Thứ Ba, 31 tháng 5, 2016

Ở VIỆT NAM NHÂN DÂN LÀ CHỦ THỂ TỐI CAO CỦA QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC




Trong những ngày gần đây, trên các trang mạng xã hội xuất hiện dầy đặc những hình ảnh đông đảo quần chúng nhân dân Việt Nam hồ hởi chào đón Tổng thống Mỹ Barack Obama nhân chuyến thăm Việt Nam của ông từ ngày 23 đến 25/5/2016. Bên cạnh những hình ảnh đó là vô số những lời bình luận theo nhiều chiều cạnh khác nhau của các tầng lớp xã hội. Đáng chú ý là một số phần tử phản động đã hồ đồ cho rằng, một dân tộc khát vọng dân chủ đón tổng thống của một nước dân chủ. Như vậy lòng dân đã rõ với ngụ ý đen tối nhằm kích động quần chúng nhân dân biểu tình chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam
Trước hết cần phải khẳng định rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là một nguyên tắc tối thượng đã được ghi nhận xuyên suốt trong các bản Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ trước đến nay. Tại Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. 
Về phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, tại Điều 6, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.
Dân chủ đại diện là phương thức thực hiện quyền lực nhà nước cơ bản và phổ biến nhất của nhân dân. Theo đó, nhân dân thông qua các cơ quan đại biểu do mình bầu ra và ủy thác quyền lực như Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; rồi đến lượt mình Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp tiếp tục lập ra các cơ quan khác của Nhà nước để thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Như vậy, hiểu một cách đầy đủ, cơ quan nhà nước được nhân dân ủy quyền không chỉ là các cơ quan dân cử như Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, mà còn bao gồm cả các cơ quan trong hệ thống hành pháp và tư pháp; các cơ quan này thay mặt nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước để điều hành, quản lý xã hội và chịu sự giám sát của nhân dân.
Biểu hiện rõ nét của hình thức dân chủ đại diện ở nước ta là việc tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Điều 69, Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” đã nhấn mạnh vai trò của nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân và do nhân dân ủy thác cho Quốc hội. Tính chất đại diện thể hiện ở sự hình thành của Quốc hội - cơ quan duy nhất ở nước ta bao gồm những người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Tính chất đại diện cao nhất của Quốc hội còn thể hiện ở chỗ Quốc hội bao gồm những đại biểu đại diện cho các thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo và các nhóm xã hội khác; đồng thời là đại diện cho khối đại đoàn kết toàn dân trong cả nước. 
Dân chủ trực tiếp là phương thức người dân trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình mà không phải thông qua cá nhân hay tổ chức đại diện. Các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp của người dân bao gồm: tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, đối thoại trực tiếp giữa nhân dân với đại diện cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân...
Về hình thức trưng cầu ý dân đã được quy định cụ thể tại Khoản 1, Điều 3, Luật Trưng cầu ý dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015: “Trưng cầu ý dân là việc Nhà nước tổ chức để cử tri cả nước trực tiếp biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước theo quy định của Luật này”. Đối với hình thức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, ngay từ năm 1998, Bộ Chính trị khóa VIII đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Thể chế hóa Chỉ thị của Bộ Chính trị, Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 và sau đó là Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003 về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường thị trấn. Đến năm 2007, trước yêu cầu về việc tăng cường thực hiện dân chủ ở cơ sở, ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã được quy định chi tiết, cụ thể ở các chỉ thị, nghị định cũng như pháp lệnh nên trên. Từ đó, quyền dân chủ của nhân dân Việt Nam đã và đang ngày càng được phát huy sâu rộng bằng phương thức trực tiếp, góp phần tạo ra sự thống nhất, đồng thuận cao trong xã hội.
Như vậy, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là hai hình thức cơ bản để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước; có mối quan hệ tác động qua lại với nhau đều có vai trò quan trọng trong nền dân chủ Việt Nam đương đại. Nếu như với hình thức dân chủ đại diện, nhân dân lập ra bộ máy nhà nước từ trung ương tới cơ sở để quản lý, điều hành xã hội một cách thường xuyên liên tục, giữ vững ổn định thể chế và phát triển đất nước thì với hình thức dân chủ trực tiếp nhân dân lại góp phần làm cho bộ máy nhà nước đó ngày càng hoàn thiện hơn bằng việc giám sát, tham gia đóng góp những ý kiến có giá trị, biểu thị thái độ với các cá nhân hay cơ quan nhà nước do mình lập nên. Việc thực hiện tốt cả hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp đã và đang là cơ sở vững chắc để xây dựng một thể chế Nhà nước Việt Nam hoàn thiện mà nhân dân là người chủ đích thực của nó.
Trên cơ sở những quy định của Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, cả hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện đang ngày càng được phát huy sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân lao động, góp phần to lớn vào việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ những thực tế hiển nhiên đó, có thể khẳng định, không có chuyện nhân dân Việt Nam mất hết quyền làm chủ Nhà nước như những luận điệu xuyên tạc của một số phần tử, thế lực phản động đã và đang tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông hiện nay./.






2 nhận xét:

  1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.”

    Trả lờiXóa