù thời trẻ
ông từng cống hiến sức lực của mình trong cuộc kháng chiến chống xâm lược của
những người anh em ở Bắc Mỹ.
Quan niệm của ông
về chế độ sở hữu của xã hội tương lai chứa đựng mâu thuẫn. Một mặt, ông cho
rằng, trong xã hội ấy, chế độ sở hữu phải được tổ chức sao cho có lợi nhất cho
toàn xã hội. Nhưng mặt khác, ông lại không chủ trương xoá bỏ chế độ tư hữu, mà
chỉ cố gắng xoá bỏ sự phân hoá giàu nghèo một cách quá đáng, thông qua và bằng
cách thực hiện chế độ tư hữu một cách phổ biến.
- Sáclơ Phuriê
(1772 - 1837)
Sinh ra và lớn lên
trong một gia đình thương gia không mấy suôn sẻ trong việc buôn bán, S. Phuriê
sớm được tiếp xúc với thương trường của xã hội tư bản phát triển. Là một người
không được học hành đến nơi đến chốn, nhưng bù lại ông có một trí thông minh
tuyệt vời. Tinh tế trong quan sát, sắc sảo trong nhận xét đánh giá, ông nắm rất
vững phép biện chứng trong quan sát, phát hiện và phân tích vấn đề, sử dụng tài
tình nguyên tắc antinomi trong trình bày các quan niệm về xã hội... Đó là những
đặc thù trong nhân cách của S. Phuriê.
Ngay từ khi chủ
nghĩa tư bản đang ở trong buổi bình minh của tự do cạnh tranh, S.Phuriê đã phát
hiện ra tình trạng vô chính phủ của nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Trong nền
kinh tế ấy, người lao động làm ra sản phẩm được hưởng thụ quá ít, trong khi kẻ
ăn bám thì lại hưởng thụ quá nhiều, "sự nghèo khổ được sinh ra từ chính sự
thừa thãi". Cũng trên cái nhìn biện chứng ấy, ông đưa ra 4 giai đoạn phát
triển lịch sử mà nhân loại đã trải qua: mông muội, dã man, gia trưởng và văn
minh.
Đánh giá về chế độ
văn minh tư bản, ông cho rằng nó chỉ có thể tạo ra sự giàu có nói chung chứ
không thể tạo ra sự giàu có cho toàn xã hội. Trên cơ sở cái nhìn biện chứng đối
với các tệ nạn của xã hội tư bản, ông dự đoán, xã hội văn minh tư bản nhất định
sẽ được thay thế bằng chế độ xã hội mới mà ông gọi là "chế độ xã hội được
đảm bảo" hay "xã hội hài hoà". Trong xã hội mới ấy, có sự thống
nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, mỗi cá nhân sẽ tìm thấy lợi ích
của mình trong lợi ích chung của toàn xã hội. Tuy nhiên, cũng như H. Xanh
Ximông, S. Phuriê không chủ trương xoá bỏ chế độ tư hữu.
- Rôbớt Ôoen (1771
- 1858)
Trong những năm 30
của thế kỷ XIX, ở nước Anh diễn ra phong trào đòi cải cách tuyển cử có sự tham
gia của đông đảo công nhân và lao động Anh. Trong bối cảnh ấy, xuất hiện một
nhà cải cách có khuynh hướng cộng sản chủ nghĩa. Ông là Rôbớt Ôoen.
Khác với H. Xanh Ximông
và S. Phuriê, R. Ôoen không chỉ đề xướng và kiến nghị những tư tưởng có tính
chất xã hội chủ nghĩa, ông còn đề ra và tổ chức thực nghiệm những tinh thần
được nêu trong Luật lao động nhân đạo trong công xưởng nơi ông làm giám đốc.
Bằng kinh nghiệm hoạt động thực tế ông đánh giá cao vai trò của công nghiệp,
của tiến bộ kỹ thuật đối với sản xuất và phát triển kinh tế. Những chủ trương
có tính nhân đạo mà ông thực hiện trong nhà máy của mình ít nhiều đã mang lại
những kết quả nhất định trong cải thiện đời sống cho công nhân của ông. Ông là
người chủ trương phải xoá bỏ tư hữu vốn là nguyên nhân của những bất công và tệ
nạn xã hội trong xã hội tư bản.
Bị thất bại và
khánh kiệt gia sản do những thực nghiệm đơn độc của mình ở Anh và ở Mỹ, ông dồn
toàn bộ thời gian và sức lực còn lại của cuộc đời vào hoạt động trong phong
trào của giai cấp công nhân Anh.
Như vậy,
hầu hết các quan niệm, các luận điểm của các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa đều
chứa đựng một tinh thần nhân đạo cao cả. Về cơ bản, những tư tưởng nhân đạo ấy
chưa vượt khỏi tinh thần nhân đạo tư sản. Tuy nhiên, nhiều giá trị, luận điểm
đã vượt được lên trên tinh thần nhân đạo tư sản, nhất là trong tư tưởng của các
tác giả đầu thế kỷ XIX
Với các mức độ và
trình độ có khác nhau, nhưng nhìn chung các tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong
suốt các thời kỳ được xét đều thể hiện tinh thần phê phán, lên án chế độ quân
chủ chuyên chế và chế độ tư bản chủ nghĩa. Chính vì thế, trong nhiều ấn phẩm,
ta thường bắt gặp cụm từ "chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán" để
chỉ các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước khi có chủ nghĩa xã hội khoa
học.
Nhiều luận điểm,
quan điểm, nhiều khái niệm... phản ánh ở mức độ khác nhau các giá trị xã hội
chủ nghĩa của những phong trào hiện thực, đã thực sự làm phong phú thêm cho kho
tàng tư tưởng xã hội chủ nghĩa, chuẩn bị những tiền đề lý luận cho sự kế thừa
phát triển tư tưởng xã hội chủ nghĩa lên một trình độ mới.
Các nhà xã hội chủ
nghĩa không tưởng đã nêu lên nhiều luận điểm có giá trị về sự phát triển của xã
hội tương lai mà sau này các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa
một cách có chọn lọc và chứng minh chúng trên cơ sở khoa học. Đó là những luận
điểm về tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm xã hội; về vai trò của công
nghiệp và khoa học - kỹ thuật; về xoá bỏ sự đối lập giữa lao động chân tay và
lao động trí óc; về sự nghiệp giải phóng phụ nữ; về vai trò lịch sử của nhà
nước, v.v..
Không chỉ là những
nhà tư tưởng đơn thuần, một số người đã xả thân, lăn lộn hoạt động trong phong
trào thực tiễn, thức tỉnh phong trào công nhân và người lao động, để từ đó mà
quan sát phát hiện những giá trị tư tưởng mới. Nghĩa là, ngày càng dùng đầu óc
để phát hiện trong thực tế chứ không phải là nghĩ ra từ đầu óc, như cách nói
của Ăngghen sau này, khi ông chỉ ra nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội.
Với những giá trị
nêu trên, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng, đặc biệt là chủ nghĩa xã
hội không tưởng phê phán trở thành một trong ba nguồn gốc lý luận trực tiếp
hình thành chủ nghĩa xã hội khoa học.
Tuy nhiên,
không thể không chịu ảnh hưởng sâu sắc quan niệm của chủ nghĩa duy lý và chân
lý vĩnh cửu của triết học thời kỳ cận đại, các nhà không tưởng đầu thế kỷ XIX
cũng đã không thể thoát khỏi quan niệm duy tâm về lịch sử. Họ cho rằng, chân lý
vĩnh cửu đã có, đã tồn tại ở đâu đó, chỉ cần có con người tài ba xuất chúng là
có thể phát hiện ra, có thể tìm thấy. Khi đã tìm thấy, chỉ cần những người đó
thuyết phục toàn xã hội là xây dựng được xã hội mới.
Hầu hết các nhà
không tưởng đều có khuynh hướng đi theo con đường ôn hoà để cải tạo xã hội bằng
pháp luật và thực nghiệm xã hội... Một số ít khác thì chủ trương khởi nghĩa
nhưng sự chuẩn bị đã không thể có được. Dù chủ trương bằng con đường nào, các
nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa đều đã không thể chỉ ra được con đường cách mạng
nhằm thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội mới. Bởi các ông
đã không thể giải thích được bản chất của chế độ nô lệ làm thuê tư bản, không
thể phát hiện ra những quy luật nội tại chi phối con đường, cách thức cho những
chuyển biến tiếp theo của xã hội.
Các nhà tư tưởng xã
hội chủ nghĩa trong các thời kỳ được xét, ngay cả những đại biểu của đầu thế kỷ
XIX đã không thể phát hiện ra lực lượng xã hội tiên phong có thể thực hiện cuộc
chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản. Lực lượng ấy đã được sinh ra, lớn lên và phát triển cùng với nền đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là giai cấp công nhân.
Những hạn chế trên
đây là những hạn chế có tính lịch sử, không thể tránh khỏi.
Nguyên nhân cơ bản
của những hạn chế có tính chất lịch sử của chủ nghĩa xã hội không tưởng bắt
nguồn từ những điều kiện kinh tế - xã hội lúc bấy giờ, đáng chú ý nhất là:
Phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa chưa phát triển đầy đủ, chưa bộc lộ hết những mâu thuẫn
nội tại và những mặt trái cơ bản của nó.
Giai cấp công nhân
hiện đại chưa hình thành với tư cách là một giai cấp đã trưởng thành với những
đặc điểm ưu việt riêng có; cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân còn ở trình độ
thấp.
Theo Ph. ăngghen,
những lý luận chưa chín muồi đó chính là phù hợp với tình trạng chưa chín muồi
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, với những quan hệ giai cấp chưa chín
muồi.
Do những hạn chế
ấy, mà các tư tưởng về chủ nghĩa xã hội trước C.Mác được gọi là chủ nghĩa xã
hội không tưởng. Nhưng những gì mà các ông để lại thực sự là một đóng góp vô
giá vào kho tàng tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Những đóng góp to lớn ấy đã thực sự
làm cho chủ nghĩa xã hội của các ông là một trong những tiền đề tư tưởng lý
luận quan trọng cho sự ra đời của tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở một trình độ mới
cao hơn: chủ nghĩa xã hội khoa học.
Đ.Đ.H
bài viết rất hay
Trả lờiXóa