Thứ Ba, 30 tháng 8, 2016

Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của những thành quả cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là không thể phủ định



Khẳng định vai trò của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ: “Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại” .
Thắng lợi vĩ đại của dân tộc, của nhân dân ta, của đất nước ta trong hơn tám thập kỷ qua gắn liền với vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng. Thực tế lịch sử đã chứng minh, Đảng Cộng sản Việt Nam tồn tại và hoạt động vì một mục tiêu duy nhất là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH), làm tất cả chỉ vì hạnh phúc, quyền sống, quyền tự do và làm chủ của nhân dân - Mục tiêu của cách mạng và lý tưởng của Đảng luôn thống nhất biện chứng: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nhĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
 Vậy mà, có người cho rằng, Đảng Cộng sản giành quyền lãnh đạo đất nước suốt 71 năm qua là “mảnh dư đồ rách nát”. Vậy đâu là sự thật ?
 Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Tiếp nối truyền thống lịch sử hào hùng của ông cha, suốt 85 năm qua kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nhìn lại những bước thăng trầm của lịch sử, nhân dân ta đã đúc kết, rút ra một chân lý: Thắng lợi của cách mạng Việt Nam do nhiều yếu tố tạo thành, song nhân tố chủ yếu, quan trọng và quyết định nhất chính là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là chân lý mang tầm thời đại, là sự khẳng định cả về phương diện lịch sử và lý luận. Trong thời kỳ đầu của cách mạng, chỉ với 15 tuổi đời và hơn 5000 Đảng viên, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân làm nên kỳ tích của cách mạng Tháng Tám; rồi vượt qua muôn vàn khó khăn thách thức, bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ năm 1954 để viết trọn vẹn bản anh hùng ca “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Tiếp đến là cuộc trường chinh chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm, 9 năm chiến đấu giúp bạn Campuchia, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975 giành độc lập, thống nhất đất nước và cứu cả một dân tộc thoát khỏi thảm họa diệt chủng. Việt Nam trở thành biểu tượng của lương tri thời đại, là ngọn cờ tiên phong của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước bước vào thời kỳ quá độ đi lên CNXH trong đống đổ nát của chiến tranh, nhân dân ta chưa được hưởng trọn vẹn niềm vui chiến thắng, đất nước thống nhất, Nam Bắc sum họp một nhà lại phải bước vào một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, cùng với chính sách bao vây, cấm vận tàn bạo và thâm độc của kẻ thù là hai gọng kìm nhằm tiêu diệt cách mạng nước ta. Khó khăn chồng chất khó khăn, vận mệnh của Tổ quốc ở thời khắc ấy như “ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng với bản lĩnh và trí tuệ của một Đảng mác xít - Trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc, Đảng ta một lần nữa đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, thách thức. Bằng đường lối sáng tạo, kết hợp tốt sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phát huy cao nhất mọi nguồn lực, trí tuệ và vật chất của khối đại đoàn kết toàn dân, tổ chức tốt nhiệm vụ cải tạo và phát triển nền kinh tế kết hợp với củng cố tăng cường sức mạnh quốc phòng toàn dân, đánh thắng hai cuộc chiến tranh biên giới, đưa đất nước ta ra khỏi suy thoái kinh tế. Nhờ đó, nước ta đã vượt qua giai đoạn sóng gió, khủng hoảng, giữ vững chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, từng bước phát triển kinh tế, ổn định xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại hợp tác quốc tế, tạo tiền đề gợi mở để Đảng ta nghiên cứu tìm hướng đi mới cho công cuộc xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) là một bước ngoặt lịch sử trong việc đổi mới tư duy và đường lối phát triển đất nước của Đảng. Với sự thay đổi nhận thức về cơ chế, phương thức vận hành nền kinh tế và nhận thức về vị thế của nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới, từng bước “mở cửa”, hội nhập quốc tế - một đường lối “thuận ý Đảng, trọn lòng dân”.
Trong quá trình chuyển đổi cơ chế nền kinh tế, chúng ta đã phải đối mặt với những thách thức vô cùng to lớn: mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ; các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hoà bình”, tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, tấn công phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng, nhằm gây mất ổn định chính trị, lật đổ chế độ XHCN ở nước ta. Trong bối cảnh đó, Đảng đã kịp thời phân tích, nhận định, đánh giá đúng tình hình, nắm vững những yếu tố tác động đến an ninh, quốc phòng, nhận thức rõ đối tượng, đối tác, thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc với phương châm thêm bạn, bớt thù, tôn trọng quyền tự do dân chủ của nhân dân, đi đôi với phân hoá cao độ kẻ thù, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu. Đảng đã khẳng định xây dựng đất nước phải gắn chặt với bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ; chiến thắng giặc ngoài gắn chặt với đánh bại thù trong. Đảng luôn nêu cao mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn với CNXH, giữ vững những nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Từ bài học kinh nghiệm về sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, Đảng đã tăng cường củng cố vững chắc nền tảng an ninh, quốc phòng, đảm bảo cho sự phát triển ổn định, bền vững của chế độ; đồng thời nhận thức rõ sự bền vững của chế độ không chỉ phụ thuộc vào yếu tố an ninh, quân sự mà còn có các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội; chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới, phát triển là nền tảng vững chắc của an ninh, quốc phòng; an ninh, quốc phòng vững chắc là điều kiện ổn định, phát triển đất nước về mọi mặt. Với tầm tư duy sắc bén đó, Đảng đã lãnh đạo toàn quân, toàn dân ta vượt qua mọi thách thức, đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, duy trì được sự phát triển ổn định vững chắc, phá vỡ thế bao vây cô lập của các thế lực thù địch: “Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” .
Có được thành quả cách mạng to lớn đó, trước hết là do Đảng ta luôn biết kế thừa, vận dụng sáng tạo, phát triển các luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đấu tranh giành và giữ chính quyền, bảo vệ thành quả cách mạng. V.I Lênin đã từng chỉ rõ: một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết bảo vệ. Vận dụng sáng tạo tư tưởng và nguyên lý trên, Đảng đã lãnh đạo xây dựng các lực lượng vũ trang cách mạng, tập trung chăm lo xây dựng lực lượng Công an, Quân đội ngày càng lớn mạnh; nhất quán và kiên trì quan điểm tăng cường quốc phòng, giữ vững ANQG, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thổng chính trị mà nòng cốt là lực lượng vũ trang. Mỗi khi tình hình thế giới, khu vực có những biến động phức tạp, Đảng ta đều kịp thời có các nghị quyết, chỉ thị, chiến lược quan trọng để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Trong quá trình lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, Đảng đã đề ra và luôn giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Mặc dù có lúc có nơi, Đảng cũng đã vấp phải những sai lầm, khuyết điểm nhưng với bản lĩnh của mình, Đảng đã dám nhìn thẳng vào sự thật để sửa chữa khắc phục, luôn nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, tự đổi mới để phát triển. Qua khó khăn thử thách, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện bản lĩnh chính trị kiên cường, tư duy lãnh đạo đúng đắn, linh hoạt sáng tạo, phương châm chỉ đạo kiên quyết, chiến lược kiên định, sách lược mềm dẻo, khôn khéo, nghệ thuật lãnh đạo chỉ đạo sắc sảo, sáng tạo; huy động được sức mạnh tổng hợp của dân tộc, của thời đại, của cả hệ thống chính trị vào thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo đó của Đảng chính là nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tất cả những luận chứng khoa học trên đây cùng với thực tiễn lịch sử đã khẳng định rằng: Thành quả xây dựng và bảo vệ đất nước 71 năm qua là “to lớn, có ý nghĩa lịch sử”, không thể và không bao giờ là“mảnh dư đồ rách nát” như ai đó từng hồ đồ tuyên bố.
Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của những thành quả cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là không thể phủ định được. Vì vậy, mọi mưu toan chống phá, mọi sự suy diễn chủ quan về thành tựu cách mạng nước ta đều không có giá trị.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét