Kẻ sĩ là người học cao, hiểu rộng, bụng chứa đầy một bồ kinh luân và có lương tâm, lương
thức. Kẻ sĩ chính là người hiền tài, mà “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”
(câu nói của Thân Nhân Trung thời nhà Lê). Trí thức ngày nay cũng có thể xem là
kẻ sĩ dù có khác nhau về cái học (nội dung đào tạo, phương pháp rèn luyện, chỗ
đứng trong xã hội)... nhưng về vai trò, sứ mệnh đối với xã hội, với nhân tâm,
thế đạo thì không khác. Kẻ sĩ hay trí thức mãi mãi là hình thái văn hóa. Văn
hóa là phần hồn của đất nước.
Cái học ngày xưa có gì
khác với cái học ngày nay? Và kẻ sĩ ngày xưa nắm giữ vai trò gì đối với quốc
gia, xã tắc? Thời Phong kiến, kẻ sĩ lấy tư tưởng nho giáo để làm cái sự học của
mình; lấy Đạo tam cương, ngũ thường là rường cột của mọi mối quan hệ đạo đức -
xã hội; đó là những chuẩn mực tất nhiên, bất biến. Trong ba mối quan hệ quân -
thần, phụ - tử, chồng - vợ, hai mối quan hệ đầu được kẻ sĩ coi trọng. Kẻ sĩ coi
đức trung và đức hiếu là hai giá trị căn bản nhất xác định giá trị của con
người. Họ trung thành với vương triều, là mưu sĩ cận thần, là sĩ phu yêu nước,
góp phần cùng đế vương “trị quốc, bình thiên hạ”.
Trong thời đại ngày nay không con quan hệ vua - tôi
thì đó chính là “lòng trung thành với tổ quốc, với nhân dân và với chế độ đã
đem lại độc lập, tự do, cơm ngon, áo đẹp như ngày nay”. Thời nào cũng thế, đã
là kẻ sĩ thì phải lấy trung, hiếu làm trọng, phải là những người “giàu sang
không thể cám dỗ, nghèo khó không thể chuyển lay, quyền uy không thể khuất
phục”! Đã là kẻ sĩ thì trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải luôn nuôi dưỡng chí
khí lớn lao, phải gánh vác trọng trách với non sông đất nước và luôn luôn kiên
trì ý chí anh hùng. Kẻ sĩ dám chấp nhận mọi khó khăn để thực hiện bổn phận,
trách nhiệm với non sông; có vị trí cao và vai trò quan trọng trong xã hội, có
tài trị nước an dân, có bổn phận nặng nề nhưng vẻ vang đó chính là kẻ sĩ “QUÂN
TỬ”.
Nước Việt hơn 4000 năm văn hiến có biết bao nhiêu kẻ
trí sĩ đem tài năng của mình để kinh bang tế thế, mang cái tài của mình mà trị
quốc an dân. Nhân tài, kẻ trí sĩ trong lịch sử nước ta nhiều như lá mùa xuân,
làm rạng danh đất Việt...Trong thời đại Hồ Chí Minh có biết bao kẻ sĩ dấn thân
vì đại nghiệp giải phóng dân tộc, từ bỏ vinh hoa, phú quý để đồng hành cùng dân
tộc; góp sức lực và trí tuệ của mình vào sự nghiệp thống nhất nước nhà; ví như
giáo sư Trần Đại Nghĩa, kỹ sư luyện kim Võ Quý Huân, bác sĩ Trần Hữu Tước từ bỏ
nơi gấm hoa để theo Bác Hồ về nước đóng góp vào sự nghiệp chung đó là rửa mối
nhục nô lệ của dân tộc. Những anh hùng, danh nhân của đất nước, những kẻ sỹ đó
mới đích thực là bậc chính nhân quân tử, đại nhân, đại đức, đại trí, đại nghĩa;
là mặt trời chân lý mãi rọi sáng đường cho con cháu bước theo.
Cổ thời, có những mỹ từ dùng để
tôn vinh, ngưỡng phục, đề cao kẻ sĩ như: Sĩ hạnh, Sĩ khí, Sĩ tiết, Danh sĩ, Học
sĩ hàn lâm, Chí sĩ...Tuy vậy, trong giới Nho học vẫn không ít bọn hủ nho, ngụy
nho do đọc không hết sách, hiểu không hết lời, tri hành không hợp nhất (cũng
như ngày nay bên cạnh Chân Trí thức vẫn không ít Ngụy trí thức, ác trí thức);
có thể gọi chúng là lũ “LƯU MANH MƯỢN DANH KẺ SĨ”; những kẻ đó thời nào cũng
có; ví như thời Trần có Hoàng tử Trần Ích Tắc, văn thao, võ lược; cầm, kỳ, thi,
họa đều tự cho mình là tài giỏi nhất. Thế nhưng khi giặc đến thì co thân, uốn
gối đầu hàng giặc, chống lại đất nước…
Ngày nay đám trí giả nửa mùa đó
cũng không phải là ít; thậm chí là những kẻ con cháu, dòng giỏi thế gia; được
đảng nhà nước cho ăn học tử tế, hưởng lương bổng từ ngân sách nhà nước; thậm
chí có kẻ còn đương chức, đương quyền nhưng lại trở cờ theo giặc, thường xuyên
chống phá sự bình yên của đất nước ta. Bọn chúng ôm dạ phản trắc, thấy lợi nhỏ
quên nghiệp lớn, bán rẻ tổ quốc và luôn có tư tưởng thờ ngoại bang. Nhiều cái
tên cũng được xem là “kẻ sĩ” như: Chu Hảo, Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang A, Nguyễn
Đăng Quang, Mạc Văn Trang, Giáo sư Tương Lai, Đỗ Ngọc Thống, Cù Huy Hà Vũ,
Nguyễn Đức Thành, Chu Mộng Long…là những trường hợp điển hình. Chúng lợi dụng
những sự kiện được dư luận quan tâm để xuyên tạc, bịa đặt, bôi nhọ đảng và nhà
nước ta, kêu gọi phương Tây can thiệp chuyện nội bộ của Việt Nam. Chúng là lũ
lưu manh nhân danh trí trức!
Những “nhân sỹ, trí thức"
này, luôn cho mình là học cao, biết rộng; trên thông thiên văn, dưới tường địa
lý nhưng có một điều chắc chắc là trung hiếu, sỉ nhục những cái làm nền tảng để
làm nên kẻ sĩ thì họ lại không hề có. Đó là bọn tiểu nhân khi mang thân dê chó
đãi thờ ngoại quốc, uốn lưỡi cú diều mà chê bai, bôi nhọ chế độ đã rửa cái nhục
nộ lệ cho đất nước; chế độ đã dẫn dắt con thuyền độc lập, tự do đến với bến bờ
hạnh phúc như hôm nay. Đồng ý là xã hội này vẫn còn tồn tại nhiều mặt chưa tốt;
vẫn còn tham nhũng, hối lộ và tiêu cực; thế nhưng tại sao với một bồ kinh luân
trong bụng, các ngươi không mang ra để đóng góp cho đất nước trên tinh thần xây
dựng? Tổ quốc này rất cần những kẻ sĩ để đưa đất nước rửa cái nhục lạc hậu mà
lại trở cờ, hại dân, phản quốc, can tâm phò trợ ngoại bang, khúm núm và tôn thờ
cái thây ma đã thối rửa đó là bọn ngụy quân - ngụy quyền, đám tàn binh, thất
tướng đang ngày đêm chống phá đất nước ta.
Các ngươi nên nhớ Việt Nam là một quốc gia độc lập, có
chủ quyền và quyền tự quyết về vận mạnh của mình và chắc chắn để phát triển thì
không thể và không bao giờ lệ thuộc vào ngoại bang nào cả mà phải trên tinh
thần đoàn kết dân tộc để chung tay xây dựng cơ đồ để cho “giang sơn muôn thủa vững
âu vàng”; chúng ta sẵn sàng làm bạn với các nước, tranh
thủ sự ủng hộ của quốc tế nhưng không cho phép bất cứ thế lực nào can thiệp vào
chuyện nội bộ của nước ta; nếu có thì chúng nhất định có cái kết giống như thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ đã nhận. Nếu có họa binh đao thì nhân dân Việt Nam là
những người thiệt thòi nhất, đau đớn nhất; bài học của Sirya, Lybia, Iraq ...là
bài học quý giá nhất. Thứ “dân chủ, nhân quyền” giả hiệu phương Tây đã làm cho
những quốc gia này vốn rất thanh bình trở thành chiến trường sặc mùi thuốc súng
và tanh tưởi máu tươi của người dân vô tội.
Ở đời sự phân biệt giữa quân tử và tiểu nhân không chỉ
ở địa vị xã hội, ở học thức, mà cái chính là yêu nước thương nòi, đóng góp sức
lực và trí lực cho tổ quốc. Người quân tử luôn tôn cao phẩm giá của mình trong
mọi hoàn cảnh. Còn kẻ tiểu nhân trong lúc thái quá hay trong cơn bất cập thường
đánh mất nhân phẩm của mình. Vậy nên cổ nhân mới có câu "Người quân tử
trông cậy ở mình, tiểu nhân trông cậy ở người" là thế. Trong cái đám thất
phu đó có kẻ là con của hàng khai quốc công thần, có kẻ là con liệt sỹ, có kẻ
đang hưởng lương từ ngân sách nhà nước nhưng đã bội phản, trở cờ; suy cho cùng
là các ngươi hám danh, hám lợi mà thôi. Các ngươi trên không lo báo ơn nước,
lấy trí tuệ của mình mà xây dựng quốc gia đó là BẤT TRUNG; phản bội lý tưởng
mình đã chọn, cha anh là long hổ lại sinh ra giống phản phúc, trở cờ, đi ngược
lại với con đường mà cha anh các ngươi đã chọn, đã phục vụ đó là BẤT HIẾU. Nhân
danh “trí thức” mà bất trung, bất hiếu thì liệu có xưng làm con dân của một dân
tộc độc lập, tự do. Sau này xuống suối vàng các ngươi còn mặt mũi nào mà đi gặp
tiên phụ, tổ tiên của các ngươi./.
M.Dũng
Nội dung bài viết rất hay, cảm ơn tác giả
Trả lờiXóa