Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nội
dung mang tính chiến lược trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - vị
lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam. Bài học đại đoàn kết toàn dân tộc ngày
càng mang tính thời sự, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh đất nước
đang chuyển mình mạnh mẽ để đón nhận những cơ hội cùng thách thức lớn của quá
trình hội nhập ngày một sâu, rộng.
TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TĂNG CƯỜNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
Với tinh thần nhân văn cao cả và nhãn quan chính trị
sắc bén, suốt cả cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng xây dựng, hoàn
thiện một hệ thống quan điểm về đại đoàn kết dân tộc, tích cực truyền bá tư
tưởng đoàn kết trong toàn Đảng, các cấp chính quyền, trong các tầng lớp nhân
dân. Người nhận thức sâu sắc, đoàn kết không chỉ tạo nên sức mạnh mà còn là
vấn đề có ý nghĩa quyết định tới việc sống còn, thành bại, được mất trong cuộc
đấu tranh chống kẻ thù. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm tất cả các giai
cấp, tầng lớp, lực lượng, đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo, các cá nhân yêu
nước, người Việt Nam ở nước ngoài, kể cả những người đã lầm đường lạc lối nhưng
đã biết hối cải trở về với nhân dân. Nói cách khác, khối đại đoàn kết toàn dân
tộc bao gồm “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ”(1).
Với chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở
thống nhất lợi ích quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng;
nòng cốt khối đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh công - nông -
trí dưới sự lãnh đạo của Đảng, Người chỉ rõ, cần giải quyết hài hòa lợi ích
giữa các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, dân cư ở các vùng
miền khác nhau. Phát huy mặt tương đồng, hóa giải điểm khác biệt. Mẫu số
chung để đại đoàn kết toàn dân tộc là: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ,
tự do, giàu mạnh: “Toàn dân đoàn kết nhất trí thì chúng ta nhất định xây dựng
được nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, tự do, giàu mạnh”(2).
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Người
cho rằng, trước hết, cần tuyên truyền, vận động nhân dân. Thứ hai, phải chăm
lo xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Về Nhà nước, Đảng
phải làm cho Nhà nước thật sự là của dân, do dân, vì dân. Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội là cầu nối gắn kết Đảng, Nhà nước với nhân
dân. Coi đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc ta trong dựng nước
và giữ nước, mỗi cán bộ, đảng viên phải coi đoàn kết là một đức tính cơ bản của
người cách mạng. Ai không có khả năng tập hợp, đoàn kết quần chúng và các đồng
chí của mình thì không thể làm cách mạng, không thể làm cán bộ. Người căn dặn:
“Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất
trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(3).
Song
song với việc xây những đức tính tốt để đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, phải chống những cái xấu, những căn bệnh gây
chia rẽ, mất đoàn kết.
Phải chống bệnh
hẹp hòi. “Bệnh này rất nguy hiểm, mà nhiều cán bộ và đảng viên còn mắc
phải. Trong, thì bệnh này ngăn trở Đảng thống nhất và đoàn kết. Ngoài, thì nó
phá hoại sự đoàn kết toàn dân. Nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương, chủ
nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm
người giỏi, bệnh hủ hoá, v.v. đều do bệnh hẹp hòi mà ra!”(4). Thứ
hai, phải chống chủ nghĩa cá nhân. Do chủ nghĩa cá nhân mà cán bộ, đảng
viên sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa; tham danh trục lợi, thích địa vị
quyền hành; tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, xa rời
thực tế, quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán, chuyên quyền.
Để
thực hiện được chiến lược đại đoàn kết dân tộc, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước mới thành công, Hồ Chí Minh khẳng định, “ta phải ra sức đề phòng những
kẻ địch đó, phải chữa hết những chứng bệnh đó” và giải thích: “Mỗi chứng bệnh
là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên
ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại
từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề phòng những kẻ địch đó, phải chữa
hết những chứng bệnh đó”(5).
Hồ Chí Minh suốt đời kiên tâm thực hiện đại đoàn kết.
Bản thân Người cũng chính là hình ảnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo Bác, để
thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, thì toàn Đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng
viên cần có phong cách lãnh đạo: “Kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch
nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”(6).
Bằng
cách nào để toàn Đảng đoàn kết, nhất trí? Hồ Chí Minh chỉ ra biện pháp cơ bản
là: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê
bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống
nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”(7).
Đối
với cán bộ lãnh đạo, đảng viên, cần học và làm theo phong cách làm việc quần
chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để tập hợp, đoàn kết toàn dân. Chú ý tìm hiểu
tâm tư nguyện vọng của quần chúng, chăm lo đời sống của nhân dân. Tin vào dân,
tôn trọng dân, chú ý lắng nghe và giải quyết những kiến nghị chính đáng của
nhân dân, sẵn sàng tiếp thu ý kiến dân phê bình và kịp thời sửa chữa những
khuyết điểm, thiếu sót. Giáo dục, lãnh đạo nhân dân, đồng thời không ngừng học
hỏi kinh nghiệm của nhân dân. Biết biến quyết tâm của Đảng, Nhà nước thành
quyết tâm của nhân dân. “Phải làm đúng những điều đó mới xứng đáng là người đày
tớ trung thành của nhân dân, người cán bộ tốt của Đảng và Chính phủ”(8).
Đối với toàn thể nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu
gọi đồng bào ta ai cũng cần có phong cách thân ái, khoan hồng độ lượng, thương
yêu lẫn nhau, mới đoàn kết được toàn dân tộc.
CỦNG CỐ
VỮNG CHẮC KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC HIỆN NAY
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị
quan trọng về đại đoàn kết dân tộc, về công tác dân tộc, về tôn giáo, về người
Việt Nam ở nước ngoài, từng bước được thể chế hóa thành luật, pháp lệnh, chính
sách và ngày càng thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Nhiều cấp ủy đảng đã quan tâm hơn đến sự nghiệp đại đoàn kết, đến công tác dân
vận và công tác mặt trận, củng cố tổ chức và tăng cường cán bộ, phương tiện và
điều kiện cho công tác mặt trận. Chính quyền ở nhiều cấp, nhiều địa phương đã
thật sự có chuyển biến trong nhận thức và hành động về quan hệ với nhân dân.
Nhiều dự án về phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của Nhà nước được ban hành
nhằm chăm lo đời sống cho nhân dân đã thực hiện có kết quả. Quyền làm chủ của
nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội được thể chế
hóa, đã từng bước được phát huy. Sự đổi mới hệ thống chính trị, việc tăng cường
dân chủ hóa đời sống xã hội, nhất là việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở đã góp phần quan trọng vào việc động viên nhân dân và cán bộ hăng hái
tham gia các sinh hoạt chính trị của đất nước, đẩy mạnh sản xuất, thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng. Đó
là những nhân tố rất quan trọng, là động lực chủ yếu bảo đảm sự ổn định chính
trị - xã hội và thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Cùng với những tiến bộ và chuyển biến nêu trên, nhiều
vấn đề mới đã và đang nảy sinh trong quá trình đổi mới, đó là xã hội, giai cấp,
tầng lớp, nhóm dân cư đang trong quá trình phân hóa. Xuất hiện sự chênh lệch
ngày càng lớn về mức thu nhập và hưởng thụ giữa các vùng, miền, giữa thành thị
và nông thôn, giữa công nhân lao động ở các khu công nghiệp với những người lao
động có chuyên môn, tay nghề trong các lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao, giữa
người đương chức và người về hưu… Sự phân hóa giàu nghèo có chiều hướng gia
tăng đã và đang ảnh hưởng lớn đến đại đoàn kết dân tộc. Những đặc điểm nêu trên
đã tác động mạnh mẽ đến khối đại đoàn kết. Vì vậy, tuy đại đoàn kết toàn dân tộc
tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường, song chưa thật vững chắc và đang
đứng trước những thách thức không thể xem thường. Các thế lực thù địch trong và
ngoài nước đã và đang khai thác những thiếu sót, yếu kém của ta hòng phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Để đại
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng thật sự là nguồn sức
mạnh, là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng
lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần làm cho cả hệ thống
chính trị, từng cán bộ, đảng viên, trước hết là các cấp ủy đảng và người đứng
đầu cấp ủy quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và
mặt trận dân tộc đề xướng. Phải nắm vững những quan điểm cơ bản và cũng là
những định hướng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện
nay. Đó là lợi ích cơ bản của nhân dân, của dân tộc ta ngày nay là độc lập, tự
do và cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong chủ nghĩa xã hội. Lợi ích đó thể hiện cụ
thể hằng ngày trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng. Củng cố tăng cường đoàn kết hiện nay không thể chung chung mà phải
gắn chặt với việc bảo đảm các lợi ích đó. Một trong những động lực thúc đẩy
nhân dân tăng cường đoàn kết trong tình hình hiện nay là quyền làm chủ đất nước
của nhân dân cần được tôn trọng. Pháp luật phải bảo đảm để nhân dân thật sự là
người chủ, thật sự làm chủ như Hiến pháp đã quy định.
Thắt
chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân không chỉ là trách nhiệm của
Đảng và Nhà nước mà còn là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị xã hội và của toàn dân. Do đó, qua hoạt động của mình, Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội cần không ngừng đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động để góp phần làm cho mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn
luôn bền chặt, ý Đảng và lòng dân là một. Trong giai đoạn hiện nay, các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có tác dụng trực tiếp và
quyết định đến kết quả xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát và
phản biện xã hội, để các chủ trương, chính sách sát cuộc sống, đáp ứng lợi ích
của nhân dân.
Kiên
trì thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”,
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cần tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, nhân
nghĩa, khoan dung, cùng nhau hợp sức xây dựng cho được một xã hội đồng thuận
cao trên tinh thần cởi mở, độ lượng, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định, phát triển
toàn diện và bền vững của đất nước.
Có thể
khẳng định, bài học đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng trở nên sống động và
mang tính thời sự, ý nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh đất nước đang
chuyển mình mạnh mẽ để đón nhận những cơ hội cùng thách thức lớn của quá trình
hội nhập ngày một sâu, rộng. Để tăng cường củng cố, phát triển khối đại đoàn
kết toàn dân tộc hiện nay, cần thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể như
sau:
Thứ
nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng,
người đứng đầu và cả hệ thống chính trị trong lãnh đạo, củng cố, phát triển
khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay.
Các cấp
ủy đảng và người đứng đầu thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân
dân, lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân. Cần thực hiện triệt để Quy định số
101-QĐ/TW của Ban Bí thư khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ,
đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 08-QĐi/TW
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư,
Ủy viên Ban chấp hành Trung ương”. Cán bộ, đảng viên phải xung phong, gương
mẫu học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là về
đoàn kết và xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh để nhân dân
học và làm theo.
Thứ
hai, nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong
trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; chăm lo và bảo vệ
lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và các giai tầng, các giới
trong toàn dân tộc.
Thứ ba, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đa dạng hóa các hình
thức tập hợp nhân dân và tập trung hướng mạnh các hoạt động về cơ sở.
Thứ tư, tăng
cường công tác dân vận của chính quyền các cấp. Tích cực phối hợp giữa chính
quyền các cấp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
làm công tác dân vận.
Thứ năm, kiên
quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại, chia rẽ khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện tốt các giải pháp trên sẽ góp phần tăng
cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh, đảm bảo thế và lực cho đất nước trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.