Những bài học từ lịch sử
Tiến sĩ Thân Nhân Trung, khi được Vua Lê Thánh Tông giao soạn bài văn bia
cho bia Tiến sĩ đầu tiên khoa Nhâm Tuất (1442) đã viết: “Hiền tài là nguyên khí
của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy
thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào
không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia
làm công việc cần thiết...”.
Những lời ấy đã được đục khắc vào bia đá, để lại cho muôn đời con cháu
noi theo mà thực hiện.
Các triều đại nối nhau trong lịch sử nước ta đều coi việc tìm chọn hiền
tài là việc hệ trọng của quốc gia. Nhà Lý cho ra đời Quốc Tử giám, trường “đại
học” đầu tiên của nước ta để mở khoa thi đầu tiên đào tạo nhân tài. Viên quan
văn võ song toàn Tô Hiến Thành ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc chính
là trong thời nhà Lý. Năm 1253, nhà Trần lập Quốc Học viện, ban hành thể lệ thi
cử rất nghiêm khắc để tránh chuyện con nhà giàu chạy chọt đỗ đạt. Chế độ thi cử
đó đã phát hiện và bồi dưỡng ra những danh nhân văn hóa như Nguyễn Hiền đỗ
Trạng nguyên năm 13 tuổi, Mạc Đĩnh Chi, vị quan liêm khiết, vị sứ thần thông
minh, hiểu biết sâu rộng, tài năng khí phách, hay nhà sử học Lê Văn Hưu, người
biên soạn bộ Quốc sử đầu tiên của nước ta. Nhà Hồ chỉ trị vì trong một thời
gian rất ngắn nhưng qua tuyển cử đã phát hiện những bậc kiệt hiệt như Nguyễn
Trãi, sau này là nhà văn hóa lớn của dân tộc... Đến thời Hậu Lê, Vua Lê Lợi
ngay năm đầu ở ngôi đã hạ chiếu nói lời thiết tha: “Muốn thịnh trị phải được người
hiền tài, muốn được người hiền tài thì phải do tiến cử. Cho nên người đứng đầu
thiên hạ phải lo việc ấy trước tiên”.
Minh Mạng, vị vua thứ hai triều Nguyễn đã biến việc cầu người hiền tài
thành một chính sách nhất quán của triều đình khi ấy. Sách Khâm định Đại Nam
hội điển sử lệ của nội các triều Nguyễn ghi lại có tới 11 lần Vua Minh Mạng ban
dụ để cầu người hiền tài tham gia vào bộ máy hành chính nhà nước.
Vua Quang Trung ngay sau khi đánh tan quân Thanh đã giao cho Ngô Thì Nhậm
thay mình viết Chiếu cầu hiền, hoặc kiên nhẫn ba lần viết thư mời La Sơn phu tử
Nguyễn Thiếp ra giúp rập cho nhà Tây Sơn, là những tấm gương điển hình cho việc
chiêu hiền đãi sĩ tìm chọn người tài của cha ông ta.
“Chiếu cầu hiền” khi cách mạng thành công
Thời nay, một con người kiệt xuất luôn coi trọng việc thu phục và sử dụng
người tài đức là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, cuối năm 1945, Hồ Chủ tịch
đã hai lần viết thư mời cụ Huỳnh Thúc Kháng, một nhà chí sĩ yêu nước ra giúp
việc cho Chính phủ. Rồi trong những ngày dầu sôi lửa bỏng năm 1946, trước khi
sang Pháp thực hiện chuyến công du nước ngoài lâu ngày, Bác Hồ đã ký sắc lệnh
ủy nhiệm cụ Huỳnh Thúc Kháng, một nhân sĩ ngoài Đảng Cộng sản, làm quyền Chủ
tịch nước với lời dặn dò gan ruột: “Dĩ bất biến ứng vạn biến!”. Cụ Huỳnh đã đảm
nhiệm công việc này một cách trọn vẹn.
Từ nước Pháp trở về, Bác đã đi cùng với 4 trí thức Việt kiều yêu nước là
kỹ sư luyện kim Võ Quý Huân, bác sĩ Trần Hữu Tước, kỹ sư mỏ Võ Đình Quỳnh và
nhà khoa học Phạm Quang Lễ (giáo sư Trần Đại Nghĩa ). Tiếp sau đó, những trí
thức lớn khác ở Pháp như Nguyễn Khắc Viện, Phạm Huy Thông, Trần Đức Thảo...
cũng về Việt Nam. Trong bối cảnh muôn vàn thiếu thốn, các trí thức này đã có
những đóng góp to lớn vào công cuộc kháng chiến và sau này là kiến quốc của
toàn dân tộc.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước, ngày
20-11-1946, trên Báo Cứu quốc xuất hiện một bài báo, nói đúng hơn là một thông
báo, dưới ký tên “Chủ tịch Chính phủ Việt Nam - Hồ Chí Minh”, viết: “Nước nhà
cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng
bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy
không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi
xin thừa nhận. Nay muốn sửa đổi điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng, các
địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được
những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”.
Đây chính là một dạng “Chiếu cầu hiền” của người đứng đầu Chính phủ nước
Việt Nam non trẻ lúc bấy giờ.
Những bài học đau xót
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã
chỉ rõ: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ”.
Như thế, có thể thấy vận mệnh của đất nước, của chế độ tùy thuộc vào cái
cách mà chúng ta lựa chọn đội ngũ cán bộ các cấp, trong đó có cấp chiến lược,
những người đảm trách công việc nặng nề là chèo lái con thuyền quốc gia. Điều
đó đòi hỏi sự trong sáng, tinh thần trách nhiệm cao cả vì sự nghiệp chung của
những cán bộ lớp trước trong việc giới thiệu với cơ quan có thẩm quyền tuyển
chọn những người xứng đáng.
Chúng ta đã có những bài học đau xót về việc giới thiệu cán bộ không đủ
phẩm chất và năng lực nhưng là cánh hẩu, là họ hàng, là đổi chác (tôi nâng đỡ
con anh thì anh nâng đỡ con tôi, hoặc tôi nâng đỡ người của anh thì anh nâng đỡ
người của tôi…) và cũng không loại trừ việc đút lót tiền bạc, của cải để được
vào các vị trí trọng yếu.
Cho đến nay, mặc dù công tác cán bộ đã được đổi mới nhiều, nhưng trên
thực tế vẫn không tránh khỏi còn những sai sót nghiêm trọng là kẽ hở để những
kẻ tham lam, cơ hội, kém đức kém tài chui vào bộ máy, tạo dựng bè cánh, gây nên
những tác hại nghiêm trọng, dẫn đến sự bất bình to lớn trong nhân dân và đặt
sinh mệnh chính trị của Đảng, của chế độ vào thế bất lợi.
Không thể để những kẻ kém đức kém tài, vô liêm sỉ, “chạy chức chạy quyền”,
có nguồn tài sản bất minh, nâng đỡ người thân, gia đình, họ hàng, là cánh hẩu,
bị xã hội và báo chí lên án, lại vẫn có thể biện bạch thách thức dư luận hay
lên giọng rao giảng đạo đức. Không thể để một ông cán bộ cấp cao phát ngôn bừa
bãi, đề ra những chính sách gây thiệt hại cho đất nước và nhân dân có thể tiếp
tục nhơn nhơn tại vị. Lại càng không để cho những quan tham, dù ở cấp nào, có
thể trốn tránh trách nhiệm và “hạ cánh an toàn”.
Càng là người của tổ chức, của Đảng, lại càng phải chịu trách nhiệm nặng
nề hơn trước sự nghiêm minh của pháp luật, sự giám sát của nhân dân.
Rà soát lại “quy trình”
Làm thế nào để có thể hạn chế tối đa những sai sót trong công tác lựa
chọn cán bộ, đặc biệt là ở cấp chiến lược?
Câu trả lời ở đây là cơ chế trách nhiệm.
Quy trình tuyển chọn, đề bạt cán bộ là của tập thể, nhưng công việc giới
thiệu cần được cá nhân hóa để thuận tiện cho việc vận hành cơ chế trách nhiệm.
Cá nhân người giới thiệu có trách nhiệm bảo vệ sự tiến cử của mình trước
các cơ quan chức năng. Người cán bộ được tiến cử có thành tích và tiến bộ thì
cá nhân người giới thiệu và tập thể giới thiệu được khen thưởng xứng đáng; nếu
người được tiến cử vi phạm những tiêu chuẩn về chuyên môn, đạo đức trong công
việc, người giới thiệu và những thành viên nào trong tập thể tán thành giới
thiệu bổ nhiệm nhân sự sai lầm cũng phải chịu trách nhiệm và bị xử lý kỷ luật
tương xứng.
Người cán bộ được giới thiệu để tuyển chọn phải có trách nhiệm trình bày
rõ trước cơ quan tuyển chọn về những thành quả nổi bật đã làm, được cơ quan,
đơn vị, nhân dân thừa nhận và phải trình bày những công việc mình sẽ làm trên
cương vị công tác mới. Các cơ quan chức năng và nhân dân sẽ đánh giá quá trình
“thi tuyển” này thông qua các cơ chế giám sát, qua báo chí và dư luận quần
chúng.
Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định bổ nhiệm cán bộ vào các vị trí trong
hệ thống chính trị phải chịu trách nhiệm nếu kết quả bổ nhiệm nhân sự ấy lại là
người kém đức kém tài; đồng thời cơ quan ra quyết định cũng phải có đủ thẩm
quyền và có trách nhiệm xử lý nhanh chóng những trường hợp cán bộ sai phạm
trong công tác. Ở các quốc gia văn minh, chỉ cần một Bộ trưởng lỡ lời là đủ để
cho Chính phủ buộc người đó thôi chức để giữ uy tín cho Đảng cầm quyền. Còn ở
ta, một quốc gia có nền văn hiến hàng nghìn năm rực rỡ, sao lại không thể làm
như vậy?
Chúng ta đã có cả một hệ thống các quy định khá chặt chẽ của Đảng cho đến
các quy định của Nhà nước, nhưng vẫn xảy ra tình trạng “một bộ phận không nhỏ”
cán bộ, đảng viên trong bộ máy công quyền các cấp thoái hóa, biến chất, vi phạm
kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật, trong đó có những trường hợp hết sức nghiêm
trọng và kéo dài. Thực tế đó cho thấy cần phải rà soát lại toàn bộ “quy trình”
tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ, khắc phục những hạn chế, yếu kém đã bộc lộ, đồng
thời cũng phải rà soát lại quy trình xử lý cán bộ sai phạm theo hướng kiên
quyết, nhanh gọn hơn, không thua kém gì các quốc gia văn minh.
Với cơ chế tìm chọn hiền tài đúng đắn, tiến bộ, phù hợp thực tiễn hiện
nay, chắc chắn chúng ta sẽ loại bỏ được những kẻ kém đức, kém tài, cơ hội, chui
sâu leo cao, đồng thời tìm chọn được những cán bộ có đủ đức tài làm rường cột
quốc gia, đáp ứng được sự mong mỏi của nhân dân.
Dù ở hoàn cảnh nào thì đức hy sinh, khát vọng cống hiến cho Tổ quốc luôn
là những giá trị bất biến của hiền tài.
Mối liên hệ hữu cơ giữa “nguyên khí quốc gia” - những người hiền tài -
với vận mệnh quốc gia, dân tộc là điều đã được chứng minh qua lịch sử mấy ngàn
năm của đất nước. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, khi nhờ có hai gia tướng tài
năng đức độ Dã Tượng và Yết Kiêu mà thoát khỏi vòng vây quân thù đã thốt lên
rằng: “Chim hồng hộc sở dĩ bay cao được là nhờ ở sáu trụ xương cánh cứng rắn”.
Ngày nay, những cán bộ liêm chính, đức tài vẹn toàn được lựa chọn đảm nhiệm các
trọng trách, sẽ là những trụ xương cánh cứng rắn để Đảng cầm quyền và bộ máy
chính quyền vững mạnh, phục vụ nhân dân một cách hiệu quả, đưa đất nước tiến
lên vững chắc trên con đường hội nhập và phát triển.
Thời cơ và thách thức nằm ngay trong chính chúng ta./.
Nếu sử dụng đúng nhân tài sẽ mang lại hiệu quả công việc cao
Trả lờiXóa