Thứ Ba, 20 tháng 3, 2018

KHÔNG ĐỂ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ ĐẢNG, CHỐNG PHÁ CHẾ ĐỘ TRONG CÔNG CUỘC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG CỦA ĐẢNG


Thời gian qua, lợi dụng vụ việc Ông Đinh La Thăng nguyên ủy viên bộ chính trị, nguyên chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - PVN bị truy tố và đưa ra xét xử về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và đồng phạm của ông là Trịnh Xuân Thanh nguyên Chủ tịch HĐQT, TGĐ Tổng công ty Cổ phần xây lắp Dầu khí Việt Nam PVC, cùng 20 đồng phạm khác cũng bị truy tố và đưa ra xét xử tội danh cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Các thế lực thù địch đã lợi dụng vấn đề này để đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” với cấp độ ngày càng quyết liệt. Mặc dù Tòa đã tuyên án song chúng vẫn tập trung triệt để việc sử dụng các phương tiện truyền thông, đặc biệt là Internet, sử dụng các trang mạng xã hội, các blog truyền bá các quan điểm sai trái, tung tin xuyên tạc đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vu cáo, bịa đặt, xuyên tạc lêch lạc tính chất vụ việc, đồng thời còn cho rằng có sự thanh trừng, đấu đá quyền lực lẫn nhau trong nội bộ Đảng ta, nhằm mục đích chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước...
Hiện nay, Đảng ta đang chủ trương tăng cường đẩy mạnh công cuộc phòng, chống tham nhũng, đưa công tác phòng chống tham nhũng đi vào chiều sâu, quyết tâm làm trong sạch bộ máy của Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Đặc biệt, những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta đã có nhiều khởi sắc, bước đầu đã thu được những kết quả rất quan trọng.
Tuy nhiên gần đây, khi công tác phòng chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta chuyển biến theo chiều hướng ngày càng hiệu quả hơn thì các thế lực thù địch, chống phá Đảng và chế độ lại đưa ra mọi luận điệu để xuyên tạc, chống phá ngày càng quyết liệt hơn. Vậy nên, Cán bộ, đảng viên cũng như quần chúng nhân dân cần phải hết sức cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn của chúng, kiên quyết không để chúng lợi dụng công cuộc phòng chống tham nhũng để chống phá Đảng, chống phá chế độ ở nước ta.
Trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán chủ trương huy động và phát huy vai trò, sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị để cùng tham gia phòng, chống tham nhũng, xem đây là một trong các giải pháp hữu hiệu để đưa công tác phòng chống tham nhũng đi vào chiều sâu và đem lại hiệu quả thiết thực.
    Trong vụ án Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm, với mức độ tính chất nghiêm trọng đã gây ra những thiệt hại to lớn cho nhà nước về kinh tế , các bị cáo đã bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Từ khi bị khởi tố bắt giam và đưa các bị cáo ra xét xử tuyên án các cơ quan công quyền đều thực hiện đúng quy trình, quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành, việc xét xử mang tính công khai, dân chủ, khách quan. Thế nhưng các thế lực thù địch lại cho rằng việc xét xử vụ án là thiếu khách quan, còn nhiều thiếu sót bỏ lọt tội phạm, chúng khẳng định những bị cáo đưa ra xét xử chỉ là tốt thí còn những chủ chốt của vụ việc đang ẩn trong bong tối….. bên cạnh đó lợi dụng vụ việc, chúng còn rêu rao những luận điểm như chống tham nhũng thực chất là cuộc đấu tranh giữa các phe phái khác nhau, các nhóm lợi ích khác nhau, cụ thể là giữa các nhà tư tưởng và nhà kỹ trị trong lãnh đạo đảng và lãnh đạo nhà nước… Song với quan điểm rõ ràng không để bất cứ vụ án nào “chìm xuồng”, không có vùng cấm với cá nhân và tổ chức sai phạm dù đó là ai, có tội thì phải chịu sự trừng phạt của pháp luật. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, kể cả công dân đó từng giữ những vị trí, trọng trách rất cao trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định “không có vùng cấm trong xử lý tham nhũng”, “lò đã nóng thì không ai đứng ngoài cuộc được”. Đó là những gì mà người dân có thể thấy thông qua các vụ án mà chúng ta đã và đang xét xử. Thế nên các thế lực thù địch phải thấy rằng dù chúng có tuyên truyền những luận điệu xuyên tạc đến cấp độ nào thì sau vụ án này, nhất là những mức án được tuyên đã vừa thể hiện tính nghiêm minh nhưng cũng đồng thời thể hiện được sự khoan hồng của pháp luật củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta phải cùng với toàn Đảng và toàn dân tích cực tham gia phòng chống tham nhũng, thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên góp phần làm trong sạch bộ máy của Đảng, Nhà nước. Đồng thời không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá Đảng, chống phá chế độ mà chúng ta đã và đang dày công xây dựng.


NGHE BIỂN GỌI THÁNG 3


Tôi đang nghe Tổ quốc gọi tên mình bằng tiếng sóng Hoàng Sa, Trường Sa dội vào ghềnh đá”. Có thể nói, từ bao đời nay biển đảo quê hương luôn là một phần máu thịt không thể tách rời trong tim mỗi người dân đất Việt. Biển đảo chính là một món quà vô giá mà thiên nhiên ưu đãi, lịch sử hào hùng trao tặng chúng ta. Chính trên vùng mênh mông đại dương bao la, nơi cột mốc chủ quyền sừng sững như chứng nhân của lịch sử đầy “máu và hoa” , luôn có những con người vẫn ngày đêm canh giữ cho quê hương giấc ngủ yên bình. Chính tại nơi đầu sóng ngọn gió luôn có lá cờ Tổ quốc tung bay đó là nơi những trái tim đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ, của đông đảo các thế hệ Việt Nam hướng về với lòng thành kính, yêu thương và biết ơn vô hạn. Vì một lý do rất đơn giản: Đây là quê hương chúng ta.
Thế hệ trẻ chúng tôi được may mắn sinh ra trên đất nước bình yên, sạch bóng quân thù, được tự hào về những trang sử vàng quá khứ hào hùng, bi tráng, được hưởng một niềm ưu ái “Thưở còn thơ ngày hai buổi đến trường/ Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ” (Đỗ Trung Quân). Chúng tôi được lắng nghe lời non sông vọng về qua những trang sách: “Lãnh thổ Việt Nam là một khối thống nhất và toàn vẹn bao gồm vùng đất, vùng biển và vùng trời. Nước ta có đường bờ biển dài 3260 km, cong hình chữ S, chạy từ thị xã Móng Cái (Quảng Ninh) ở phía Bắc đến thị xã Hà Tiên (Kiên Giang) ở phía Tây Nam… Nước ta có hơn 4000 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn là các đảo ven bờ và có hai quần đảo ở ngoài khơi xa trên biển Đông là quần đảo Hoàng Sa (thuộc thành phố Đà Nẵng) và quần đảo Trường Sa (thuộc tỉnh Khánh Hòa). Theo quan niệm mới về chủ quyền quốc gia thì vùng biển Việt Nam có diện tích khoảng 1 triệu km2 ở biển Đông. Biển Đông đối với nước ta là một hướng chiến lược quan trọng trong công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế và bảo vệ đất nước. Các đảo và quần đảo tạo thành hệ thống tiền tiêu bảo vệ đất liền, hệ thống căn cứ để nước ta tiến ra biển và đại dương trong thời đại mới, khai thác có hiệu quả các nguồn lợi vùng biển, hải đảo, thềm lục địa. Việc khẳng định chủ quyền của nước ta đối với các đảo và quần đảo có ý nghĩa là cơ sở để khẳng định chủ quyền của nước ta với vùng biển và thềm lục địa quanh đảo”.
Qua các bài học lịch sử, địa lí hàng ngày, ý thức về độc lập, chủ quyền và tự hào dân tộc lớn dần lên trong mỗi học sinh. Biển đảo là một phần máu thịt của Tổ quốc, vì vậy có muôn vàn trái tim ngày đêm hướng về biển đảo, dành tình yêu cho những người lính biển cùng các chiến sĩ, các lực lượng ngày đêm bảo vệ chủ quyền biển đảo nước nhà. Người dân Việt Nam đều hướng về biển bằng một tình yêu chung thủy. Đó là niềm tự hào, say mê trước vẻ đẹp của những bãi cát dài, làn sóng biếc, vịnh đảo nên thơ. Biển đẹp dịu dàng như từng lớp sóng âm thầm xô bờ đến khi sóng bào mòn đá lúc nào không hay. Chúng tôi cảm ơn thiên nhiên ưu ái đã ban tặng nơi đây một nét diễm lệ, giàu có về tài nguyên thiên nhiên. Ngư trường rộng lớn, nguồn nhiên liệu dưới lòng biển nhiều, phong cảnh đẹp, con người hòa đồng,… đem đến cho ta nguồn lợi rất lớn. Di tích lịch sử Nhà tù Côn Đảo đang ngày đêm đón những lượt tàu ra biển để hồi tưởng lại một thời huy hoàng cũng chính là một thắng cảnh đẹp của biển đảo quê hương. Đặc sản tỏi Lý Sơn- thứ quà quí kết tinh tinh hoa đất trời và sự cần cù, chịu khó của con người lao động đang dần vượt ngàn hải lý, xuất khẩu tới những đất nước xa xôi, khẳng định thương hiệu hàng Việt trên trường quốc tế. Hơn hết, “Trường Sa-Hoàng Sa là của Việt Nam”- là dáng hình xứ sở. Những người dân bám đất, bám đảo, chống chọi với cuộc sống khắc nghiệt, thiếu thốn lắm nhưng hạnh phúc nhiều với suy nghĩ:’’Đảo là nhà, biển cả là quê hương”. Tôi cảm phục trước những bức tượng đài sống của những người chiến sĩ hải quân, đầu đội mũ, tay vác súng đứng canh giữ biển. Giữ đảo chính là đang bảo vệ quê hương mình. Mang trên vai trọng trách bảo vệ quê hương đất nước chính là niềm tự hào của các chiến sĩ hải quân. .
Bác Hồ đã từng căn dặn : “Ngày xưa ta có đêm, có rừng. Ngày nay ta có ngày,có trời, có biển. Bờ biển nước ta dài, tươi đẹp.Ta phải biết giữ gìn và phát huy nó”. Mỗi người thể hiện tình yêu nước, yêu biển - đảo khác nhau nhưng với tất cả đều thể hiện tình cảm mãnh liệt ấy bằng nhiệt huyết của trái tim và lòng nhân ái. Hãy yêu nước bằng một trái tim nóng, cái đầu lạnh và những hành động thực tiễn góp phần bảo vệ biển đảo như: Học tập nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt, hiểu biết sâu sắc về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc để tìm ra phương thức bảo vệ chủ quyền một cách hữu hiệu; Xây dựng, củng cố lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập tự cường, nâng cao ý thức bảo vệ tổ quốc; Tích cực học tập kiến thức quốc phòng, an ninh, sẵn sàng nhận và hoàn thành các nhiệm vụ quốc phòng; Tích cực tham gia các phong trào của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, phong trào mùa hè xanh, phong trào thanh niên tình nguyện hướng đến vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo.


Nhận diện một số hội, nhóm, tổ chức phản động có hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam


Tổ chức phản động là tập hợp nhóm người có tư tưởng phản động, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chúng dùng nhiều hình thức, trong đó có mạng xã hội để tuyên truyền, công kích, lôi kéo người dân tham gia, các hội, nhóm trá hình.
Các tổ chức phản động thường dùng luận điệu “phản biện xã hội”, đấu tranh vì “dân chủ”, “nhân quyền”, xây dựng “xã hội dân sự”, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ …để tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; kích động tư tưởng, thái độ thù địch.
Nổi bật có những hội, nhóm, tổ chức sau:
1. Việt Tân:
Tổ chức “Việt Tân” có tên đầy đủ là “Việt Nam canh tân cách mạng đảng”. Trụ sở chính đặt tại: 2530 Berryessa Rd #234 San Jose CA 95132 - 2903, Mỹ; “Văn phòng 2” tại Băng Cốc, Thái Lan. Cơ quan tuyên truyền: báo “Kháng chiến”; đài “Việt Nam kháng chiến”, “Chân trời mới”. Đối tượng cầm đầu, chỉ huy: (1) Đỗ Hoàng Điềm, sinh 1963, quốc tịch Mỹ, “Chủ tịch Việt tân”; (2) Lý Thái Hùng, sinh 1953, quốc tịch Mỹ, “Tổng bí thư Việt Tân”…
Quá trình hình thành: Năm 1981, Hoàng Cơ Minh, nguyên chuẩn tướng, Phó Đô đốc hải quân chính quyền Sài Gòn cũ thành lập “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam” (sau đây gọi tắt là “Mặt trận”) nhằm chống Việt Nam bằng các hoạt động vũ trang, khủng bố.
Năm 1982, Hoàng Cơ Minh lập “Việt Nam canh tân cách mạng đảng”, là cơ quan đầu não, chỉ huy mọi hoạt động của “Mặt trận”; các thành viên “Mặt trận” đồng thời cũng là thành viên của “Việt Tân”.
Các tổ chức phản động thường dùng mạng xã hội để kích động lôi kéo người dân tham gia, các hội, nhóm trá hình.
Sau khi thành lập, “Việt Tân” đã tổ chức tuyển mộ, huấn luyện cho thành viên cách thức sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tiến hành các hoạt động khủng bố, phá hoại, bắt cóc, thủ tiêu con tin…; tiến hành các chiến dịch “Đông tiến 1”, “Đông tiến 2”, “Đông tiến 3”, đưa các toán vũ trang với 246 đối tượng từ Thái Lan xâm nhập qua Lào, Campuchia về Việt Nam để lập “mật cứ”, tiến hành hoạt động bạo loạn, khủng bố nhưng đã bị các cơ quan chức năng của Việt Nam, Lào ngăn chặn, vô hiệu hóa.
Ở nước ngoài, “Việt Tân” thành lập “Đội sát thủ K9” do các thành viên cốt cán cầm đầu, chuyên tiến hành khủng bố, thủ tiêu những nhà báo gốc Việt đưa tin vạch mặt hoạt động lừa đảo kiều bào của Hoàng Cơ Minh và đồng bọn; trong đó, có ông Dương Trọng Lâm, chủ bút báo “Cái đình làng” tại San Fransisco và ông Nguyễn Đạm Phong, người sáng lập báo “Tự do” tại Houston.
Hiện nay, “Việt Tân” tiếp tục tuyển mộ, huấn luyện, chỉ đạo thành viên xâm nhập về Việt Nam kích động biểu tình, phá rối an ninh, bạo loạn, thủ tiêu, bắt cóc con tin; đưa người ra nước ngoài đào tạo, huấn luyện, tổ chức các khóa đào tạo trực tuyến về phương thức, hoạt động khủng bố, phá hoại; tán phát lên mạng Internet hướng dẫn cách chế tạo bom xăng để phục vụ hoạt động khủng bố, phá hoại, ám sát… Cơ quan chức năng Việt Nam đã bắt, xử lý một số đối tượng là thành viên “Việt Tân” phạm tội khủng bố như Nguyễn Quốc Quân, Nguyễn Thị Thanh Vân, Trương Leon…
“Việt Tân” là tổ chức khủng bố, do đó, người nào có hành vi tham gia, tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục người khác tham gia, tài trợ, nhận tài trợ của “Việt Tân”; tham gia các khóa đào tạo, huấn luyện do “Việt Tân” tổ chức; hoạt động theo sự chỉ đạo của “Việt Tân”… sẽ đồng phạm tội khủng bố, tài trợ khủng bố và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Khối 8406:
Khối 8406 là tên gọi của một tổ chức chính trị, kêu gọi dân chủ đa nguyên tại Việt Nam. Tên "Khối 8406" xuất phát từ tuyên ngôn công bố ngày 8 tháng 4 năm 2006 của nhóm. Là một tổ chức được thành lập nhằm chống phá Nhà nước ta.
3. Quỹ người Thượng (Montagnard Foundation Inc. - MFI)
Quỹ người Thượng (tên tiếng Anh: Montagnard Foundation, Inc.), còn gọi là Sáng Hội Người Thượng hoặc Tổ chức Người Thượng, là một tổ chức với mục tiêu chống Cộng và bảo vệ cuộc sống và văn hóa người Thượng ở Tây Nguyên, Việt Nam thông qua các biện pháp hòa bình. Đây là một tổ chức phi lợi nhuận được lập năm 1990 có trụ sở ở Nam Carolina (Hoa Kỳ) và do Ksor Kok, một người dân tộc Jarai làm chủ tịch. Đây là một là một tổ chức phản động chống phá Nhà nước Việt Nam, chia rẽ đoàn kết dân tộc, lấy cái gọi là thành lập “nhà nước Đề Ga” gây nên các cuộc bạo loạn vào tháng 2 năm 2001 và tháng 4 năm 2004 tại Tây Nguyên.
4. Ủy ban Cứu người vượt biển:
Ủy ban Cứu Người vượt biển hay Ủy ban Cứu trợ Thuyền nhân tên chính thức tiếng Anh là Boat People SOS (viết tắt là BPSOS) là một tổ chức hoạt động dưới vỏ bọc phi chính phủ và phi lợi nhuận của những người Mỹ gốc Việt có lĩnh vực hoạt động về dân sự và chính trị được thành lập vào năm 1980. Ủy ban Cứu Người vượt biển hiện có trụ sở chính tại Falls Church, Virginia và do Nguyễn Đình Thắng làm chủ tịch kiêm giám đốc điều hành. Tổ chức này là một trong bốn thành viên của Liên minh Bài trừ Nô lệ mới ở Châu Á (CAMSA). Là một tổ chức có hoạt động chống Đảng, Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền.
Ngoài ra, còn một số tổ chức chính trị khác công khai chống phá Đảng, Nhà nước ta như: Liên minh Bài trừ nô lệ mới ở châu Á - Mỹ (CAMSA); Ủy ban bảo vệ người lao động Việt Nam (Vacsava, Ba Lan); Văn phòng Trợ giúp công nhân Việt Nam (Tanagatina) ở Penang; Đảng Cấp tiến Xuyên quốc gia (Transnational Radical Party- TRP); Tổ chức Liên minh Việt Nam Tự do (FVA); Tổ chức Bạch Đằng Giang; Tổ chức Việt Nam Tự do; Đảng Vì Dân; Đảng Dân Tộc; Hội đồng công luật công án Bia Sơn (tiền thân là tổ chức Ân đàn đại đạo)…
Thực chất, các tổ chức chính trị trên được thành lập, hoạt động đều dựa trên cơ sở sự hậu thuẫn, giúp sức cả về vật chất, tinh thần của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam. Đấu tranh với thế lực thù địch, phản động và tay sai của chúng là cả một quá trình lâu dài, phức tạp, khó khăn đòi hỏi sự tham gia của toàn xã hội, dựa trên các hình thức, phương pháp đấu tranh khác nhau. Trong đó, nhận diện, vạch trần các tổ chức phản cách mạng đối lập với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta có vai trò rất quan trọng giúp quần chúng nhân dân hiểu, từ đó chung sức vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạcNghị quyết Trung ương 4 của Đảng


Trong khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiến hành quán triệt và thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) thì các thế lực thù địch, những kẻ cơ hội chính trị tự xưng là “nhà hoạt động xã hội”, là đảng viên “trung thành”, “đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền”, tự cho mình cái quyền tung lên các trang mạng xã hội những quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng; họ phát tán những tài liệu, bài viết có nội dung tuyên truyền, nói xấu chế độ, với những luận điệu xuyên tạc cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; phản đối chủ trương, đường lối của Đảng, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội.
Họ cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là trở ngại duy nhất cho dân tộc và nền dân chủ chân chính của nhân dân”... Đáng chú ý là những “ý kiến”, “bình luận” cho rằng: “Tất cả những chuyện về suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống,.., về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hay điều gì đó, thì chỉ nhằm “lợi ích nhóm”,...; và rằng Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) là biểu hiện của sự “bế tắc” giải pháp cho các vấn đề xã hội,...
Như vậy, có thể khẳng định, tất cả những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, cơ hội đều xuyên tạc, bóp méo sự thật về Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII); nhằm chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước, mối quan hệ giữa Đảng ta với nhân dân.Và mục tiêu cuối cùng của họ là thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, họ đòi “đa nguyên, đa đảng đối lập”; họ muốn Đảng Cộng sản Việt Nam thôi giữ vai trò lãnh đạo đối với giai cấp, dân tộc và xã hội Việt Nam, họ đòi “đổi mới thể chế chính trị” ở Việt Nam, đòi nhường quyền lãnh đạo dân tộc và xã hội cho một “lực lượng chính trị mới”...
Lịch sử đã minh chứng, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được nhân dân ta, dân tộc ta hết lòng ủng hộ, một lòng tin theo Đảng.Trong suốt tiến trình cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, hàng vạn đảng viên cộng sản đã hy sinh trong ngục tù của thực dân, đế quốc, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; kiên quyết một lòng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, trong khi các đảng phái của các giai cấp khác, các lực lượng chính trị khác đều tự tan rã, hoặc không được nhân dân ủng hộ, không thực hiện được mục tiêu chính trị mà họ đề ra.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “nguy cơ “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ nạn quan liêu, tham những, lãng phí”,... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi.
Trong những căn bệnh suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ là căn bệnh nguy hiểm hàng đầu, là căn nguyên gây ra nhiều căn bệnh khác. Thực tiễn cũng cho thấy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng gặp không ít khó khăn, trở ngại, có lúc do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, hành động chưa đúng quy luật khách quan, dẫn đến sai lầm, khuyết điểm.
Điều quan trọng là ở chỗ, mỗi khi phạm phải sai lầm, khuyết điểm, Đảng không bảo thủ, bàng quan; trái lại, đều kiên quyết sửa chữa, thể hiện tinh thần cầu thị, trách nhiệm chính trị trước nhân dân, dân tộc. Nhưng, trớ trêu là một số kẻ thù địch, cơ hội chính trị lại không thấy hoặc cố tình làm ngơ điều đó; hơn thế, họ còn thổi phồng những khuyết điểm, sai lầm đó và quy kết Đảng ta không đủ năng lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội trong điều kiện mới của đất nước.
Chúng ta cần cảnh giác vạch trần và đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng. Đảng không né tránh và phủ nhận hiện nay, vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ảnh hưởng đến uy tín, niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) về: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra: “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” và đề ra hệ thống các giải pháp cấp bách để tiếp tục xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình trong Đảng đã tạo sự chuyển biến bước đầu, có tác dụng cảnh báo, răn đe và phòng ngừa những hành vi tham nhũng, tiêu cực, góp phần ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Vì vậy, không thể vin vào những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém hiện nay để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; cũng không thể đồng nhất toàn bộ Đảng Cộng sản với một số cán bộ, đảng viên tham nhũng, thoái hóa, biến chất, quy chụp mọi khuyết điểm, sai lầm, tiêu cực trong xã hội về cho Đảng. Làm như vậy là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, là phủ nhận lịch sử, phủ nhận lòng tin của nhân dân, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc.
Cho dù các thế lực thù địch, các “nhà hoạt động xã hội”, những người cơ hội chính trị hoặc những kẻ nhân danh “người yêu nước” có dùng âm mưu thủ đoạn thâm độc đến đâu cũng không thể che đậy được dã tâm của họ nhằm bôi nhọ, xuyên tạc, bóp méo sự thật về Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng.

Như đông đảo cán bộ, nhân dân ta xác định, mặc dù xã hội ta vẫn còn những vấn đề phải giải quyết, thậm chí có cả những vấn đề bức xúc, nhưng không có lực lượng chính trị nào có đủ lương tâm, trí tuệ và sức mạnh hơn Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, hoàn thiện chế độ xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Lợi dụng dân chủ, nhân quyền - hai mũi tấn công nguy hiểm


Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam, dân chủ, nhân quyền luôn là hai vấn đề chiến lược được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự xã hội, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.Sử dụng hai chiêu bài này, các thế lực thù địch tiến hành rất nhiều thủ đoạn nguy hiểm:
Trước hết, họ vu cáo, xuyên tạc, bóp méo tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, cổ súy cho dân chủ tư sản. Họ cho rằng, chế độ xã hội ở Việt Nam là độc tài, toàn trị. Họ lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót của ta trong quản lý, điều hành đất nước hoặc những vấn đề bức xúc trong xã hội để lôi kéo, kích động nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh chính trị, trật tự xã hội. Xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền cơ bản của con người, đàn áp “những người bất đồng chính kiến”,… Họ đặc biệt đẩy mạnh các chiến dịch phá hoại tư tưởng khi nước ta diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng hay khi Việt Nam tham gia các hội nghị quan trọng của Liên hợp quốc hòng hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.
Họ dùng dân chủ, nhân quyền làm điều kiện để gây sức ép, can thiệp vào nội bộ nước ta. Họ tìm cách gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với các điều kiện về dân chủ, nhân quyền trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam; đòi nước ta phải chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Lợi dụng việc chính quyền đấu tranh, xử lý số đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị vi phạm pháp luật, tạo cớ, vu cáo chính quyền vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp người “bất đồng chính kiến” và kêu gọi sự can thiệp của cộng đồng quốc tế.
Họ dùng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để thúc đẩy, hình thành hội, nhóm, tổ chức chính trị đối lập với Nhà nước. Họ còn vận động các tổ chức quốc tế trao “giải thưởng nhân quyền” cho các đối tượng bất đồng chính kiến, hay những đối tượng vi phạm pháp luật bị ta bắt, xử lý ở trong nước… nhằm cổ súy, khích lệ số đối tượng trong nước hoạt động quyết liệt, tích cực hơn.
Các thế lực thù địch triệt để tác động Quốc hội Mỹ, EU và các nước phương Tây thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo thường niên... với nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo nhằm làm cho cộng đồng quốc tế hiểu không đúng về ta,…
Trong những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; việc lợi dụng dân chủ, nhân quyền vẫn là chiêu bài được các thế lực bên ngoài triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định, can thiệp sâu vào nội bộ của ta. Để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động này, thời gian tới, cần thực hiện tốt những vấn đề sau:
Một là, công tác phòng, chống hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội nước ta luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng; sự quản lý, điều hành của Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo chống phá Việt Nam từ cấp cơ sở.
Hai là, tiếp tục tham mưu cho Đảng, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện các chính sách, văn bản pháp luật nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người đi đôi với việc kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền dân chủ của nhân dân trên cơ sở pháp luật. Tăng cường công tác quản lý báo chí, xuất bản; kiểm soát chặt chẽ an ninh thông tin, quản lý internet, tích cực đấu tranh ngăn chặn việc tán phát tài liệu, tin tức xuyên tạc, thù địch về dân chủ, nhân quyền ở nước ta.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại; tận dụng thế mạnh của các kênh ngoại giao, đối thoại, hợp tác làm cho cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, chủ động triển khai nắm tình hình, dự báo kịp thời mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch để triển khai những biện pháp phòng ngừa, đấu tranh. Kịp thời phát hiện, phối hợp giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn, khiếu kiện, “điểm nóng” ngay từ cơ sở, không để kéo dài, không lây lan, vượt cấp.

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo,… kết hợp với thực hiện công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh bảo đảm ổn định an ninh chính trị, trật tự xã hội. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế và các khuyến nghị về nhân quyền mà Việt Nam đã chấp thuận.

THÁNG 3 – THÁNG CỦA SỨC TRẺ VÀ NIỀM TIN!

                                        
          Nói đến thanh niên là nói đến nhiệt huyết sức trẻ. Sức trẻ của đoàn viên, thanh niên thể hiện ở sự trẻ trung, năng động và kiến thức mới mẻ, giỏi ngoại ngữ và công nghệ thông tin dù là bạn trẻ sống ở nông thôn vì chúng ta đang sống trong thời đại công nghệ 4.0.
          Sức trẻ của thanh niên đã đi vào thực tiễn đời sống bằng những hình ảnh đẹp; những hành động, việc làm đẹp. Thông qua những hoạt động “Mùa hè xanh”, “Tiếp sức mùa thi”, “Thanh niên làm kinh tế giỏi”… Màu xanh của chiếc áo tình nguyện đã in dấu trên những cánh đồng nắng như đổ lửa cùng bà con nhân dân cứu lúa trước khi lũ về ở miền Trung, màu xanh làm mát mùa thi nóng bỏng trên khắp các bến xe, ngõ nhỏ để đưa thí sinh đến nhà trọ, để đón thí sinh đến trường thi; màu xanh tình nguyện phủ trên những nương đồi ở khắp bản làng, nơi địa đầu Tổ quốc - nơi có bản làng của người Thái, Mông, Dao… sinh sống tự ngàn đời, đưa những kiến thức mới, những nếp sống mới đến từng ngôi nhà sàn. Có bàn tay của những tình nguyện viên, vùng biên cương lại hân hoan đón chào những khởi sắc mới; Mùa xanh tình nguyện làm bừng lên sức sống nơi bệnh viện với những giọt máu hồng tươi hiến dâng cho đời, cho người… Đó là những gương mặt đẫm mồ hôi, những làn da sạm đi vì nắng, gió khắc nghiệt… nhưng lúc nào cũng tươi tắn nụ cười, và tinh thần hừng hực sức sống.  
          Không chỉ phát triển ngày càng rộng về nội dung, quy mô, địa bàn, lực lượng, phong trào Thanh niên tình nguyện ngày càng phát triển về chiều sâu, với hiệu quả ngày càng cao trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế - xã hội. Thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện không chỉ đóng góp bằng sắc lực cơ bắp, sử dụng các nguồn lực tài chính để tạo ra các sản phẩm tình nguyện đơn thuần, mà ngày càng phát huy và tận dụng mạnh mẽ kiến thức khoa học, trí tuệ, sự sáng tạo, nghiệp vụ chuyên môn của người tham gia hoạt động tình nguyện, góp phần tạo nên hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
          Với tất cả sức trẻ, trí tuệ và lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, bao học sinh, sinh viên Việt Nam đã mang tất cả những kiến thức, những kinh nghiệm đã tích lũy được trong cuộc sống để cùng chia sẻ, cùng góp sức vì sự phát triển của cộng đồng. Mỗi hoạt động, mỗi việc làm dù chỉ là rất nhỏ, nhưng đều thể hiện tình cảm, trách nhiệm, là quan điểm sống của thanh niên hôm nay: dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đây cũng là môi trường rèn rũa, hoàn thiện nhân cách cho thanh niên. Sau mỗi chuyến đi đầy ý nghĩa là những trải nghiệm sâu sắc về cuộc sống. Những con người trẻ đã trưởng thành hơn rất nhiều; biết yêu thương; biết đoàn kết sẻ chia cùng nhau vượt qua khó khăn; biết trân trọng cuộc sống, hình thành và xây dựng lối sống đẹp, sống có ích trong thanh niên. Hoặc có khi chỉ là những điều đơn giản nhất đang tồn tại trong thanh niên. Hoặc có khi chỉ là những điều đơn giản nhất đang tồn tại bên mình, để biết sẻ chia hơi ấm trong cơn gió lạnh. Đó chính là những hành trang quý giá nhất cho mỗi người.
          Tuổi trẻ không chỉ đáng yêu ở sức trẻ, mà còn đáng yêu ở vẻ đẹp thuần khiết, tinh khôi, ở những ước vọng hãy còn nguyên vẹn, ở niềm say mê với hừng hực nhiệt huyết… Cuộc sống đẹp biết bao khi chúng ta mang sức trẻ với tinh thần nhiệt huyết để cống hiến, để góp sức vì cộng đồng. Hành trình sống đẹp, sống có ích của thanh niên, của sức trẻ Việt Nam sẽ không bao giờ dừng lại, bởi nó là hành trình bất tận trong mỗi trái tim rần rật bầu máu nóng. Hãy sống những ngày đẹp nhất, bằng những công việc bình thường nhưng có ích cho đời!
          Chúng ta tin ở tương lai, bởi niềm tin từ thế hệ trẻ của đất nước!








Chống tham nhũng, một biện pháp đẩy lùi nguy cơ


Mới đây, lợi dụng bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Phiên họp thứ 13 Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng vào ngày 21/01/2018, một số đối tượng đã sao chép nhiều “tài liệu”, xuyên tạc và đưa ra nhận định hết sức sai trái về cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Coi việc chống tham nhũng chỉ là “nước chảy qua cầu”; suy diễn cán bộ, đảng viên “bỏ cộng sản đi kiếm tiền”; nói “Đảng không làm được gì”… để rồi khẳng định “4 nguy cơ đảng chết ngay đơ”… Bản chất của những nhận định sai trái này thực chất xuất phát từ những vấn đề chủ yếu sau:
Một là, phủ nhận những nỗ lực, quyết tâm và thành quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Hai là, muốn làm suy giảm lòng tin của nhân dân, cán bộ, đảng viên với cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang thực hiện.
Việc lợi dụng vấn đề chống tham nhũng để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta luôn là một chủ đề “nóng” của những kẻ lắm lời, nhiều chuyện, nhất là của đám phản động cùng bè lũ tay sai hiện nay. Tuy nhiên, bản chất của vấn đề mà bè lũ phản động đặt ra không phải là lo lắng cho việc chống tham nhũng thành công hay không thành công, mà đó chỉ là nguyên cớ để mưu đồ tác động, hòng lung lạc niềm tin của nhân dân, xã hội đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta hiện nay mà thôi.
Vì vậy, không còn nghi ngại gì nữa, đấu tranh chống tham nhũng thành công chính là một trong những nội dung, biện pháp để đẩy lùi mọi nguy cơ đối với đất nước và chế độ ta. Mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân ta đang thực sự vui mừng với những kết quả đấu tranh phòng, chống tham mà Đảng, Nhà nước ta đã thu được trong năm 2017 vừa qua; đồng thời tin tưởng chắc chắn rằng sang năm 2018 sẽ thành công to lớn hơn nữa. Những giọng điệu độc địa của những kẻ phản động và đồng đảng không thể nào cản đường thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh này./.



CẢNH GIÁC VỚI PHƯƠNG TIỆN MẠNG XÃ HỘI


Chúng ta biết rằng, hiện nay mạng xã hội (Facebook, Youtobe, Zalo, Blogger, Sweber, Live.me...) là một trong những phương tiện giúp con người tiếp cận thế giới, mọi hoạt động đời sống xã hội của con người một cách nhanh chóng, kịp thời nhất. Chúng ta có thể tìm hiểu thông tin mình muốn nắm bắt trong thời gian ngắn nhất! Lợi dụng tiện ích này của mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động tăng cường chống phá Đảng và Nhà nước ta dưới nhiều hình thức, trên tất cả các lĩnh vực: Bôi nhọ, vu khống, xuyên tạc, nói sai sự thật về Lãnh tụ Hồ Chí Minh; về lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta; Lực lượng vũ trang nhân dân; Về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, truyền thống, văn hoá của dân tộc Việt Nam ta. Thủ đoạn của bọn chúng ngày càng tinh vi, xảo quyệt và thâm độc.
Nếu bạn là một người yêu nước chân chính, khi sử dụng mạng xã hội, chúng ta phải sử dụng có chọn lọc, tiếp nhận, xử lý thông tin chính xác, khoa học và biết đặt vị trí của mình trong bối cảnh thực tiễn. Cụ thể như sau
Một là: Không chia sẻ, bình luận, đăng tải những nội dung xuyên tạc, các thông tin xấu độc, nói sai sự thật, hay khi ta chưa hiểu rõ về nó
Hai là: Không cổ suý, kích động, xúi dục... các hành động xuyên tạc, thù địch vì thỏa mãn nhu cầu, lợi ích cá nhân.
Ba là: Luôn nêu cao tinh thần đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, phản động.
Bốn là: Phải luôn sống vì lẽ phải, sống có lý tưởng và sống vì chân lý.
Đời người ai cũng chỉ sống có một lần duy nhất, sống sao cho có ý nghĩa, không để sống hoài, sống phí! Hãy hành động vì Tổ quốc ngay ngày hôm nay.



Sự vô liêm sỉ, vô văn hóa của Nguyên Thạch


Gần đây, trên blog Danlambao, bút danh Nguyên Thạch đã tung ra hàng loạt những ngôn từ thô lỗ, chứa chất tâm trạng của một kẻ điên khùng, đầy hằn học với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Ngôn từ của Nguyên Thạch trong bài viết “Người tù lương tâm Nguyễn Ngọc Già” khi nói về lãnh tụ Hồ Chí Minh, là thứ ngôn từ của một kẻ có thể là có học nhưng lại vô liêm sỉ, vô văn hóa. Có lẽ, những gì xấu xa nhất của con người có thể có thì Nguyên Thạch đều sử dụng để bôi nhọ lãnh tụ Hồ Chí Minh. Ai đã một lần lướt qua bài viết chắc đều có cảm nhận rằng, chính những ngôn từ mà Nguyên Thạch “gắp lửa bỏ tay người” thì ngược lại, nó phản ánh đúng tâm địa, bản chất xấu xa của kẻ chuyên đi bôi nhọ những người khác, kể cả người đó là lãnh tụ của dân tộc, cả một đời vì nước, vì dân.
Ở Việt Nam, những ai đã học lịch sử nước nhà đều hiểu rằng, đầu thế kỷ XX cùng với sự xâm nhập ngày càng sâu của chủ nghĩa tư bản, cục diện xã hội có nhiều biến chuyển sâu sắc. Điều đó đã kích thích những người yêu nước Việt Nam từ bỏ con đường phò vua cứu nước, đi tìm một đường lối mới để giải phóng dân tộc khỏi kiếp nô lệ ngựa trâu. Rốt cuộc, những hoạt động sôi nổi của các sĩ phu yêu nước đã giới thiệu cho cách mạng Việt Nam loại hình tư tưởng quân chủ lập hiến và tư tưởng cải lương tư sản. Tuy mức độ khác nhau, nhưng cả hai khuynh hướng đó đều chưa đoạn tuyệt với hệ ý thức phong kiến do vậy, không thể đáp ứng được mục tiêu của cách mạng Việt Nam lúc đó là độc lập dân tộc và đưa đất nước phát triển tiến lên phù hợp với điều kiện mới. Sự thất bại của khuynh hướng đấu tranh giành độc lập dân tộc theo ngọn cờ của các sĩ phu yêu nước, nổi tiếng như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… đã nói lên điều đó.
Trong bối cảnh ấy, nhiều người Việt Nam yêu nước, trong đó có Nguyễn Ái Quốc đã nung nấu tìm đường cứu nước là một lẽ tự nhiên của dòng chảy lịch sử, bởi họ là những người con của một dân tộc kiên cường bất khuất, giàu truyền thống yêu nước. Sau bao năm bôn ba hải ngoại, năm 1920 người con xuất chúng của dân tộc Việt Nam – Nguyễn Ái Quốc đã tiếp nhận, chủ nghĩa Mác – Lênin, mở ra một khuynh hướng hoàn toàn mới – khuynh hướng giải quyết vấn đề dân tộc theo ngọn cờ của giai cấp vô sản. Việc đi tìm đường cứu nước và những hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin của Nguyễn Ái Quốc là sự khởi đầu tạo nên hợp lưu của dòng chảy ý thức nung nấu tìm đường giải phóng dân tộc của những người yêu nước Việt Nam.
Việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam tự nó chưa nói lên sự trường tồn của hệ tư tưởng đó đối với cách mạng nước ta. Vấn đề cốt tử là ở khả năng toả sáng, chỉ đường, tính hấp dẫn lôi cuốn của chủ nghĩa Mác – Lênin với cả một dân tộc đang vươn lên để giành lại độc lập, tự do. Trong những năm 20 của thế kỷ XX, bên cạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin đã từng bước làm nẩy sinh khuynh hướng giải quyết vấn đề dân tộc theo đường lối của giai cấp vô sản thì phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân tộc tư sản tiếp tục trỗi dậy, vươn lên rất sôi nổi. Điều đó đã làm xuất hiện cuộc chạy đua giành quyền lãnh đạo cách mạng của các tổ chức chính trị của những người theo khuynh hướng dân tộc tư sản và khuynh hướng dân tộc vô sản. Đây là cuộc đấu tranh hoàn toàn chỉ trên lĩnh vực tư tưởng, diễn ra một cách bình đẳng, không hề bị một sức ép nào và thực ra không ai có thể ép nổi cả một dân tộc phải đi theo hệ tư tưởng này hay hệ tư tưởng khác ngoại trừ sức sống tự thân của chính hệ tư tưởng đó. Kết cục thì như mọi người đã biết, nhân dân Việt Nam đã tự nguyện lựa chọn ngọn cờ chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ đường cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, đưa cách mạng tiến lên phù hợp với xu thế của thời đại. Còn ngọn cờ dân tộc tư sản đã kết thúc vai trò lịch sử, đánh dấu bằng sự tan rã của Việt Nam Quốc dân đảng tháng 2 năm 1930 với một tinh thần do chính họ tự xác định: “Không thành công cũng thành nhân”. Nhiều người vốn là lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân đảng, sau khi lãnh đạo khởi nghĩa Yên Bái không thành công, đã khẳng định và động viên dân chúng: Muốn giải phóng được dân tộc thì hãy đi theo ngọn cờ của giai cấp vô sản.
Điều đó cho thấy, những kẻ ngày nay lớn tiếng vu cáo cho Hồ Chí Minh làm “lây truyền vi khuẩn ngu dốt” như Nguyên Thạch xổ ra là hoàn toàn phi lý, phi lịch sử. Trên thực tế, sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin, cái mà Nguyên Thạch cho là “vi khuẩn ngu dốt” đã được khẳng định bằng thành quả vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong gần 90 năm qua. Thành công của cách mạng Tháng Tám (1945), đánh bại thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, giành lại nền độc lập, thu giang sơn về một mối, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia – dân tộc, những thành tựu trong xây dựng đất nước trong hơn 30 năm đổi mới, vị thế uy tín của Việt Nam ngày càng cao trên trường quốc tế, v.v. là bằng chứng sự thật không ai có thể che lấp được. Cho nên, dù có điên khùng, đâm đầu vào những hành vi vô văn hóa đến tột cùng của đáy bùn nhơ bẩn thì những ngôn từ mà Nguyên Thạch cố gán ghép, phỉ báng lãnh tụ Hồ Chí Minh đều vô nghĩa lý với mọi người yêu nước Việt Nam. Trái lại, mọi người dân Việt Nam càng thêm căm ghét kẻ vô liêm sỉ Nguyên Thạch./.


NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN


Đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD), an ninh nhân dân (ANND) của Đảng ta là rất rõ ràng, thế nhưng không chỉ một số phần tử phản động, cơ hội xuyên tạc mà trong chính nội bộ cũng có những nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về chủ trương này.
Một giải pháp quan trọng nhằm khắc phục những biểu hiện ấy được Đảng ta xác định là phải làm cho mọi công dân, mà trước hết là cán bộ, đảng viên nhận thức rõ, ý thức đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong thực hiện đường lối xây dựng nền QPTD, ANND.
Tuy cách thể hiện có khác nhau nhưng qua từng thời kỳ cách mạng Đảng ta luôn khẳng định, muốn hoàn thành thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, chúng ta phải phát huy sức mạnh tổng hợp. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc là phải xây dựng được nền QPTD, ANND vững mạnh. Quan điểm, đường lối ấy dựa trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm thực tiễn từ lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc, đặc biệt là qua các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Quán triệt và thực hiện quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ xây dựng nền QPTD, ANND mà Đảng ta đã đề ra những năm qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, toàn diện, thiết thực. Tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, an ninh (QP-AN) của đất nước được tăng cường, đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tuy nhiên, trên thực tế còn không ít những vấn đề đặt ra, đáng chú ý là bên cạnh sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động, ngay trong nội bộ cũng có những quan điểm chưa đúng, những nhận thức lệch lạc về sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc; về đường lối xây dựng nền QPTD, ANND... Chẳng hạn, khi đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng và vai trò nòng cốt của QĐND trong nền QPTD, có quan điểm cho rằng quân đội chỉ trung thành với Tổ quốc, với nhân dân chứ không phải trung thành với Đảng, vì “Muốn quân đội trung với Đảng thì phải có đặc quyền, đặc lợi”. Khi đặt vấn đề về chức năng của quân đội, có quan điểm lại cho rằng, trong điều kiện hiện nay chỉ nên nhấn mạnh chức năng của đội quân chiến đấu, chứ không cần quan tâm đến chức năng đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất. Nguy hiểm hơn, có người chỉ dựa vào một vài hiện tượng đã quy kết thành bản chất và cho rằng, thực chất “quân đội, công an là của Đảng, chứ không phải của nhân dân mà cũng chẳng phải của đất nước”. Hay từ quá trình giải quyết một số vụ việc có sự tham gia của công an, quân đội, có ý kiến cho rằng, chính quyền đang dùng “công an, quân đội để chống lại nhân dân” dẫn đến việc các thế lực thù địch, phản động lợi dụng xuyên tạc bản chất, mục đích, ý nghĩa của đường lối xây dựng nền QPTD, ANND.
Do nhận thức lệch lạc, chưa đầy đủ và hiểu chưa đúng nên trong quá trình thực hiện còn xảy ra nhiều những việc làm trái với đường lối, chủ trương của Đảng; vi phạm chính sách, pháp luật Nhà nước. Đáng chú ý là trong thực hiện chủ trương phát triển KT-XH đi đôi với xây dựng, củng cố QP-AN, nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương chỉ nhấn mạnh yếu tố kinh tế mà xem nhẹ hoặc bỏ qua những yếu tố về QP-AN. Đã có không ít công trình, dự án phải đình chỉ vì quá trình tiến hành cơ quan chức năng, chủ đầu tư và các tổ chức, cá nhân có liên quan đã không chú ý tới những tác động của nó đến bảo đảm QP-AN và an toàn cộng đồng. Nhiều công trình phòng thủ, công trình phục vụ nhiệm vụ QP-AN bị xâm phạm, tàn phá. Đặc biệt, nhiều khu rừng, cánh rừng từng “che bộ đội”, “vây quân thù” trong kháng chiến, tạo vành đai xanh bảo vệ biên giới trong hòa bình, nay đang bị tàn phá không thương tiếc... Thực trạng ấy Đảng và Nhà nước ta đã thấy rõ, chỉ ra và có nhiều giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt đấu tranh ngăn chặn, khắc phục. Đặc biệt, sau khi thẳng thắn đánh giá thực trạng, phân tích cụ thể nguyên nhân, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, đã chỉ rõ những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Một trong những biểu hiện được Ban Chấp hành Trung ương chỉ ra là: “Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hóa" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối QPTD và ANND; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an”.
Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với biểu hiện ấy, Ban Chấp hành Trung ương xác định tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả nhiều giải pháp. Một trong những giải pháp quan trọng, phải làm thường xuyên là tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, bồi dưỡng cho nhân dân, trước hết là cán bộ, đảng viên hiểu đúng, nhận thức đầy đủ về xây dựng nền QPTD, ANND.
Cùng với tuyên truyền làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của đường lối, cần phân tích làm cho nhân dân hiểu rằng xây dựng nền QPTD, ANND vững mạnh là yêu cầu khách quan của sự nghiệp bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN chứ không phải do ý muốn chủ quan của cá nhân hay tổ chức nào. Đây là một chủ trương chiến lược của Đảng ta, đồng thời cũng là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Do đó, cần làm cho nhân dân, trước hết là cán bộ, đảng viên thấu suốt quan điểm, muốn hoàn thành thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, chúng ta phải biết phát huy sức mạnh tổng hợp và một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp là phải xây dựng nền QPTD và ANND vững mạnh. Điều đó chỉ có được khi mọi công dân, mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi cấp, mọi ngành nhận thức đúng, ý thức đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với việc xây dựng nền QPTD, ANND.
Để huy động được mọi nguồn lực, phát huy trách nhiệm của mọi người, mọi tổ chức, mọi lực lượng cùng tham gia xây dựng nền QPTD, ANND, chúng ta phải làm cho nhân dân hiểu rõ nền QPTD mà Đảng ta chủ trương xây dựng đó là nền quốc phòng mang tính chất “vì dân, do dân, của dân”, phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với QP-AN, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hòa bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Nền ANND là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân tiến hành, lực lượng ANND làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Kết hợp phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các biện pháp nghiệp vụ của lực lượng chuyên trách, nhằm đập tan mọi âm mưu và hành động xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, cùng với QPTD bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Xây dựng nền QPTD, ANND vững mạnh là tạo ra sức mạnh để ngăn ngừa, đẩy lùi, đánh bại mọi âm mưu, hành động xâm hại, phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Việc xây dựng nền QPTD, ANND của Việt Nam không nhằm mục đích nào khác là tự vệ chính đáng, là để chống lại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ XHCN và cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Đây chính là thể hiện sự khác biệt về bản chất trong xây dựng nền QPTD, ANND của Việt Nam cũng như các quốc gia có độc lập, chủ quyền đi theo con đường XHCN với các quốc gia khác.
Sức mạnh của nền QPTD, ANND của Việt Nam là sức mạnh tổng hợp được tạo nên bằng nhiều yếu tố như: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, khoa học, đối ngoại, quân sự, an ninh,... cả ở trong nước, ngoài nước, cả của dân tộc và của thời đại, trong đó những yếu tố bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định.
Chỉ có thông qua tuyên truyền, phổ biến, giáo dục làm cho nhân dân, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên hiểu đúng, nhận thức đầy đủ những vấn đề cơ bản đó, chúng ta mới góp phần xây dựng niềm tin, nâng cao trách nhiệm và ý chí, quyết tâm trong xây dựng nền QPTD, ANND. Đây cũng là biện pháp quan trọng để chúng ta phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; huy động mọi nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng, củng cố QP-AN nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.


Không gì có thể chia rẽ quan hệ đoàn kết, gắn bó giữa quân đội và công an


Quân đội và công an là lực lượng vũ trang (LLVT) cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân, luôn đoàn kết và gắn bó, giúp đỡ nhau hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Sự đoàn kết, phối hợp giữa Công an nhân dân (CAND) và Quân đội nhân dân (QĐND) đã trở thành truyền thống, là yêu cầu khách quan, cội nguồn sức mạnh bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội (TTATXH). Thế nhưng mấy năm gần đây, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách chia rẽ, phá hoại tình cảm, mối quan hệ khăng khít đó.
Những chiêu trò xuyên tạc, chia rẽ
Một thủ đoạn gần đây được họ "dựng chuyện" thông qua luận điểm kích động: "Ai làm thoái hóa quân đội Việt Nam?" để chỉ trích việc quân đội tham gia phối hợp với công an bảo vệ an ninh quốc gia, TTATXH là không đúng chức năng, nhiệm vụ của quân đội.
Họ còn xuyên tạc rằng, thông qua Nghị định số 77/2010/NĐ-CP về Phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn TTATXH và nhiệm vụ quốc phòng, "quân đội đã chính thức được phép tham gia bảo vệ an ninh, trật tự xã hội… một việc mà trước đây chỉ có bên công an làm", qua đó tạo thế lực riêng cho mình, "can thiệp quá sâu vào các hoạt động dân sự dưới sự chỉ đạo của Đảng".
Thậm chí, họ còn trắng trợn bịa đặt, xuyên tạc quân đội tham gia vào các vụ án chống tiêu cực, tham nhũng là "lấn sân", qua đó hạ thấp uy tín, vai trò lực lượng CAND... Cách đây ít lâu, họ còn kích động, tạo ra mâu thuẫn giữa hai lực lượng thông qua việc so sánh vấn đề phong quân hàm cấp tướng...
Họ cũng không ngừng kêu gọi "phi chính trị" quân đội và công an, cho rằng hai lực lượng này phải tách rời sự lãnh đạo của Đảng, không được "trung với Đảng", "còn Đảng còn mình" mà phải quay về là lực lượng thuần túy phục vụ nhân dân. QĐND và CAND sẽ chỉ là của quốc gia, dân tộc, không cần đặt dưới sự lãnh đạo của đảng phái, lực lượng chính trị nào".
Họ yêu cầu phải bỏ nội dung LLVT tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, được ghi trong Điều 65 Hiến pháp năm 2013...
Có thể nói, đó là những chiêu trò hết sức thâm độc, phá hoại mối quan hệ khăng khít, gắn bó giữa QĐND và CAND. Mối quan hệ, tình cảm tốt đẹp này không phải sự ngẫu nhiên hay ý muốn chủ quan của ai đó mà bắt nguồn từ chính bản chất, chức năng, nhiệm vụ của LLVT nhân dân.
Từ lời dạy của Bác Hồ...
Sinh thời, Bác Hồ từng nhiều lần căn dặn hai lực lượng quân đội và công an về sự đoàn kết, phối hợp công tác. Ngày 11-3-1948 , Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng chí Hoàng Mai, lúc đó là Giám đốc Công an khu 12.
Bức thư với những lời căn dặn về tư cách người công an cách mệnh đã nhắc đến việc công an phải phối hợp chặt chẽ với quân đội. Bác viết: "Mỗi công an viên đóng chỗ nào thì cần dạy cho dân quân, tự vệ nơi đó cách điều tra, xét giấy, phòng gian…".
Hơn 10 năm sau, tại buổi lễ thành lập lực lượng CAND vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng), ngày 3-3-1959, Bác Hồ đến dự, giao nhiệm vụ và khẳng định: "Thành lập được lực lượng Công an nhân dân vũ trang là một thành công về đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau giữa bộ đội và công an".
Tại buổi lễ này, Bác còn có phát biểu bất hủ về truyền thống gắn bó giữa hai lực lượng: "Công an và quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính.
Vì vậy, càng phải đoàn kết chặt chẽ với nhau, giúp đỡ lẫn nhau, ra sức phát triển ưu điểm, khắc phục những tư tưởng không đúng... Công an nhân dân vũ trang hay là quân đội cũng thế, phải phục tùng sự lãnh đạo của Đảng từ trên xuống dưới. Nhất định phải như thế".
Đến thực tiễn sát cánh cả thời chiến và thời bình
Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, QĐND và CAND suốt hơn 70 năm qua luôn kề vai sát cánh, đoàn kết gắn bó vì nhiệm vụ chung, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.
Ngay từ khi lực lượng CAND mới ra đời ( 19-8-1945 ), CAND đã phối hợp chặt chẽ với QĐND chống thù trong, giặc ngoài, chống phản cách mạng, bảo vệ thành công thành quả của Cách mạng Tháng Tám.
Sự phối hợp giữa công an với lực lượng quân sự và dân quân tự vệ phá vụ án phố Ôn Như Hầu (1946), bóc gỡ 40 trụ sở của Quốc dân đảng, đập tan âm mưu gây bạo loạn, lật đổ chính quyền ở Thủ đô Hà Nội những ngày đầu chính quyền non trẻ là một minh chứng cho sự phối hợp tất yếu và hiệu quả ấy.
Sau này, qua các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, sự phối hợp đoàn kết chiến đấu giữa hai lực lượng càng thêm chặt chẽ, nhất là cùng tham gia phá tan âm mưu của địch cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam; tiến công truy quét, tiêu diệt các toán thổ phỉ, biệt kích, thám báo trên các vùng Đông Bắc, Tây Bắc Tổ quốc...
Trong các chiến dịch lớn, lực lượng an ninh cùng lực lượng quân đội bảo vệ tuyệt đối an toàn các sở chỉ huy, làm thất bại hoàn toàn các hoạt động gián điệp, các chiêu trò chiến tranh tâm lý, chiêu hồi của địch...
Trong giai đoạn hòa bình, xây dựng đất nước, quan hệ đoàn kết, phối hợp công tác giữa hai lực lượng tiếp tục được sự quan tâm lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, được thể chế hóa bằng chính sách, pháp luật của Nhà nước và nâng lên một tầm cao mới.
Từ năm 2003, Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Quốc phòng tham mưu với Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 107/QĐ-TTg, ngày 2-6-2003 về "Quy chế phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, TTATXH trong tình hình mới".
Sau đó, hai bộ đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 77/2010/NĐ-CP về Phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn TTATXH và nhiệm vụ quốc phòng; Nghị định số 152/2007/NĐ-CP của Chính phủ về khu vực phòng thủ, quy định gắn thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân...
Mối quan hệ phối hợp đó được chỉ đạo và thể chế hóa rất rõ trong Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (năm 2008) về "Tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới", Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về "Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới", Luật Công an nhân dân, Luật An ninh quốc gia, Luật Quốc phòng, Luật Biên giới quốc gia...
Trong đó, Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI nhấn mạnh: "Tăng cường quan hệ phối hợp giữa lực lượng Công an nhân dân với Quân đội nhân dân và các ngành, các địa phương trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Luật Quốc phòng năm 2005 xác định: "Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, TTATXH có trách nhiệm phối hợp với Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ thực hiện nhiệm vụ quốc phòng".
Luật Công an nhân dân năm 2014 quy định: "Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Công an nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm TTATXH và xây dựng Công an nhân dân".
Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: "Bố trí thế trận quốc phòng, an ninh phù hợp với tình hình mới. Gắn kết quốc phòng với an ninh. Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế trên từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác quy hoạch, kế hoạch và các chương trình, dự án".
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: "...phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc".
Trên cơ sở đó, hai lực lượng đã chủ động phối hợp ở tất cả các cấp trong trao đổi thông tin, nhất là thông tin về âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tình hình an ninh, trật tự trên các tuyến biên giới; hoạt động xuất, nhập cảnh trái phép, xâm nhập của các tổ chức phản động lưu vong, những vấn đề liên quan trực tiếp đến quốc phòng, an ninh.
Trên cơ sở đó, thống nhất nhận định, đánh giá để đề xuất và tham mưu cho Đảng, Nhà nước; đồng thời, triển khai các biện pháp đấu tranh nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước.
Có thể dẫn chứng qua việc cách đây ít lâu, có dịp làm việc với Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng-người từng tham gia chỉ đạo trực tiếp giải quyết vụ gây rối ở Tây Nguyên (tháng 4-2004) và Thiếu tướng Lưu Trọng Lư, nguyên Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Điện Biên-người trực tiếp tham gia chỉ huy giải quyết vụ tụ tập gây rối ở huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên (tháng 5-2011), chúng tôi được biết, sự phối hợp giữa quân đội và công an trong những sự việc phức tạp này cực kỳ cần thiết, khăng khít và hiệu quả...
Không gì có thể chia rẽ
Ngày nay, khái niệm về an ninh quốc gia có sự phát triển mới. Đó là an ninh toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quân sự, ngoại giao; cả an ninh sinh tồn và an ninh phát triển; cả an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống.
Do đó, bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới phải là nhiệm vụ của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, trong đó QĐND và CAND là lực lượng nòng cốt.
Quân đội và công an đều là công cụ bạo lực, là lực lượng chính trị tin cậy, trung thành tuyệt đối của Đảng, Nhà nước và nhân dân, tuy nhiệm vụ cụ thể có đặc trưng khác nhau nhưng đều chung mục tiêu, lý tưởng; không thể có chuyện "lấn sân" nhau trong thực hiện nhiệm vụ mà chỉ có chia sẻ, phối hợp, cùng nhau hoàn thiện nhiệm vụ tốt nhất.
Cùng với đó, trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch không ngừng thay đổi thủ đoạn, phương thức chống phá cách mạng Việt Nam với những thủ đoạn phi vũ trang là chủ yếu với xây dựng LLVT, khủng bố từ nước ngoài, thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" kết hợp thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" từ bên trong...
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày nay đặt ra nhiều đòi hỏi cấp thiết phải bảo vệ từ xa, tác chiến không chỉ trên các lĩnh vực trên bộ, trên không, trên biển mà cả trên không gian mạng và đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa.
Các thủ đoạn lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, tạo ra những "điểm nóng" kinh tế-xã hội để biến thành những sự kiện chính trị nhạy cảm... càng đòi hỏi QĐND và CAND phải kề vai sát cánh hơn nữa.
Việc phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, TTATXH cũng như công an giúp đỡ quân đội trong các mặt công tác là đòi hỏi tất yếu khách quan, hoàn toàn phù hợp và không gì có thể tách rời, chia rẽ hai cánh tay, hai người anh em của LLVT nhân dân...


Vạch trần âm mưu lợi dụng vấn đề tham nhũng để tuyên truyền chống phá cách mạng nước ta


Tham nhũng là vấn đề không của riêng đất nước, quốc gia nào. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, các đối tượng xấu, thế lực thù địch núp danh nghĩa “dân chủ, nhân quyền” lợi dụng triệt để vấn đề tham nhũng ở nước ta để xuyên tạc, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Từ đó, tạo sự hồ nghi trong nhân dân về sự lãnh đạo của Đảng. Hơn lúc nào hết, việc nhận thức rõ những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch là vấn đề cấp bách.
Truy cập vào mạng Internet, sẽ bắt gặp những trang mạng xã hội facebook, blog… do các đối tượng xấu, thế lực thù địch đăng tải các luận điểm xuyên tạc về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí của Đảng, Nhà nước ta.
Trên những trang mạng này, các đối tượng, phần tử xấu có tư tưởng thù địch đã rêu rao những nội dung đại loại như: “đang có cuộc thanh trừng, đấu đá nội bộ trong Đảng”, “cuộc chiến chống tham nhũng là cuộc đấu đá phe cánh”, rồi “tăng cường phòng, chống tham nhũng chỉ là chiêu trò mị dân”, “chống tham nhũng chỉ là hô khẩu hiệu” v.v...
Thông qua những bài viết cực đoan, suy diễn không đúng bản chất về vấn đề tham nhũng ở nước ta, số phần tử xấu này rắp tâm dựng lên một bức tranh toàn gam màu tối. Thông qua đó, phủ nhận những nỗ lực, sự quyết liệt trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng mà các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta đã và đang chỉ đạo.
Các đối tượng lợi dụng triệt để thông tin một vài vụ án tham nhũng có liên quan đến cán bộ, đảng viên đã bị đưa ra ánh sáng pháp luật nhằm suy diễn, xuyên tạc, bóp méo quan điểm rồi cho rằng tham nhũng là bản chất, là hệ quả của chế độ xã hội chủ nghĩa, của cơ chế lãnh đạo tuyệt đối của Đảng.
Nếu ai đã từng đọc những thông tin nhảm nhí, xuyên tạc thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay trên các trang mạng xã hội do các thế lực thù địch ngụy tạo ra, sẽ không khó để nhận ra những âm mưu thâm hiểm đi kèm. Đó chính là sự xúi giục, âm mưu kích động nhân dân ta đứng lên đòi thay đổi cương lĩnh, thể chế chính trị, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, chuyển xã hội ta sang một xã hội “đa nguyên, đa đảng”.
Ở nước ta, cách đây hơn 72 năm, Cách mạng Tháng Tám vĩ đại thành công đã lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (2-9-1945). Ngay từ thời điểm bấy giờ, Nhà nước và Chính phủ đã nhận ra quy luật tất yếu của sự hình thành tệ tham nhũng trong xã hội. Chính bởi vậy, hàng loạt dấu hiệu, biểu hiện về tham ô, hối lộ, lạm dụng chức vụ quyền hạn… đã được Nhà nước, Chính phủ ta chỉ ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh – sinh thời đã từng nói: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ. Kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng việc của ta…”.
Theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tham ô, tham nhũng, lãng phí là kẻ thù của Chính phủ, của nhân dân. Còn nhớ, sau khi Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khai sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “…Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian xảo, tham ô và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta… Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, Kiệm, Liêm, Chính”.
Tiếp tục các nghị quyết của những khóa trước, việc chúng ta đang tích cực triển khai và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó lưu ý tới công tác phòng, chống tham nhũng.
Thực tiễn cho thấy, thời gian qua, đã có nhiều vụ án về tham nhũng nghiêm trọng bị cơ quan chức năng điều tra, xử lý. Minh chứng như vụ án “Đưa hối lộ; nhận hối lộ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Tổng Công ty Xây dựng đường thủy Việt Nam; vụ án “Tham ô tài sản; rửa tiền” xảy ra tại Công ty TNHH Một thành viên Vận tải viễn dương Vinashin; vụ án “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng và tham ô tài sản tại Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) và Tổng công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC); vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” xảy ra tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Dương.
Từ những kết quả trên cho thấy, công tác phòng, chống tham nhũng trong những năm qua luôn được Đảng, Nhà nước, Chính phủ ta coi trọng và đã cho những kết quả khả quan; góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội, củng cố thêm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với sự nghiệp lãnh đạo của Đảng.
Qua thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã đúc kết và “vạch mặt” những biểu hiện cũng như đề ra các biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng. Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XII) cũng đã khẳng định: “Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn câu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực” là một trong 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Nghị quyết đã lưu ý việc phải phát huy vai trò, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí trong công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương và cơ quan thường trực về phòng, chống tham nhũng…; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát; phát huy vai trò của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, điều tra và các cơ quan tư pháp để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, xử lý nghiêm minh đối với những cán bộ sai phạm theo quy định của pháp luật. Trong đó, trước mắt tập trung xử lý dứt điểm các vụ tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp được dư luận xã hội và nhân dân quan tâm và công khai kết quả xử lý.
Như vậy, có thể thấy rằng, Đảng và Nhà nước ta không phủ nhận tệ tham nhũng đã và đang tồn tại gây ra nhiều hậu quả cho xã hội. Và để ngăn chặn tệ tham nhũng, Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã, đang và sẽ tiếp tục triển khai nhiều biện pháp quyết liệt đấu tranh, đẩy lùi tệ tham nhũng, củng cố niềm tin ở nhân dân, không để các thế lực thù địch lợi dụng nhằm thực hiện âm mưu, chiến lược “Diễn biến hòa bình”.


Phê phán một số quan điểm phủ nhận, xuyên tạc đường lối đối ngoại của Đảng


Độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa là đường lối đối ngoại nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới. Đường lối đó đã tạo được sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và được dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ. Nhờ thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế thời gian qua đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần xứng đáng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước trong hơn 30 năm đổi mới.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, trước những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và thế giới, trên một số trang mạng xã hội đã xuất hiện những quan điểm, ý kiến của những “công dân”, “nhà báo”, “nhà nghiên cứu”, “người yêu nước”... dưới các hình thức “lời kêu gọi”, “tư vấn”, “phản biện”... nhằm phê phán, bác bỏ đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam hiện nay. Nổi lên là các quan điểm: (1) Để giữ độc lập, chủ quyền... phải tẩy chay hàng hóa Trung Quốc, tẩy chay người Trung Quốc, phải chống Trung Quốc; (2) Nếu Đảng, Nhà nước vẫn “kiên định”, vẫn “khăng khăng” giữ chính sách quốc phòng “Ba không” (không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia) như thế là “dân đi một đường, Đảng đi một nẻo”(!)...
Vậy, bản chất những quan điểm, luận điệu đó thế nào? thực chất đây là những tư tưởng, quan điểm lệch lạc, sai trái, xuyên tạc, phủ nhận đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Chúng ta có đầy đủ cơ sở để khẳng định tính đúng đắn, khoa học trong đường lối đối ngoại của Đảng và bác bỏ những quan điểm sai trái nêu trên. 
Thứ nhất, phê phán luận điệu: Để giữ độc lập, chủ quyền... phải tẩy chay hàng hóa Trung Quốc, tẩy chay người Trung Quốc, phải chống Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa, thể chế chính trị. Tình cảm hữu nghị giữa hai nước đã được xây dựng qua nhiều thế hệ, trở thành tài sản quý báu của hai dân tộc. Quan hệ giữa hai nước tuy trải qua nhiều thăng trầm nhưng hợp tác hữu nghị vẫn là dòng chảy chính. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn coi trọng quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Trung Quốc, coi đây là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam và luôn mong muốn quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc phát triển lành mạnh, ổn định, bền vững([1]1). Với những thỏa thuận đã được hai nước đàm phán, ký kết trong những năm qua, hai bên cần kiên trì giải quyết hòa bình vấn đề Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Việt Nam kiên quyết sử dụng mọi biện pháp phù hợp với luật pháp của Việt Nam và luật pháp quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, biển đảo của Tổ quốc; nhưng đồng thời cũng quyết tâm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Điều này vẫn luôn được cộng đồng quốc tế ủng hộ mạnh mẽ.
Rõ ràng những “kiến nghị”, “lời kêu gọi” “bài Trung”, “tẩy chay hàng hóa Trung Quốc”, “không tiếp khách Trung Quốc”... được phát tán trên mạng xã hội, trên một số trang báo điện tử và những hành vi kích động, đập phá của người biểu tình ở Bình Dương, Vũng Áng... thời gian qua là những tư tưởng và hành động sai trái, thâm độc cần phải phê phán, bác bỏ. Những tư tưởng, hành động đó thực chất là xuyên tạc, đi ngược lại đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam, cổ súy cho chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, kích động bạo lực, kích động chiến tranh và hận thù dân tộc. Những tư tưởng, hành động cực đoan, quá khích đó không những đã làm thiệt hại cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài (trong đó có người Trung Quốc) tại Việt Nam mà còn trực tiếp gây thiệt hại cho người tiêu dùng, người lao động, người sản xuất, kinh doanh Việt Nam, gây mất an ninh, trật tự xã hội; làm suy yếu đất nước từ bên trong, làm xấu đi hình ảnh của một Việt Nam thanh bình, yêu chuộng hòa bình, là điểm đến an toàn, hấp dẫn trong mắt bè bạn quốc tế và vì thế mà càng gây thêm khó khăn cho cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của chúng ta([1]2). Do đó, cũng giống như những hành động bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc ở Biển Đông, những tư tưởng, hành động cực đoan, quá khích đó đã làm tổn thương nghiêm trọng tình hữu nghị tốt đẹp của nhân dân hai nước Việt - Trung.
Thứ hai, phê phán quan điểm: Đảng, Nhà nước vẫn“kiên định”, vẫn “khăng khăng” giữ quan điểm “ba không” là “dân đi một đường, Đảng đi một nẻo”(!).
Đề nghị “chỉnh sửa”, “thay đổi”, “từ bỏ” chính sách “ba không” được phát tán trên mạng chỉ là quan điểm của một số người hoặc chưa hiểu đầy đủ cơ sở lý luận, thực tiễn của chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, hoặc đó là những phần tử cơ hội, bất mãn, thù địch với ý đồ thâm độc, nham hiểm. Họ là một bộ phận rất nhỏ, tiếng nói đó không thể là đại diện cho tiếng nói của nhân dân và dân tộc Việt Nam tự lực, tự cường, luôn mong muốn chung sống hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng và anh em bè bạn quốc tế. Nếu một đảng chỉ biết theo đuôi quần chúng, làm theo một cách mù quáng tất cả các đề xuất, kiến nghị của quần chúng, nhất là những kiến nghị, góp ý của một bộ phận “quần chúng”, một số “trí thức”, “học giả” với tư tưởng cực đoan, thù hận, với tinh thần nhược tiểu, yếu hèn thì đảng đó cũng không thể tồn tại lâu dài để lãnh đạo nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng, Nhà nước ta nói chung, trong đó có chính sách đối ngoại quốc phòng “ba không” nói riêng chính là sự kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Đường lối ấy có cơ sở lý luận, khoa học, thực tiễn, cơ sở pháp lý vững chắc, có sự tham khảo ý kiến của các tầng lớp nhân dân một cách dân chủ, công khai. Do đó, thực chất quan điểm, đường lối của Đảng chính là ý chí, nguyện vọng của nhân dân và cả dân tộc Việt Nam. Nhân dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng bằng tất cả sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, bằng tình cảm yêu nước thiết tha và trí tuệ thông minh, sáng tạo của mình dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng.
Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Rõ ràng, trong vấn đề đối ngoại, kể cả chính sách đối ngoại quốc phòng, lòng dân và ý Đảng gắn bó, thống nhất chặt chẽ. Không hề có chuyện,“dân đi một đường, Đảng đi một nẻo” như các thế lực thù địch xuyên tạc. Vì thế, không thể chấp nhận quan điểm “thay đổi”, “từ bỏ” chính sách “ba không”. Ngược lại, chúng ta cần nhận thức sâu sắc, quán triệt đầy đủ, xác định rõ đây là một trong những nội dung cơ bản trong đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng, Nhà nước ta. Qua đó góp phần tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; thực hiện có hiệu quả việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ về lĩnh vực quốc phòng, đối ngoại.