Thứ Ba, 17 tháng 10, 2017

Đổi mới phương thức lãnh đạo - Yếu tố bảo đảm thắng lợi của Đảng Cộng sản Việt Nam trong từng thời kỳ lịch sử


TCCSĐT - Khái niệm “Phương thức lãnh đạo của Đảng” được dùng chính thức lần đầu tiên tại Hội nghị Trung ương 6, khóa VI (tháng 3-1989), cùng với khái niệm “hệ thống chính trị”. Sau đó, khái niệm này được đề cập trong Thông báo số 172 của Bộ Chính trị khóa VI (tháng 11-1989) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (tháng 6-1991). Từ sau Đại hội VII trở đi, trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước Việt Nam, khái niệm “phương thức lãnh đạo của Đảng” được dùng phổ biến và trở thành quen thuộc. 
“Phương thức lãnh đạo” là hệ thống các hình thức, các phương pháp, quy trình… mà Đảng vận dụng để tác động vào hệ thống chính trị - xã hội nhằm đạt mục tiêu nội dung lãnh đạo của Đảng. “Phương thức lãnh đạo” không hoàn toàn đồng nhất với “phương thức hoạt động”, nhưng nó là một nội dung chủ yếu của phương thức hoạt động của Đảng trong điều kiện đảng cầm quyền. Khi nói phương thức lãnh đạo thì không tách rời nội dung lãnh đạo và được đặt trong mối quan hệ biện chứng với tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành, phong cách công tác và lề lối làm việc của hệ thống tổ chức, của mỗi người cán bộ, đảng viên, công chức. Một phương thức lãnh đạo đúng sẽ bảo đảm thực hiện đúng định hướng chính trị, vừa phát huy được tính chủ động, sáng tạo và nhân lên thành sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Muốn cho mọi người làm tròn nhiệm vụ, cán bộ Đảng và chính quyền cần biết lãnh đạo”(1).
Lãnh đạo “toàn diện, tuyệt đối và trực tiếp”
Đổi mới phương thức lãnh đạo có nghĩa là tiếp tục đi sâu nghiên cứu để phát triển, hoàn chỉnh và cụ thể hóa hơn nữa đường lối chính trị của Đảng. Người lãnh đạo cách mạng phải khéo sửa đổi khi có những sai lầm trong tư tưởng, lý luận, kế hoạch và nghị quyết của mình. Đồng thời, khi phát triển từ giai đoạn này lên giai đoạn khác thì sự hiểu biết của người lãnh đạo và chiến sỹ cách mạng cũng phải tiến theo. Nghĩa là, đề ra nhiệm vụ mới, phương pháp mới phù hợp với tình hình mới của cách mạng. 
Nhìn lại lịch sử của Đảng ta, nhất là lịch sử hơn 70 năm cầm quyền cho thấy, ở mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã không ngừng đúc kết thực tiễn để có những phương thức lãnh đạo phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ chính trị thời kỳ ấy.
Thời kỳ trước năm 1975, do yêu cầu cấp thiết, khẩn trương với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến”, “tất cả để chiến thắng”, phương thức lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ này là “toàn diện, tuyệt đối và trực tiếp”(2). Ngay từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên vào năm 1930, Đảng ta đã xác định: con đường của cách mạng Việt Nam, đó là “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(3). 
Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945), Đảng ta đã kịp thời đặt ra và giải quyết thành công nhiều vấn đề giữa nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, giữa mục tiêu dân tộc và mục tiêu dân chủ, giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp. Bước sang thời kỳ bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng tháng Tám, tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975), trước hoàn cảnh lịch sử hết sức nặng nề “ngàn cân treo sợi tóc”, Đảng đã đề ra phương thức lãnh đạo phù hợp, với nhiều chủ trương kiên quyết, khéo léo, mềm dẻo. Đảng đã đưa đất nước vượt qua thử thách hiểm nghèo, củng cố thành quả Cách mạng tháng Tám; chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân trên phạm vi cả nước với những chủ trương lớn, kịp thời như tận dụng mọi cơ hội hòa bình để giải quyết mối quan hệ giữa Việt Nam và Pháp. Khi cơ hội này không còn, Đảng đã phát động “toàn quốc kháng chiến”, với đường lối kháng chiến “toàn dân”, “toàn diện”, “trường kỳ kháng chiến”. Nhờ những biện pháp và phương thức cách mạng đó, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
Miền Bắc được giải phóng, miền Nam vẫn còn nằm dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Trong bối cảnh mới, yêu cầu Đảng ta phải có chủ trương, phương thức mới phù hợp, lãnh đạo cùng một lúc hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền đất nước. Từ Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 (tháng 3-1955), đến Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (tháng 01-1959), khóa II, Đảng ta đều nhận định, cách mạng Việt Nam đồng thời thực hiện hai chiến lược cách mạng, đó là: cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Hai miền thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau, nhưng tiến hành đồng thời, có quan hệ mật thiết, thúc đẩy lẫn nhau nhằm giải quyết mâu thuẫn chung giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hòa bình thống nhất đất nước. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, được phát triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh của dân tộc, đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Đường lối kháng chiến trên không những thể hiện bản lĩnh vững vàng của Đảng ta, mà còn thể hiện sự kế thừa, đúc rút và phát triển kinh nghiệm khoa học, phương thức và nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh cách mạng của Đảng từ thực tiễn cách mạng.
Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với phương thức lãnh đạo “toàn diện”, “tuyệt đối” và “trực tiếp”, phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, cách mạng Việt Nam lần lượt giành được những thắng lợi to lớn và hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trong thời kỳ này, việc đề ra chủ trương, đường lối, phương pháp cách mạng luôn đồng thời với việc tổ chức lực lượng, bố trí cán bộ, trực tiếp chỉ đạo từng địa bàn chiến lược, từng phong trào cách mạng của quần chúng, bảo đảm cho đường lối của Đảng được thực hiện thống nhất, khẩn trương để giành thắng lợi. Với phương thức lãnh đạo này, cùng với sự chỉ đạo cách mạng đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hai miền thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
Thời kỳ 1975 - 1986, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở nền kinh tế quản lý tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh và tập thể, Đảng ta đã ý thức rõ sự cần thiết phải có sự thay đổi căn bản trong phương thức lãnh đạo. Tại Đại hội IV (năm 1976), Đảng ta đã yêu cầu phải xác định chức năng, nhiệm vụ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, theo đó, “sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cao nhất cho chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa”(4). Sự lãnh đạo của Đảng mang tính tập trung cao nhằm mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đảng vừa xây dựng đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước chậm phát triển sau chiến tranh lâu dài, vừa nỗ lực tìm tòi cơ chế lãnh đạo mới, đó là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ”(5). Với phương thức này, Đảng ta đã lãnh đạo tập trung sức mạnh vật chất của cả nước, quy tụ các tổ chức chính trị - xã hội phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. 
Phương thức lãnh đạo trên của Đảng ta mang tính khoa học và thực tiễn hết sức sâu sắc, là một bước tiến to lớn trong quan niệm về phương thức lãnh đạo khi Đảng trở thành đảng cầm quyền. Nhưng, do cơ chế quản lý không theo kịp với thực tế của đất nước, trên một số mặt công tác lớn của Đảng vẫn áp dụng phương thức lãnh đạo đã hình thành trong chiến trranh, chậm nhận thức sự cần thiết phải có phương thức lãnh đạo mới trong thời kỳ hòa bình, xây dựng đất nước, đội ngũ cán bộ đã quen với phong cách cũ, nhất là do cơ chế quản lý kinh tế trở nên “quan liêu, bao cấp”, nên vai trò của Nhà nước bị thụ động, trách nhiệm quản lý đất nước bị suy giảm, sự trì trệ trong đường lối kinh tế dẫn đến sự trì trệ trong hệ thống chính trị. Tình trạng bao biện, buông lỏng tổ chức đảng đối với cơ quan nhà nước và đoàn thể diễn ra ở nhiều nơi. Bộ máy Nhà nước dường như chỉ còn là cơ quan quản lý, phân phối và thụ động.
Trước những thách thức đó, Đảng ta đã tổng kết sáng kiến từ thực tiễn, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới. Bắt đầu từ Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (tháng 8-1979), Chỉ thị 100-CT/TW (năm 1981), Hội nghị Trung ương 8 khóa V (tháng 6-1985) cho đến Đại hội VI (tháng 12-1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội đánh dấu bước đột phá lớn về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ thực tiễn đó, Đảng ta nhận thấy rõ một đặc điểm rất quan trọng là chiến tranh có quy luật, có phương thức của chiến tranh, xây dựng hòa bình có quy luật, có phương thức của xây dựng hòa bình. Điều đó cho thấy, phương thức lãnh đạo của Đảng luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan, những khiếm khuyết sớm được nhận thức và điều chỉnh.
Nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị
Thời kỳ đổi mới từ sau năm 1986, trong công cuộc đổi mới, với việc chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước và mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới, hệ thống chính trị đã có bước phát triển mới. Từ sau Đại hội VI, Đảng ta đã từng bước nhận thức và đổi mới về phương thức lãnh đạo, bảo đảm vừa nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, vừa tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị. Đảng ta xác định rõ được mối quan hệ và lề lối làm việc giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể, với phương thức lãnh đạo theo hướng “Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nhà nước của dân, do dân và vì dân”(6). Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII của Đảng thông qua, Nghị quyết Trung ương 2, Trung ương 8 (khóa VII), Trung ương 3, Trung ương 7 (khóa VIII) và Đại hội IX đều thể hiện tư tưởng, quan điểm đổi mới của Đảng và hoàn thiện hơn về phương thức lãnh đạo. Đảng ta ngày càng coi trọng, quan tâm và xem đổi mới phương thức lãnh đạo là một yêu cầu cơ bản, cấp bách của đổi mới, chỉnh đốn Đảng cho phù hợp với tình hình cụ thể. 
Trong quá trình đổi mới, trên cơ sở đổi mới tư duy và cùng với đổi mới kinh tế, hệ thống chính trị, văn hóa - xã hội, phương thức lãnh đạo của Đảng ta cũng không ngừng được hoàn thiện với những bước tiến khác xa so với thời kỳ chiến tranh và thời kỳ tập trung bao cấp. Phương thức lãnh đạo của Đảng ta đối với Nhà nước và xã hội được thay đổi theo hướng mở rộng dân chủ và công khai. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên;… Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”(7).
Đảng ta đã cử cán bộ, đảng viên của mình giữ những cương vị chủ chốt trong bộ máy chính quyền các cấp, nhất thể hóa chức danh lãnh đạo, nhờ đó, giữ vững được sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với hệ thống chính trị. Quá trình xây dựng và ban hành Nghị quyết của Đảng đã được cải tiến, đã quan tâm đến công tác tham mưu, tư vấn chuyên gia, làm thí điểm. Việc phổ biến nghị quyết cũng đã giảm bớt hình thức, tăng tính thiết thực, ngắn gọn, gắn với chương trình hành động cụ thể. 
Tuy nhiên, những đổi mới về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới của Đảng và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, từ đó dẫn tới hạn chế vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân. Điều này đang đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục hoàn chỉnh cả về phía Đảng, phía Nhà nước và toàn thể xã hội. 
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trước yêu cầu mới của đất nước 
Để hiện thực được yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay, thứ nhất, cần đầu tư hơn nữa về thời gian và trí tuệ cho công tác lý luận cũng như tổng kết thực tiễn hoạt động lãnh đạo và công tác xây dựng Đảng, nhất là ở vào những thời điểm có tính chất bước ngoặt như hiện nay. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu những vấn đề có tính lý luận về mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị. Chỉ có như vậy mới bảo đảm đầy đủ cơ sở khoa học để xây dựng đường lối đúng đắn, nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành nghị quyết của Đảng. Vì vậy, các cấp ủy đảng phải tập trung thời gian, sức lực vào lãnh đạo nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nắm bắt những vấn đề mới nảy sinh, bám sát các sự kiện đang vận động, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, dự báo chiều hướng phát triển của tình hình để rút ra những kết luận cần thiết; coi trọng xây dựng văn hóa trong các tổ chức Đảng, hệ thống chính trị; nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các đoàn thể; tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo đã xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ (phát triển, bổ sung năm 2011), như Đại hội XII đã đề ra. Đổi mới phương thức lãnh đạo, trước nhất phải “đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ quan nghiên cứu lý luận của Đảng”(8). 
Thứ hai, phương thức lãnh đạo mới đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ có tư duy mới và kỹ năng lãnh đạo mới, đề cao trách nhiệm của đảng viên, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng. Bởi, trên thực tế, “mọi công việc của Đảng đều do đảng viên làm, mọi nghị quyết của Đảng đều do đảng viên chấp hành, mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng, mọi khẩu hiệu, kế hoạch của Đảng đều do Đảng viên cố gắng thực hiện”(9). Do đó, việc nâng cao chất lượng, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của đảng viên là nền tảng, uy tín, năng lực lãnh đạo của Đảng, là yêu cầu khách quan, bắt nguồn từ vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử của Đảng. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng diễn ra hết sức phức tạp và nguy hiểm, nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ. Bài học từ sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, mà nguyên nhân chủ yếu là do “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ vẫn còn nóng hổi. Do đó, việc tiếp tục kiên trì, kiên quyết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” là vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay.
Thứ ba, phương thức lãnh đạo mới cần phải xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn; bộ máy hành chính trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả là một trong những nhiệm vụ, mục tiêu hướng tới, là cơ sở xây dựng một xã hội hiện đại, tiến bộ, thượng tôn pháp luật. Hướng tới xây dựng bộ máy hành chính chuyên nghiệp, kỷ cương, thủ tục hành chính đơn giản, thuận tiện, đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội XII của Đảng đặt ra yêu cầu “tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo điều hành. Đổi mới kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức”(10). Để thực hiện tốt việc tinh gọn bộ máy hiệu quả, cần phải nghiên cứu, rà soát tổng thể về tổ chức, tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác. Trên cơ sở đó, sắp xếp, tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước từ Trung ương tới địa phương theo hướng tinh gọn, có lộ trình, phương pháp; thực hiện hợp nhất tổ chức, nhất thể hóa các chức danh bảo đảm bộ máy nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả, góp phần bảo đảm thành công việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay./.
---------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 3, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 564, 566
(2), (5), (6) Về phương thức lãnh đạo của Đảng, Tạp chí Xây dựng đảng, số chuyên đề tháng 12-1995, tr. 36, 37, 38
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, t. 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 93 - 94
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, t. 37, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 998 - 999
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 88 - 89
(8), (10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 201, 203
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 235 - 236

1 nhận xét: