Thứ Hai, 15 tháng 1, 2024

Kiên trì chính sách “Bốn không” gắn với mở rộng hoạt động đối ngoại quốc phòng, an ninh

 

Liên minh quân sự và mở rộng đối ngoại quốc phòng, an ninh là hai phạm trù hoàn toàn khác nhau. Việt Nam không tham gia liên minh quân sự không có nghĩa là chúng ta khép kín, không mở rộng hợp tác, thúc đẩy quan hệ đối ngoại quốc phòng, an ninh. Trong tình hình mới, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; làm sâu sắc, hiệu quả hơn đối ngoại quốc phòng, an ninh; với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; kiên định về chiến lược, linh hoạt về sách lược; đan xen lợi ích và duy trì quan hệ cân bằng với các quốc gia, nhất là các nước lớn; không theo bên này để chống bên khác; không để đất nước rơi vào thế bị bao vây, cô lập, lệ thuộc vào nước ngoài; Việt Nam làm bạn, làm đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đây là cơ sở, tiền đề quan trọng để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và phát triển bền vững đất nước.

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 viết: “Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”. Điều này cho phép Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo đảm sự linh hoạt, chủ động ứng phó trong những tình huống phức tạp hoặc khi có yêu cầu cấp thiết bảo vệ Tổ quốc.

Hiện nay, Việt Nam thiết lập, mở rộng ngoại giao với 189 trong tổng số hơn 200 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong đó, quan hệ đối ngoại quốc phòng ngày càng phát triển với hơn 80 quốc gia trải rộng cả 5 châu lục, đặc biệt chúng ta có quan hệ quốc phòng với tất cả 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Đây là minh chứng rõ nét chứng minh đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh đúng đắn, hợp lý, linh hoạt, sáng tạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam, là kết quả của sự hội tụ sức mạnh “ý Đảng, lòng dân” trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế. Đồng thời, mở ra những thuận lợi, cơ hội để Việt Nam ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh, duy trì hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế của đất nước và con người, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế.

Khuyến nghị được hiểu là đưa ra lời khuyên, lời đề nghị với thái độ trân trọng, chân thành, mang tinh thần xây dựng, vì lợi ích quốc gia dân tộc nhưng cái cách mà các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đã làm hoàn toàn ngược lại. Họ mượn vỏ bọc “khuyến nghị”, lợi dụng “khuyến nghị”, làm méo mó, biến dạng “khuyến nghị”, xuyên tạc, chống phá đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh cũng như phủ nhận mọi nỗ lực và thành tựu trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước trong thời gian qua.

Cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” của các thế lực thù địch hiện nay

 

Trong thời gian vừa qua, các thế lực thù địch thường xuyên tìm mọi cách để bôi nhọ, xuyên tạc phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, với âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội và chia rẽ mối quan hệ đoàn kết máu thịt quân đội với Nhân dân. Vì vậy, cần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” của các thế lực thù địch, đây là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết hiện nay.

Phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” là một hệ thống chuẩn mực, giá trị tư cách đạo đức của người quân nhân cách mạng. Giữ vững, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” có ý nghĩa, vai trò quan trọng góp phần trực tiếp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, bảo đảm quân đội trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân; là nhân tố quan trọng tạo thành sức mạnh tổng hợp hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.

Hiện nay, Đảng bộ Quân đội và toàn quân đang đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương về “Phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới”. Trong khi đó, các thế lực thù địch cũng dùng mọi thủ đoạn, cách thức thâm độc và xảo quyệt nhằm xuyên tạc, bôi nhọ phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, hạ thấp vai trò của quân đội. Chúng lợi dụng hiện tượng một số quân nhân vi phạm pháp luật, kỷ luật trong quan hệ với nhân dân..., để đưa ra luận điệu “Quân đội đã hư hỏng, thoái hóa, biến chất”, “Quân đội không còn gắn bó máu thịt với nhân dân”, “đã đánh mất bản chất, truyền thống tốt đẹp”, “không còn xứng đáng với danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ”. Đó thực chất là các chiêu trò “diễn biến hòa bình” nhằm “phi chính trị hóa” quân đội, xuyên tạc phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Chúng triệt để sử dụng internet, mạng xã hội để tung tin xấu độc, nhằm tuyên truyền sai lệch về bản chất, truyền thống Quân đội, làm phai mờ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”. Chúng cắt ghép, ngụy tạo những bức ảnh, video clip... lồng vào tin, bài bóp méo, xuyên tạc những việc làm của cán bộ, chiến sĩ quân đội trong các hoạt động thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, dân vận, hỗ trợ, giúp đỡ nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh...

Để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” của các thế lực thù địch hiện nay, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần chủ động, tích cực tổ chức tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức cho mọi quân nhân về “Bộ đội Cụ Hồ”, gắn với vạch trần âm mưu, thủ đoạn hoạt động lợi dụng mạng xã hội của các thế lực thù địch, phản động để xuyên tạc phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, không vô tình tiếp tay cho các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các hành vi tiêu cực, phản cảm, thiếu văn hóa khác trên mạng xã hội. Quan tâm và chủ động hơn nữa trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phổ biến giáo dục pháp luật cho mọi quân nhân. Thường xuyên, tăng cường chỉ đạo công tác giáo dục cảnh giác cho quân nhân có nhận thức đúng đắn về âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch và phản động lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội ta, thu thập tin tức tình báo, cùng các hành vi vi phạm pháp luật khác; từ đó nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tích cực đấu tranh cho mọi quân nhân góp phần làm thất bại âm mưu, ý đồ của các thế lực thù địch./.

Một nhìn nhận thiếu khách quan, lệch lạc về tự do tôn giáo ở Việt Nam

 

Trong một thông cáo báo chí mới đây, Bộ Ngoại giao Mỹ đã đưa một số quốc gia trên thế giới vào “Danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo”. Rất ngạc nhiên khi tại danh sách này có Việt Nam, quốc gia vừa được Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 với số phiếu rất cao, thể hiện sự tín nhiệm và đánh giá cao của cộng đồng quốc tế về việc đảm bảo các quyền tự do cơ bản ở nước ta, trong đó có quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng.

          Điều đáng nói là phía Mỹ đã dựa vào một vài vụ việc, cá nhân đơn lẻ vi phạm pháp phạm luật đã bị điều tra, truy tố, xét xử và kết án theo luật pháp hiện hành tại nước ta để rồi quy kết rằng, “vi phạm nghiêm trọng về quyền tự do tôn giáo”. Rõ ràng phía Mỹ đã dựa trên những thông tin sai lệch để đưa ra những đánh giá thiếu khách quan, hoàn toàn không chính xác về tự do tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam!

Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo. Thống kê chưa đầy đủ cho thấy, nước ta hiện có khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng và tôn giáo. Tính đến nay, cả nước có khoảng 45.000 cơ sở tín ngưỡng, trong đó có hơn 2.900 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, một số di tích được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là di sản thế giới.

          Trong lĩnh vực tôn giáo, Việt Nam có khoảng hơn 26,5 triệu tín đồ (chiếm 27% dân số), 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận hoặc cấp chứng nhận đăng ký hoạt động. Cả nước hiện có hơn 57,4 nghìn chức sắc, trên 147 nghìn chức việc, hơn 29,6 nghìn cơ sở thờ tự. Số lượng tín đồ theo các tôn giáo hiện nay: Phật giáo 15,1 triệu; Công giáo 7,1 triệu; Cao đài 1,1 triệu; Tin lành 1 triệu; Hồi giáo 80 nghìn; Phật giáo Hòa hảo 1,3 triệu, còn lại là các tôn giáo khác như Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Tứ ân Hiếu nghĩa, Bà La môn, Bửu Sơn Kỳ Hương, Minh sư đạo, Minh lý đạo…

Trong 16 năm, từ 2001-2017, số tín đồ của các tổ chức tôn giáo được công nhận ở nước ta tăng lên 6% trong dân số. Số lượng tín đồ các tôn giáo đều tăng lên, trong đó tăng nhanh nhất là tín đồ đạo Tin lành, từ 670.000 người năm 2004 đã tăng lên tới trên 1,2 triệu tín đồ năm 2015, tức là tăng gấp gần 2 lần trong 10 năm.

          Ngay từ những ngày đầu thành lập nước, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân đã luôn được ghi nhận và được thể hiện trong các hiến pháp qua các thời kỳ từ Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, 1980, 1992. Hiến pháp 2013 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.Nhà nước bảo đảm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo được thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo, mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo. Cả nước hiện có 62 cơ sở đào tạo tôn giáo tại 36 tỉnh, thành phố, trong đó có 11 đại chủng viện, học viện của Giáo hội Công giáo Việt Nam; 4 học viện, 34 trường trung cấp Phật học, 8 lớp cao đẳng Phật học của Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Tin lành có 1 Viện Thánh kinh thần học, 1 trường Kinh Thánh Cơ Đốc và 1 Trường Thánh kinh thần học; 1 Học viện Truyền giáo Cao đài; 1 Trường Trung cấp Phật giáo Hòa Hảo...

          Thực tế sống động và không thể phủ nhận về dự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam là minh chứng không thể thuyết phục hơn những nỗ lực không ngừng của Nhà nước ta nhằm bảo đảm và tạo điều kiện để các sinh hoạt tôn giáo, hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường. Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao ta cũng nhấn mạnh, Việt Nam sẵn sàng trao đổi với phía Mỹ về các vấn đề hai bên cùng quan tâm trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở, tôn trọng lẫn nhau, đóng góp vào thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước./.

Cảnh giác với chiêu trò đội lốt “Dân chủ, yêu nước”.

 


Thời đại Công nghệ thông tin ngày một phát triển với tốc độ chóng mặt, người dùng mạng được tiếp cận nhanh chóng với rất nhiều luồng thông tin từ khắp mọi nơi trên thế giới, đó là một lợi thế vượt bậc. Tuy nhiên, các luồng thông tin chưa được kiểm chứng cũng tràn lan và xuất hiện dày đặc đôi khi cũng dễ khiến chúng ta nhầm lẫn và mất kiểm soát trong việc truy cập và chia sẻ thông tin, cũng chính điều này đã bị các đối tượng xấu lợi dụng, xem như một cách thức để dụ dỗ người dùng mạng làm theo những hướng dẫn tiêu cực, vi phạm pháp luật.

Hiện nay trên nền tảng các kênh thông tin xã hội, các nhóm đội lốt dân chủ đang tăng cường sử dụng chiêu trò đăng tải các thông tin trong đó có nội dung kêu gọi người dùng mạng truy cập vào đường link có sẵn mục đích là để tham gia lựa chọn ý kiến đúng, sai về một vấn đề nóng trong đời sống xã hội, chính trị, kinh tế…. Nếu không tỉnh táo có lẽ không ít người nhầm tưởng rằng hành động này là đúng đắn và thể hiện tinh thần yêu nước vốn có của người Việt xưa nay, tuy nhiên sự thật thì hoàn toàn ngược lại. Đây thực chất chỉ là một chiêu trò dụ dỗ người dùng mạng tham gia vào các hoạt động gây rối có tổ chức mà chúng dựng nên với  kịch bản dàn dựng rõ ràng. Theo đó, dần dần chúng sẽ lôi kéo người dùng mạng tham gia vào một tổ chức chính trị phi pháp với vô số những âm mưu nhằm chống đối chính quyền, nói xấu Nhà nước ta. Chưa kể khi truy cập vào những link này người dùng mạng còn bị lộ lọt thông tin cá nhân và biết đâu một ngày nào đó sẽ bị chúng dùng vào mục đích khác.

Hầu hết các thế lực thù địch, chống đối nhà nước, những phần tử thiếu thiện chí với Đảng ta luôn sử dụng những chiêu trò liên quan đến nhân quyền, tự do và lợi dụng tinh thần yêu nước để kích động lòng dân, gây rối loạn trật tự xã hội. Trong lịch sử đã có không ít lần dân ta sập bẫy của bọn chúng, chúng đã lợi dụng tình hình phức tạp thổi phồng lên những luận điệu kích động dân chúng biểu tình, nổi loạn, đập phá các công trình, chống đối chính quyền, vv…, còn chúng thì đứng ngoài cổ vũ và thao túng. Cuối cùng người chịu thiệt hại và vướng vào lao lý là những người dân nhẹ dạ, cả tin, không làm chủ được mình, chạy theo đám đông gây ra những hậu quả không đáng có, để lại biết bao nhiêu hệ lụy về sau.

Người Việt Nam ta vốn có truyền thống yêu nước và tinh thần này là vô cùng quý giá nhưng muốn phát huy tinh thần yêu nước thì việc đầu tiên cần làm là phải đặt nó đúng chỗ. Phải luôn tỉnh táo trong cập nhật và chia sẻ thông tin, phải phân biệt được đâu là hành động có ích, đâu là chiêu trò bẩn cần phải loại bỏ.

Mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp Việt Nam- Nhật Bản

 

Với lịch sử giao lưu nhân dân trải dài hơn 13 thế kỷ từ thế kỷ thứ 8, tròn nửa thế kỷ hợp tác và cùng phát triển kể từ khi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (21/9/1973-21/9/2023), tình hữu nghị hai nước Việt Nam và Nhật Bản đã được vun đắp trong lịch sử lâu dài, tạo nên mối quan hệ hữu nghị hợp tác ngày càng thực chất, hiệu quả với nền tảng là sự tương đồng về văn hóa, sự gắn kết lịch sử bền chặt và sự tin cậy chính trị cao.

Các hoạt động giao lưu giữa hai nước diễn ra vô cùng sôi nổi, đặc biệt là hoạt động giao lưu giữa thế hệ trẻ hai nước, trong đó tiêu biểu là các du học sinh. Nhật Bản là đối tác kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch và lao động quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Hai nước là đối tác quan trọng của nhau trong khu vực và trên thế giới. Hợp tác giữa hai nước trên các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, giao lưu địa phương, giao lưu nhân dân… được thúc đẩy mạnh mẽ và đạt nhiều kết quả tích cực.

Sự mở rộng cả về quy mô và số lượng của các lễ hội Việt Nam và lễ hội Nhật Bản, cũng như các hoạt động giao lưu văn hóa diễn ra thường xuyên tại các địa phương hai nước đã và đang đưa người dân Việt Nam - Nhật Bản xích lại gần nhau hơn. Sự lớn mạnh của cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản và cộng đồng người Nhật Bản tại Việt Nam trong những năm qua không chỉ đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà còn là cầu nối giúp tăng cường sự hiểu biết, gắn bó giữa hai dân tộc và là nền tảng quan trọng để thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác bền vững, lâu dài giữa hai đất nước trong tương lai. Có thể thấy, giao lưu hai nước Nhật Bản - Việt Nam đã phát triển bền vững cùng năm tháng, quan hệ hợp tác ngày càng trở nên sâu rộng trong nhiều lĩnh vực đa dạng như kinh tế, nông nghiệp, môi trường…

Những dấu mốc đáng ghi nhận trong quan hệ hai nước 50 năm qua như Tuyên bố chung về quan hệ chiến lược Việt Nam - Nhật Bản (2009), xây dựng quan hệ Việt Nam - Nhật Bản theo phương châm "Đối tác tin cậy, ổn định lâu dài" (2022), nâng cấp quan hệ hai nước lên " Đối tác Chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới" (2023), …

Điểm lại một vài con số ấn tượng, chúng ta thấy rằng Việt Nam là điểm đến được các doanh nghiệp Nhật Bản ưa thích thứ hai trên thế giới sau Hoa Kỳ khi xem xét các quốc gia, vùng lãnh thổ để mở rộng kinh doanh trong tương lai, Nhật Bản luôn nằm trong 3 nhà đầu tư nước ngoài (FDI) lớn nhất tại Việt Nam, hiện diện ở 57/63 tỉnh, thành phố, với 4.978 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký gần 69 tỷ USD tính đến tháng 12/2022. Về thương mại, Nhật Bản là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam (sau Trung Quốc và Mỹ, Hàn Quốc) với kim ngạch song phương năm 2022 đạt gần 50 tỷ USD; cộng đồng người Việt Nam là cộng đồng người nước ngoài lớn thứ hai tại Nhật Bản với khoảng 432.000 người; Việt Nam cũng đứng thứ hai thế giới về số lượng du học sinh tại Nhật Bản…

Tin tưởng rằng, trên nền tảng vững chắc đã được xây dựng 50 năm qua và những thành tựu to lớn đạt được trong tất cả các lĩnh vực hợp tác, với quyết tâm cao của lãnh đạo và nỗ lực của nhân dân hai nước, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản sẽ phát triển ngày càng mạnh mẽ, thiết thực. Tương lai tươi sáng của quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản sẽ tiếp tục đơm hoa, kết trái và sự gắn bó ngày càng bền chặt giữa hai đất nước, hai dân tộc sẽ góp phần vào công cuộc phát triển của mỗi nước, vì hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới./.

Nâng cao trách nhiệm người dùng trong tham gia mạng xã hội

 

Hiện nay, rất nhiều người nghĩ mạng xã hội (MXH) là nơi để giải trí, giao lưu, chia sẻ những cảm xúc cá nhân hay để bày tỏ quan điểm của mình với các hoạt động diễn ra hàng ngày trên MXH. Vì là của cá nhân nên nó không trực tiếp tác động đến người khác hay tới cộng đồng. Đây là một quan điểm rất sai lầm. Bởi, một khi thông tin đã đưa lên MXH, ít nhiều nó cũng tạo ra hiệu ứng. Nếu thông tin được chia sẻ mang tính tích cực, việc loa toả đó sẽ mang lại lợi ích cho cộng đồng, ngược lại nếu thông tin mang tính tiêu cực, sai lệch thì hệ luỵ của nó gây ra là một xã hội hoang mang, mất phương hướng, mất lòng tin…

Chẳng hạn mới đây, nhiều tỉnh thành trên cả nước, thậm chí là ở thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh đã phải ra văn bản chính thức hoặc “lên tiếng” trước việc người dân ùn ùn đi đổi giấy phép lái xe hạng A1 từ bảng giấy sang thẻ PET (thẻ nhựa), gây quá tải tại các điểm tiếp nhận. Đây là hệ luỵ của việc đưa thông tin sai lệch từ những người tham gia mạng xã hội. Bởi trước đó, nhiều tài khoản trên mạng xã hội Facebook, TikTok… thông tin rằng sau ngày 31/12/2023, những ai chưa đổi giấy phép lái xe hạng A1 từ thẻ giấy sang thẻ nhựa sẽ phải thi lại.

Sự thật là trước đó, Dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ triển khai lấy ý kiến người dân, trong đó có nội dung đề xuất đổi toàn bộ giấy phép lái xe mô tô bằng vật liệu giấy sang vật liệu nhựa nhằm thực hiện tốt hơn việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, trong đó có tích hợp giấy phép lái xe. Tuy nhiên, những người đưa thông tin lên MXH đã không thực hiện việc đưa thông tin rõ ràng mà tự “cắt cúp” để đưa theo chủ ý dẫn dắt dư luận của mình.

Hay trước đó, khi Quốc hội thông qua Luật Căn cước (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024) để thay thế cho Luật Căn cước công dân, đồng thời đổi tên thẻ Căn cước công dân thành thẻ Căn cước, rất nhiều tài khoản MXH đưa hoặc còm theo hướng việc làm này là “hành dân”, gây tốn kém và lãng phí tiền thuế của dân… Trong khi việc thay đổi này nhằm giúp công tác quản lý nhà nước khoa học hơn, phục vụ công cuộc chuyển đổi số, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi tham gia các hoạt động xã hội, giao dịch về hành chính, dân sự. Chính việc chia sẻ thông tin một chiều cùng đánh giá có chủ ý này đã khiến cộng đồng MXH có nhiều bình luận tiêu cực.

Như vậy, với tính chất liên kết, chia sẻ rộng rãi thông tin, MXH đã không còn là những cảm xúc, suy nghĩ của mỗi cá nhân mà đã trở thành tâm trạng, cảm xúc chung của nhiều người và ở góc độ nào đó, sự vận động của MXH đã ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm của cả cộng đồng. Đồng thời, với nhiều người dùng MXH, tâm lý thường là thích đọc những thông tin nóng, mới, mang tính hấp dẫn… nhưng ít khi thực hiện việc kiểm chứng, xem nguồn gốc chúng đến từ đâu, có chính xác không. Chính điều này đã khiến một số đối tượng lợi dụng đăng tải, bình luận, chia sẻ nội dung sai sự thật, độc hại, không phù hợp về chuẩn mực đạo đức, văn hóa, thuần phong mỹ tục; thậm chí là những thông tin xuyên tạc, gây hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, gây mâu thuẫn trong xã hội…

Pháp luật Việt Nam quy định, mọi công dân đều có quyền tự do ngôn luận và các quyền tự do dân chủ khác được pháp luật đảm bảo. Tuy nhiên, việc phát ngôn hay bình luận, đăng tải, chia sẻ thông tin trên mạng xã hội và các hình thức khác phải tuân thủ theo quy định của pháp luật, vì vậy nhất thiết phải bảo đảm người dùng MXH phải có trách nhiệm với các thông tin được đưa lên trên không gian mạng./.

Kiên quyết, kiên trì trau dồi Tư tưởng Cộng sản chủ nghĩa


Tư tưởng cộng sản có vị trí đặc biệt quan trọng trong xây dựng Đảng cũng như đối với từng cán bộ, đảng viên. Ngày 8-6-1959, nói chuyện tại Hội nghị cán bộ toàn Đảng bộ Khu Việt Bắc, Người nêu rõ: “Cải tạo xã hội cũ xấu xa trở thành xã hội XHCN tốt đẹp là một sự nghiệp rất nặng nề, nhưng rất vẻ vang. Muốn làm được sự nghiệp ấy, các cán bộ, đảng viên, đoàn viên cần có ý thức giác ngộ XHCN cao, một lòng một dạ phấn đấu cho CNXH”.

Kỷ niệm 39 năm thành lập Đảng, tháng 2-1969, trong tác phẩm nổi tiếng “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Hồ Chí Minh đã đưa ra những vấn đề cơ bản, cụ thể, rất thiết thực trong phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, Người chỉ rõ: “Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”.

Để giữ vững tư tưởng cộng sản chủ nghĩa, phòng, tránh có hiệu quả sai phạm, khuyết điểm, loại bỏ chủ nghĩa cá nhân, chúng ta cần chú ý thực hiện đồng bộ các biện pháp tổng hợp, trong đó có những biện pháp sau đây:

Chủ động, tích cực rèn luyện tu dưỡng tư tưởng cộng sản, đạo đức cách mạng, phòng, chống, loại trừ chủ nghĩa cá nhân một cách liên tục, thường xuyên, tự giác, kiên trì như rửa mặt hằng ngày cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, Nhà nước, đoàn thể, các cấp, các ngành; huy động sức mạnh của cả cộng đồng cùng đoàn kết, thống nhất để tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, không để “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Phát huy vai trò quan trọng của tập thể tổ chức, cơ quan, đơn vị, trong việc xây dựng, tạo ra môi trường tốt đẹp để mọi người cùng rèn luyện, phấn đấu. Thường xuyên tổ chức tốt các phong trào thi đua, các cuộc vận động để cán bộ, đảng viên và quần chúng rèn luyện, phấn đấu.

Duy trì đều đặn, có chất lượng việc quản lý, giáo dục, khen thưởng, kỷ luật, tự phê bình và phê bình. Thực tế cho thấy ở đâu làm tốt công tác quản lý, giáo dục, tự phê bình và phê bình thì ở đó sẽ thật sự nâng cao được hiệu quả chất lượng chính trị tư tưởng và đạo đức tư cách cán bộ, đảng viên.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Mọi cán bộ, đảng viên phải “nghiêm túc tự phê bình, kiểm điểm, tự soi lại mình, đơn vị mình, gia đình mình, cái tốt thì phát huy, cái gì khiếm khuyết thì tự điều chỉnh, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa mình” và trong đó “trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là người đứng đầu, người chủ trì phải gương mẫu, tự giác làm trước”./

Giáng sinh năm 2023 và chính sách tôn giáo của Việt Nam

 


          Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc, đa tôn giáo, nhưng Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm không có sự phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo; không có mâu thuẫn, xung đột giữa các tôn giáo. Người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau cùng chung sống hài hòa trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong các quyền cơ bản của con người. Theo số liệu từ Sách trắng "Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam", hiện nay Việt Nam có trên 26,5 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm 27% dân số cả nước), hơn 54.000 chức sắc, 135.000 chức việc và 29.658 cơ sở thờ tự. Nhà nước Việt Nam đã công nhận 36 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo khác nhau, trong đó Công giáo với trên 7 triệu người theo và 7.771 cơ sở thờ tự.

Lễ Giáng sinh là của những người theo đạo Công giáo, nhằm kỷ niệm ngày sinh ra của người lãnh đạo tôn giáo mình, người mà họ cho là Thiên Chúa xuống thế làm người. Với những chủ trương nhất quán, cứ mỗi dịp Giáng sinh, Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị luôn quan tâm, tao điều kiện tốt nhất để các giáo dân có một mùa Giáng sinh an lành, ấm áp.

Sáng 14-12, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã đến thăm, chúc mừng Tòa tổng giám mục Tổng giáo phận Huế nhân dịp lễ Giáng sinh 2023.

Chiều 23/12, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tới thăm, chúc mừng các linh mục và đồng bào Công giáo tại Giáo xứ Bắc Giang. Tại đây, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trân trọng chuyển lời thăm hỏi, chúc mừng tốt đẹp nhất nhân dịp Giáng sinh 2023 và năm mới 2024 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới các linh mục, tu sĩ và đồng bào Công giáo cả nước nói chung và tỉnh Bắc Giang nói riêng.

 

Chiều 23/12, Đoàn công tác của Đảng, Nhà nước, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam do Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc mừng Giáng sinh năm 2023 tại Tòa Giám mục Giáo phận Vĩnh Long.

Tại các địa phương, cấp ủy, chính quyền, đoàn thể đã có nhiều hoạt động ý nghĩa thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến đồng bào Công giáo.

Những hoạt động trên cùng với tất cả hoạt động xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta là minh chứng rõ ràng nhất cho chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề dân tộc, tôn giáo.  Đó cũng là sự phản biện rõ ràng nhất, mạnh mẽ nhất để phơi bày rõ những sai trái, phi lý trong các âm mưu, luận điệu nói xấu, bôi nhọ, xuyên tạc chính sách, chủ trương của Đảng, Nhà nước, nhằm lợi dụng dân tộc, tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc./.

Tăng cường hun đúc ý chí tự lực, tự cường nhằm hiện thực hóa khát vọng cống hiến và tự hào trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam” cho thanh niên Việt Nam.

 

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra tư tưởng chỉ đạo về công tác đối ngoại: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Ý chí tự lực, tự cường và nội lực là quyết định, cơ bản, lâu dài; sự ủng hộ, giúp đỡ và nguồn lực từ bên ngoài là vô cùng quan trọng. Để thực hiện nhiệm vụ trên, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, vì lợi ích quốc gia - dân tộc; vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vận dụng đúng đắn quan điểm về “đối tượng”, “đối tác”; tăng cường hợp tác, tiếp tục tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, ngăn ngừa xung đột, tránh đối đầu, bị cô lập, phụ thuộc… Tổng Bí thư nhấn mạnh: Quyết tâm xây dựng và phát triển một nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại và mang đậm bản sắc dân tộc - Trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam”.

Để thực hiện thành công đường lối đối ngoại “Cây tre Việt Nam” của Đảng, điều tiên quyết quyết định phải dựa trên sức mạnh đoàn kết và ý chí khát vọng, tự lực tự cường của cả dân tộc và lực lượng thanh niên – rường cột nước nhà, chủ nhân tương lai đất nước. Lịch sử Việt Nam là sự minh chứng sức mạnh của ý chí tự lực, tự cường, khát vọng độc lập, tự do phát triển đất nước. Để chống giặc ngoại xâm và phòng chống thiên tai, toàn dân tộc Việt Nam đoàn kết, tự lực, tự cường dựa vào sức mạnh của mình để cùng nhau chống kẻ thù, xây dựng bảo vệ nền độc lập Khát vọng độc lập dân tộc, ý chí tự lực, tự cường là cốt lõi sức mạnh nội sinh của dân tộc ta. Với khát vọng và ý chí kiên cường đó, dân tộc Việt Nam chiến thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ biên cương Tổ quốc ở Tây Nam và phía Bắc. Trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam phát huy ý chí tự lực, tự cường trong công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - khoa học đất nước, trước sự chuyển biến không ngừng của tình hình trong nước và những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế. Thanh niên đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Ở bất cứ hoàn cảnh nào, trước mọi khó khăn thách thức, thanh niên Việt Nam luôn nỗ lực vượt qua, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ để góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, phồn vinh và hạnh phúc, cần phát huy ý chí tự lực, tự cường của thanh niên Việt Nam. Như lời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Thanh niên có mạnh thì dân tộc mới mạnh; trong sức mạnh của dân tộc có sức mạnh của thanh niên.” Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, xung kích, sáng tạo, đi đầu trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên - lực lượng xã hội có nhiều tiềm năng về sức khỏe, trí tuệ và khả năng thích ứng với mọi sự thay đổi, tác động tới. Họ có tinh thần nhiệt tình, hăng hái, ham học hỏi, có óc sáng tạo. Họ dám mơ ước và theo đuổi ước mơ của mình. Song, do còn những hạn chế nhất định về trình độ, kinh nghiệm sống nên thanh niên dễ bị lôi kéo, kích động, dễ có tâm lý chán nản, bị quan trước những cám dỗ thường nhật. Do vậy, thanh niên cần được định hướng, khơi dậy nội lực để thanh niên phát huy được tài năng, sức lực, tính sáng tạo, có tư tưởng chính trị vững vàng. Ý chí tự lực, tự cường của dân tộc đã bồi đắp tư tưởng và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; góp phần vào những thành công của cách mạng Việt Nam. Ý chí tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn, thôi thúc cổ vũ con người đứng lên, vượt qua những rào cản trên con đường phấn đấu để đạt được mục đích. Ý chí giúp con người phát huy được sức mạnh bên trong của mỗi cá nhân, đôi khi đến mức độ phi thường. Ý chí của một cộng đồng dân tộc dựa trên sự thống nhất về tư tưởng, có lợi ích chung, tạo thành sức mạnh tinh thần to lớn của dân tộc trong giành, bảo vệ nền độc lập cũng như trong xây dựng, phát triển đất nước. Ý chí chính là năng lực thực hiện các hành động có mục đích của con người hay khả năng vượt qua mọi khó khăn để đạt được mục đích. Như vậy, phát huy ý chí tự lực, tự cường cho thanh niên Việt Nam hiện nay là kết quả của quá trình giáo dục, rèn luyện lâu dài và đòi hỏi sự phối hợp của các chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục. Tuổi trẻ là tương lai, muốn có tương lai tốt đẹp thì mỗi thanh niên phải nỗ lực xây dựng bằng ý chí và nghị lực của bản thân; có khát vọng vươn lên lập thân, lập nghiệp, cống hiến sức trẻ và trí tuệ cho sự phát triển của đất nước là một nhiệm vụ cơ bản và cấp thiết./.

“Giặc nội xâm”.

 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng là một loại “giặc nội xâm”. Thứ “giặc” này hết sức nguy hiểm; chúng luồn lách, len lỏi trong từng ngõ ngách của cuộc sống, ngấm ngầm làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực tiễn cho thấy, trong cuộc chiến đấu khốc liệt, trực tiếp đối mặt với kẻ thù để giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, có những người bất chấp mũi tên, hòn đạn, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, nhưng trong hòa bình xây dựng lại sa vào chủ nghĩa cá nhân, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”…, đây có thể nói nó chính là “Giặc nội xâm”

Để chiến thắng thứ “giặc nội xâm” này, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn tự răn mình; các tổ chức đảng phải tìm ra những biện pháp hữu hiệu. Trong cuộc đấu tranh ấy, việc đẩy mạnh tự phê bình và phê bình để phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên hiện nay là vũ khí sắc bén nhất.

Tự phê bình và phê bình thực sự là một cuộc đấu tranh giữa mặt tích cực và tiêu cực, tiến bộ và lạc hậu, cái tốt và cái xấu, cái đúng và cái sai… diễn ra hằng ngày ngay trong bản thân từng cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng.

Để kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng bằng các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ. Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương đến chi bộ; cấp ủy cấp trên chủ động gợi ý kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân ở những nơi có vấn đề phức tạp, có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; coi trọng kiểm tra việc sửa chữa, khắc phục hạn chế, khuyết điểm. Kiểm điểm tự phê bình và phê bình cần “có tâm” và “đủ tầm” chiến thắng “cái tôi”. Cái “tâm” ấy chính là động cơ, mục đích tự phê bình và phê bình; cái “tầm” được thể hiện đầy đủ nhất ở cách thức, phương pháp đấu tranh phê bình: phê bình việc, trứ không phê bình người; phê bình một các trung thực, thẳng thắn, kiên quyết không né tránh, “dĩ hòa vi quý”, “mũ ni che tai”, “trông trước, ngó sau”; không vì động cơ cá nhân, vì “cái tôi”, thay vì giúp nhau cùng tiến bộ, lại lợi dụng phê bình để gây bè, kéo cánh, vạch khuyết điểm của người khác theo kiểu “bới lông, tìm vết” nhằm “hạ bệ” và không “tâng bốc”, “nịnh bợ”, “vuốt ve” nhau… có như thế mới làm cho tự phê bình và phê bình trở thành thứ vũ khí sắc bén nhất để đánh bại “giặc nội xâm”.

Tại Hội nghị Quân ủy Trung ương lần thứ 6, nhiệm kỳ 2023 - 2025 vừa qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương nhấn mạnh cần đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, đủ đức, đủ tài, có uy tín cao; cấp trên phải làm gương cho cấp dưới, chỉ huy phải mẫu mực trước toàn đơn vị.Tổng Bí thư cũng yêu cầu trong quân đội tuyệt đối không để xảy ra tình trạng cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh, đùn đẩy. Muốn vậy, theo Tổng Bí thư, phải chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ quân đội theo tinh thần “7 dám”: “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, và dám hành động vì lợi ích chung”.

Gắn vai trò của giảng dạy lý luận chính trị với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

 

Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 93 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với việc xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối chính trị, Đảng ta luôn xác định công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ trọng tâm và hết sức hệ trọng, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, trong đó hệ thống các trường giáo dục lý luận chính trị có nhiệm vụ đặc biệt, là lực lượng quan trọng, tiên phong trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Để nâng cao chất lượng giảng dạy gắn lý luận chính trị với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay cần nhận thức tốt một số nội dung sau.

Thứ nhất, về nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giảng dạy lý luận chính trị hiện nay.

Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, trong nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị phải coi trọng tổng kết thực tiễn, qua đó kịp thời phát hiện để góp phần bổ sung, hoàn thiện và phát triển tư tưởng, lý luận của Đảng trong điều kiện mới. Văn kiện Đại hội XIII Đảng ta xác định nhiệm vụ của công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị là “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gắn tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với định hướng chính sách”.

Thứ hai, về phương thức trong giảng dạy lý luận chính trị để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng 

Thông qua việc tổ chức hội thi học viên học giỏi lý luận chính trị ở trường chính trị tỉnh, qua bài thi viết, làm tiểu luận, khóa luận tốt nghiệp. Đây là một phương thức quan trọng để đánh giá nhận thức của người học và hiệu quả trong việc tuyên truyền, giảng dạy để bảo vệ nên tảng tư tưởng của Đảng.

Giảng viên chia sẻ, hướng dẫn cho người học nhận diện các quan điểm thù địch, phân tích giảng giải một cách chính xác, khách quan, khoa học giúp cho người học hiểu bản chất vấn đề để đấu tranh, chống lại các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận giá trị khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng. Trên cơ sở đó định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân để họ có được những nhận thức đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Thông qua hình thức nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn: Hệ thống các trường giảng dạy lý luận chính trị tích cực, tăng cường tổ chức Hội thảo khoa học, nghiên cứu làm đề tài khoa học các cấp, viết bài đăng trên báo, tạp chí, webtise…của các cơ quan trung ương và địa phương. Đây là một hình thức góp phần vào thắng lợi của công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

         Thứ ba, vai trò của người giảng viên trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

         Để góp phần vào thắng lợi của công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đòi hỏi mỗi giảng viên giảng dạy lý luận chính trị phải thường xuyên rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng; cần tỉnh táo nhận diện những thông tin sai lệch trong xã hội; chủ động đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

           Đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận chính trị cần tích cực, thường xuyên nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn: viết bài tham gia Hội thảo các cấp, bài đăng trên các báo, tạp chí, trang webtise,…để làm sáng tỏ những nội dung của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phản bác lại những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch đồng thời vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam. Dù ở cách tiếp cận nào, những bài viết khoa học cũng là vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng, góp vào thành công của công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.  

Không thể phủ nhận tình đoàn kết hữu nghị giữa 3 nước Việt Nam - Lào - Campuchia

 


Sáng 14-12, Giao lưu Hữu nghị Quốc phòng biên giới Việt Nam-Lào-Campuchia lần thứ nhất đã diễn ra tại khu vực cột mốc ngã ba biên giới (tỉnh Kon Tum/Việt Nam, Attapeu/Lào và Ratanakiri/Campuchia). Dựa vào sự kiện này, các thành phần chống phá, bất đồng chính kiến với Việt Nam đã điên cuồng chống phá. Ngay sau đó, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) đã đăng tải, tán phát nội dung xuyên tạc Giao lưu Hữu nghị Quốc phòng biên giới 3 nước lần thứ nhất, các hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc phòng của Việt Nam; phủ nhận các hoạt động phối hợp đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới; đồng thời muốn hạ thấp uy tí, hình ảnh của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Không chỉ nhân dân 3 nước mà trên thế giới, ai cũng biết rõ, Việt Nam, Lào và Campuchia là 3 nước láng giềng gần gũi, cùng sẻ chia dòng sông Mê Công nặng phù sa và dãy Trường Sơn hùng vĩ.  Quan hệ truyền thống, đoàn kết hữu nghị, gắn bó Việt Nam - Lào - Campuchia chính là tài sản chung vô giá, tạo nên sức mạnh cả về tinh thần lẫn vật chất để ba nước luôn kề vai sát cánh cùng nhau. Thực tiễn lịch sử đấu tranh giành độc lập cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước tại mỗi nước đã khẳng định thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu không gì lay chuyển nổi của quân đội và nhân dân ba nước. Đó là tình đoàn kết thủy chung, là niềm tin về sự chân thành, trong sáng mà 3 dân tộc dành cho nhau, là sự giúp đỡ hết lòng để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của 3 dân tộc. Tình đoàn kết đã tạo nguồn sức mạnh cả về tinh thần lẫn vật chất, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tiến trình phát triển của mối quan hệ Việt Nam-Lào-Campuchia. Gần 40 năm đổi mới vừa qua, ba dân tộc Việt Nam - Lào - Campuchia đã kế thừa trọn vẹn truyền thống quan hệ tốt đẹp của các thời kỳ trước và không ngừng vun đắp, phát triển mối quan hệ này đi vào chiều sâu trên mọi lĩnh vực, tạo động lực to lớn bảo đảm sự phát triển của hai nước trong những chặng đường tiếp theo. Những thành tựu quan trọng đạt được trong quan hệ giữa ba nước đã góp phần tạo lập, giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố thế và lực của mỗi nước trên trường khu vực và quốc tế.

Việc tổ chức Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam-Lào-Campuchia lần thứ nhất nhằm triển khai kế hoạch hợp tác năm 2023 giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam với Bộ Quốc phòng Lào và Bộ Quốc phòng Campuchia, góp phần tăng cường sự tin cậy chính trị, xây dựng tình cảm hữu nghị, đoàn kết, thúc đẩy hợp tác thực chất giữa lực lượng bảo vệ biên giới ba nước, chính quyền địa phương và nhân dân khu vực biên giới, qua đó đóng góp xây dựng đường biên giới Việt Nam-Lào-Campuchia hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác và phát triển; truyền tải thông điệp về tình đoàn kết, hữu nghị, tương trợ lẫn nhau giữa Chính phủ, quân đội và nhân dân ba nước.

Những nội dung xuyên tạc của các đối tượng chống phá sẽ không chứng minh được thực tế về tình đoàn kết hữu nghị giữa 3 nước Việt Nam-Lào-Campuchia đang ngày càng đi vào chiều sâu và thực chất. Mà đó chỉ là những tiếng kêu lạc loài, khắc khoải giữa hư không mà thôi./.

Vạch trần bộ mặt thật của phần tử cơ hội trên Việt Tân.


Trên trang facebook Việt Tân trong ngày 05/11/2023 tán phát bài “Kinh tế tư bản đỏ rất nguy hại cho đất nước và nhân dân”, nôi dung của bài viết trên với chủ trương là vu cáo, xuyên tạc đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vị trí, vai trò, của các thành phần kinh tế trong đó có thành phần kinh tế nhà nước, xuyên tạc cho rằng Đảng, Nhà nước “sách nhiễu” thành phần kinh tế tư nhân, mà chúng không thấy được mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế, đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, những thành tựu của đất nước ta đã đạt được sau hơn 35 năm đổi mới là minh chứng, thế nhưng các thế lực thù địch vẫn không ngừng tuyên truyền những luận điểm sai trái, xuyên tạc bác bỏ kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam. Thực tế này đòi hỏi cần tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái về vấn đề này. 

Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN - là sự lựa chọn đúng đắn mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn phù hợp với quy luật khách quan, xu thế vận động của thời đại. Chúng cho rằng, kinh tế thị trường và định hướng XHCN như “nước và lửa” không thể kết hợp được với nhau, kinh tế thị trường là của chủ nghĩa tư bản (CNTB), Việt Nam xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN là trái quy luật... Đây đều là sự xuyên tạc vô căn cứ bởi lẽ, thực tế lịch sử cho thấy, khi xã hội có sự phân chia thành giai cấp và sự xuất hiện của nhà nước thì nền kinh tế ở bất kỳ quốc gia nào cũng đều chịu sự định hướng chính trị của một giai cấp nhất định trong xã hội. Đó là giai cấp nắm trong tay quyền lực nhà nước, thông qua nhà nước, giai cấp cầm quyền sẽ đề ra những chủ trương, chính sách nhằm bảo vệ tối đa cho quyền và lợi ích của mình, trước hết là lợi ích kinh tế. Hiện nay các thế lực thù địch tập trung chứng minh: kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế nghĩa là Việt Nam đang “xoay trục” sang phát triển kinh tế thị trường theo hướng TBCN, định hướng XHCN chỉ là mị dân, hình thức. Đây hoàn toàn là ý kiến xuyên tạc, bịa đặt. Trong thời gian vừa qua các thể lực thù địch còn phủ nhận cách thức quản lý, điều hành của Chính phủ với các dự án phát triển kinh tế - xã hội, chúng đâu biết rằng Chính phủ đã quản lý, điều hành các dự án phát triển kinh tế xuất phát từ thực tế một số dự án, doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, do đó cần cổ phần hóa, cấu trúc lại, nhằm qua đó nâng cao hiệu quả quản lý và hoạt động của nhà nước, góp phần xây dựng thành phần kinh tế nhà nước phát triển vững mạnh, thật sự xứng đáng trở thành nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân vừa qua. Do đó, cần hết sức tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai lầm, phi lý và vô căn cứ này; tiếp tục giữ vững niềm tin vào con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn 

Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra nhằm đập tan luận điệu xuyên tạc chiến lược cải cách tư pháp của các thế lực thù địch.

 

Xuyên tạc quan điểm, đường lối cải cách tư pháp là một trong những hoạt động nguy hiểm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch thời gian qua. Âm mưu, ý đồ của chúng là hướng đến tách biệt tổ chức, hoạt động của cơ quan tư pháp (trong đó có Cơ quan điều tra) ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với âm mưu thâm độc đó, các thế lực thù địch tăng cường tuyên truyền, phá hoại tư tưởng về cải cách hệ thống tư pháp. Đặc biệt, trước, trong và sau Đại hội XIII của Đảng, khi toàn bộ hệ thống tổ chức cơ sở Đảng tiến hành tổng kết thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 49) để chuẩn bị ban hành các nghị quyết quan trọng về vấn đề này.

Hoạt động tuyên truyền phá hoại, xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm vào tất cả các bộ phận của cơ quan tư pháp (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án; hệ thống các thiết chế tư pháp, bổ trợ tư pháp…), trong đó chúng “khoét sâu” vào những hạn chế, bất cập của hệ thống tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra. Luận điệu phổ biến là đả phá vào cấu trúc cơ quan điều tra và cho rằng, cấu trúc tổ chức cơ quan điều tra hiện tại là “lạc hậu”, là “biến dạng”, thiếu tính “độc lập”; một số đối tượng còn cho rằng “cơ quan điều tra Việt Nam chỉ là công cụ của Đảng, dùng để đàn áp người chống đối”.

Nguy hiểm hơn, chúng còn sử dụng một số vụ án phức tạp, oan sai, kéo dài để “thổi phồng”, gây tâm lý hoang mang, hoài nghi năng lực của hệ thống cơ quan điều tra, từ đó làm giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với cơ quan điều tra các cấp…

Như vậy, thực tiễn đã khẳng định, quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra là quan điểm xuyên suốt, nhất quán trong tiến trình cải cách tư pháp, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

Qua tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 84-KL/TW (sau đây viết tắt là Kết luận số 84) và chỉ đạo: đổi mới, sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy toà án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo quy định của Hiến pháp năm 2013”. Quán triệt chỉ đạo trên, Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án: “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” đã xây dựng Kế hoạch số 02-KH/BCĐ ngày 20/7/2021, trong đó giao Bộ Công an xây dựng chuyên đề “Cải cách tư pháp trong cơ quan điều tra đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Để có thêm luận cứ, luận điểm tham mưu các cấp lãnh đạo trong đổi mới hệ thống tổ chức, hoạt động của cơ quan điều tra, cần thống nhất một số vấn đề cơ bản sau:

Một là, quá trình tổ chức nghiên cứu, sắp xếp lại hệ thống cơ quan điều tra của Công an nhân dân theo Đề án số 247 về nâng cao năng lực cơ quan điều tra giai đoạn 2021 – 2025 và định hướng đến năm 2030 cần lồng ghép, tích hợp các nội dung với chuyên đề “Cải cách tư pháp trong cơ quan điều tra đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện các quy định của luật pháp có liên quan đến tổ chức và hoạt động điều tra nói chung, của cơ quan điều tra nói riêng, với các nội dung sau:

(1) Những thay đổi về tổ chức bộ máy cơ quan điều tra trên thực tế cần được điều chỉnh, cập nhật ngay trong Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự;

(2) Xây dựng tiêu chí xác định vụ án có liên quan đến an ninh quốc gia hoặc như thế nào là để khách quan, bảo đảm sự phân công hợp lý cơ quan điều tra trong trường hợp trái với thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự;

Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho cơ quan điều tra.Theo đó, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cơ quan điều tra, bảo đảm “vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ điều tra, có khả năng giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra”. Vì vậy, Đảng ủy Công an Trung ương, Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cần tiếp tục chỉ đạo các đơn vị liên quan xây dựng công tác quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác điều tra đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp hiện nay./.

Thận trọng khi chia sẻ thông tin của con trên mạng xã hội.

 

Con cái là niềm hạnh phúc của cha mẹ, là thế hệ đại diện tiếp theo cho sự phát triển của một gia đình. Khi con cái đạt được những thành tích qua từng ngày khôn lớn sẽ làm cho bậc làm cha mẹ phấn khởi tự hào. Nhu cầu muốn chia sẻ lan tỏa niềm vui ấy là một điều hết sức tự nhiên của con người, tùy thời, tùy điều kiện hoàn cảnh mà cách chia sẻ, lan tỏa niềm tự hào của cha mẹ về con cái cũng có sự biểu hiện phong phú khác nhau.

Trong thời kỳ mạng xã hội bùng nổ và liên tục phát triển bứt phá mạnh mẽ đã tác động không nhỏ đến cách thức con người chia sẻ, lan tỏa thông tin bởi tính chất siêu kết nối, truyền thông đa phương tiện của nó, chỉ một ví dụ nhỏ về số lượng người dùng ứng dụng Facebook cũng đã nhiều hơn dân số của một quốc gia bất kỳ trên thế giới (2,963 tỷ người dùng). Từ đó, không ít bậc làm cha mẹ giản đơn trong nhận thức bảo vệ dữ liệu cá nhân của con, chia sẻ tùy tiện hình ảnh riêng tư của con cái. Đó là điều cần phải hết sức thận trọng hiện nay.

Lướt mạng xã hội, không khó để bắt gặp những dòng cập nhật, những bức ảnh trên trang cá nhân chia sẻ về con cái, từ kỷ niệm tuổi mới của con đến những hoạt động thú vị của con trong ngày. Thế nhưng, đã có những bậc cha mẹ lại chia sẻ hình ảnh về con một cách quá đà, từ những khoảnh khắc rất riêng tư đến những trang phục con mặc không phù hợp, không kín đáo.., thậm chí đăng tải gần như tất cả mọi thông tin, hình ảnh của con trẻ mà không lường trước những hệ lụy có thể xảy ra. Bố mẹ cảm thấy vui thì bố mẹ đăng, tuy nhiên bố mẹ cảm thấy vui chưa chắc các con cũng thấy vui. Song các bạn nhỏ đều có quyền trẻ em, trong đó có quyền được tôn trọng và riêng tư. Tại Việt Nam, Điều 32 Bộ Luật Dân sự quy định cá nhân (kể cả trẻ em) có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó đồng ý. Còn theo Luật Trẻ em, một trong những hành vi bị cấm là công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân mà không được sự đồng ý của trẻ từ 7 tuổi trở lên và của cha, mẹ, người giám hộ trẻ.

Nhiều người gọi vui những người có thói quen chụp ảnh, rồi đăng tải mọi hoạt động của con lên mạng xã hội là hành động “phơi mình” trước muôn vàn hiểm họa từ những tổ chức, cá nhân đang ra sức lợi dụng tiến bộ và ưu thế công nghệ, khoa học kỹ thuật, kiểm soát quyền, thu thập nguồn dữ liệu trên sân chơi mà họ tạo ra. Hãy thử tưởng tượng, nếu như bất kỳ ai trên mạng cũng biết con bạn học trường mẫu giáo nào, tên thường gọi là gì, nhà bạn ở đâu, bé thích ăn gì thì sẽ nguy hiểm như thế nào nếu thông tin đó lọt vào tay người có mục đích xấu.

Mới đây, hàng loạt các vị phụ huynh ở các thành phố bị lừa đảo số tiền lớn với chiêu thức con bị cấp cứu. Và theo cơ quan điều tra, 80% do chính cá nhân tự lộ thông tin. Nhiều bậc phụ huynh vô tình làm lộ lọt thông tin cá nhân qua thói quen lên mạng xã hội đăng ảnh con cùng các loại giấy tờ, giấy khen... Điều này đã tạo cơ hội cho kẻ xấu lừa đảo.

Một báo cáo được công bố mới đây cho biết, hiện có đến 46 triệu hình ảnh, video khác thường có liên quan đến chủ đề bóc lột, lạm dụng tình dục trẻ em trong kho lưu trữ của Europol (Cục Cảnh sát châu Âu). Ngân hàng Barclays đã cảnh báo rằng, vào những năm 2030, sẽ có khoảng 7,4 triệu vụ trộm danh tính có thể xảy ra mỗi năm. Đó là hệ quả để lại sau khi thế hệ cha mẹ hiện nay "vô tình" công khai mọi thông tin của con cái lên mạng xã hội.

Từ những vấn đề trên, chúng ta cần đồng thời bảo vệ con cái ở cả đời thực và trên môi trường tương tác không gian mạng. Một trong những đặc tính của không gian mạng là tính lưu giữ thông tin cao và độ lan rộng bất kể không gian thời gian. Một bức ảnh, một dòng trạng thái hôm nay có thể lưu giữ nhiều năm sau. Hãy thận trọng bảo vệ dữ liệu cá nhân của con cho sự an yên của trẻ và gia đình trong hiện tại và cả tương lai trước mọi nguy cơ bị tấn công hướng đích dựa trên chính nguồn dữ liệu thông tin cha mẹ đã vô tư chia sẻ từ trước.  Vì thế trước khi quyết định chia sẻ bất cứ điều gì, hãy suy nghĩ kĩ về hậu quả, không để niềm vui hôm nay trở thành nỗi day dứt mai sau./.

Những chiêu trò chống phá cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo của các thế lực thù địch.

 


Chống phá cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo là một “ngón đòn” thâm độc được họ tập trung thực hiện. Họ xác định giáo dục - đào tạo là một trong những mũi đột phá, là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất để thực hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, lái nền giáo dục Việt Nam đi theo quỹ đạo của phương Tây. Để thực hiện mưu đồ này, họ thực hiện chính sách hai mặt:

Một là, tiến dịch xuyên tạc, phủ nhận thành quả của nền giáo dục - đào tạo Việt Nam, cho rằng nguyên nhân sâu xa và căn bản nhất của tình trạng này là do sự sai lầm trong đường lối lãnh đạo công tác giáo dục - đào tạo của Đảng, sự yếu kém trong quản lý của Nhà nước ta.

Hai là, tiếp tục ra sức quảng bá, tô vẽ, khuếch trương nền giáo dục phương Tây, coi đó là điểm đến lý tưởng, con đường duy nhất để thế hệ trẻ Việt Nam có điều kiện làm “rạng rỡ tương lai, mở mang tiền đồ của đất nước”, thông qua các hình thức hội thảo, tọa đàm, triển lãm du học, thăm quan các trường đại học danh tiếng, chúng khéo léo cài vào đó tư tưởng thoát ly dân tộc, phủ định quá khứ, đề cao lối sống thực dụng kiểu tư bản.

Đây là những luận điệu thâm độc, xảo quyệt của các thế lực phản động, mục tiêu cuối cùng của chúng là xóa bỏ sự lãnh đạo của đảng, xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam, đưa nước ta theo hướng TBCH hoặc phụ thuộc vào chúng.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm lớn cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Đặc biệt, đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách… Nhiều cơ chế, chính sách đã được ban hành và triển khai thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của con em đồng bào các dân tộc và bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục. Trong đó, các trường phổ thông dân tộc nội trú thực hiện mục tiêu tạo nguồn cán bộ và nhân lực có trình độ để đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng vùng dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng và cả nước nói chung…Nhờ có một nền giáo dục phát triển mà đất nước ta đổi mới thành công và đang từng bước khẳng định vị thế trong quá trình hội nhập với thế giới. 

Tuy nhiên thời gian tới, để khắc phục những hạn chế, thiếu sót còn tồn tại, ngành giáo dục nước ta cần nâng cao chú trọng về chất lượng giảng dạy, công tác tuyển sinh; hoàn thành quy hoạch mạng lưới, cơ cấu ngành nghề đào tạo, giáo dục đại học, dạy nghề. Khắc phục tình trạng thiếu giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị đối với giáo dục phổ thông; nhìn nhận thẳng thắn những điểm yếu còn hạn chế không để những phần tử phản động có cơ hội lợi dụng, lên án hay quy chụp cho cả hệ thống giáo dục.

Không để các luận điệu xuyên tạc làm ảnh hưởng đến công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam.

 

Sự nham hiểm của những luận điệu xuyên tạc

Lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị khai thác triệt để, biến tấu thành nhiều bài viết, hình ảnh, video nhằm bịa đặt tình hình, bóp méo sự thật, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta trong công tác quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo; lợi dụng các trang mạng xã hội để lan truyền, tán phát thông tin, gây tâm lý hoang mang, bất ổn, chia rẽ đoàn kết trong nước và quốc tế.

Với những nội dung xuyên tạc xảo trá, họ thường lặp đi lặp lại luận điệu cũ rích rằng: “Cộng sản Việt Nam làm ngơ về vấn đề chủ quyền trên Biển Đông”; Đảng, Nhà nước Việt Nam im lặng vì đã thỏa hiệp với nước lớn, không cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình Biển Đông, không có giải pháp đủ mạnh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo... Những thông tin xuyên tạc này ít nhiều đã tác động tiêu cực tới nhận thức, tư tưởng, tình cảm, niềm tin của một bộ phận nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta.

Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo quốc gia bằng biện pháp hòa bình

Bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, trong đó chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, về biện pháp tiến hành, cần phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo, linh hoạt, thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong các tình huống cụ thể với mục tiêu cao nhất là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia-dân tộc. Quan điểm, lập trường của Việt Nam về vấn đề Biển Đông, về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quốc gia theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) là rất rõ ràng và hoàn toàn có đầy đủ cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn.

Với những vấn đề còn tồn tại bất đồng, tranh chấp, Việt Nam nhất quán giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế. Là một quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đã tham gia ký kết UNCLOS 1982, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật pháp và nguyên tắc quan hệ quốc tế; kiên trì con đường giải quyết các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hòa bình, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và vì hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực, quốc tế.

Việt Nam luôn nỗ lực cao nhất để xử lý các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn trên biển; duy trì quan hệ hữu nghị với các bên, các nước. Kiên trì mục tiêu không để nước ngoài lấn chiếm nhưng cũng không để xảy ra xung đột; kiên trì tìm kiếm giải pháp lâu dài và yêu cầu các bên liên quan không có những hành động quá khích, cực đoan, làm phức tạp thêm tình hình, tuân thủ các cam kết đã ký kết, giải quyết mọi bất đồng trên cơ sở thượng tôn luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982 và nguyên tắc chung sống hòa bình. Coi trọng thúc đẩy xây dựng lòng tin chiến lược với các đối tác; đẩy mạnh hợp tác đa phương trên các lĩnh vực bảo đảm an ninh, nghiên cứu khoa học-công nghệ, phòng, chống tội phạm trên biển... để Biển Đông thực sự là vùng biển hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Tập trung giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục; xây dựng lực lượng bảo vệ chủ quyền, thực thi pháp luật trên biển (hải quân, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng, kiểm ngư, dân quân tự vệ biển) vững mạnh; xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng chính trị-tinh thần vững chắc.

Tích cực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về biển, tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động khai thác, quản lý, bảo vệ biển, đảo phù hợp với luật pháp quốc tế. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, pháp lý, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, an ninh; tăng cường hợp tác quốc tế, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại quốc phòng về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.

Một Đảng lãnh đạo – nguyên tắc nhất quán của Đảng ta

 

Trong những năm gần đây, các phần tử cơ hội đưa ra thuyết “Đảng trị” với ý đồ xấu xa là đòi xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xoá bỏ chế độ XHCN, chúng cho rằng sự lãnh đạo một Đảng ở Việt Nam mâu thuẫn với học thuyết Mác Xít, một Đảng lãnh đạo đã dẫn đến chế độ “Đảng trị”, gây tai họa cho XH, không có tự do dân chủ, có một Đảng lãnh đạo thì kéo theo nhiều thứ “độc”: độc tài, độc quyền, độc đoán và khi nền kinh tế Việt Nam đã phát triển nền kinh tế nhiều thành phần thì đương nhiên thượng tầng kiến trúc phải chuyển sang chế độ đa đảng mới phù hợp với học thuyết hình thái kinh tế xã hội của Mác. Họ cho rằng chỉ có chế độ đa đảng thì người lãnh đạo mới “chính đáng”, để có dân chủ, phải đa nguyên về chính trị; thực hiện phát triển kinh tế thị trường mà vẫn duy trì chế độ nhất nguyên về chính trị, một đảng duy nhất cầm quyền sẽ là một mâu thuẫn lớn gây bi kịch cho dân tộc. Từ đó, những người theo quan điểm này đề nghị phải xác lập chế độ đa đảng đối lập, phải xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp.

Trước tình hình trên Đảng ta đã khẳng định: Định hướng XHCN dứt khoát phải thực hiện chế độ một đảng, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Đây là một nguyên tắc nhất quán của Đảng ta, nhằm nâng cao năng lực, sức chiến đấu để Đảng ngang tầm với nhiệm vụ và tình hình mới.

Nhìn lại chế độ đa nguyên chính trị ở các nước TBCN về hình thức có vẻ rất dân chủ, các đảng đều có quyền tự do tranh luận, ứng cử và bầu cử... để trở thành Đảng cầm quyền. Nhưng thực chất chỉ có những đảng lớn, có thế lực và có sự hậu thuẫn của các tập đoàn tư bản lớn, mới có khả năng thắng cử và trở thành đảng cầm quyền. Các đảng lớn thay thế nhau cầm quyền nhưng xét cho cùng dù là đảng nào trong giai cấp tư sản giành thắng lợi thì mục tiêu chính trị cũng là phục vụ giai cấp tư sản. Cho nên, về thực chất, “Đa nguyên chính trị tư sản” cũng là nhất nguyên chính trị của giai cấp tư sản mà thôi, các đảng cầm quyền tư sản luôn  tìm mọi cách che đậy thực chất của sự chuyên chính tư sản và họ cố gắng điều chỉnh phần nào quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và tầng lớp để làm dịu bớt những mâu thuẫn của CNTB bằng các chương trình phát triển KT-XH, các chính sách an sinh XH...

Dưới CNXH, Đảng cộng sản là lực lượng duy nhất lãnh đạo quần chúng giành chính quyền từ giai cấp bóc lột. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là thực hiện sự chuyên chính của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với bất cứ ai chống lại lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, dân tộc Việt Nam và con đường của nhân dân ta đã được lựa chọn; đồng thời, cũng là điều kiện tiên quyết để đảm bảo toàn bộ quyền lực nhà nước ta thực sự là của nhân dân. Nếu thực hiện “đa nguyên chính trị” “đa đảng đối lập”, thì điều này không những trái với quy định của lịch sử cách mạng Việt Nam, mà còn tổn hại đến lợi ích nhân dân lao động và tiền đồ của dân tộc.

Trong bối cảnh hiện nay, các phần tử cơ hội chính trị cho rằng Đảng cộng sản Việt Nam là độc đảng sinh ra độc đoán, độc tài, độc quyền, mất dân chủ ... Nhưng họ đã bỏ qua một sự thật thực tế là trong đường lối lãnh đạo của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn kiên trì giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Phấn đấu thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hiện nay, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước; trước sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch; trước yêu cầu mới của sự nghiệp đổi mới và trước thực trạng yếu kém bất cập trong công tác xây dựng Đảng, đòi hỏi Đảng ta phải quan tâm hơn nữa đến công tác xây dựng Đảng, xem công tác xây dựng Đảng không những là vấn đề có tính quy luật, mà còn là vấn đề cấp bách hiện nay. Sự nghiệp xây dựng, chỉnh đốn Đảng cầm quyền là công việc cực kỳ khó khăn, phức tạp. Song, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta hoàn toàn có quyền tin tưởng rằng: Đảng cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh và trí tuệ, từng bước vươn lên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới./.         

Vẫn cố tình can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam

      

Sau khi phiên tòa xét xử sơ thẩm bị cáo Hoàng Thị Minh Hồng về tội trốn thuế (theo quy định tại Khoản 3, Điều 200 Bộ luật Hình sự năm 2015) khép lại, một số trang mạng như: VOA tiếng Việt; BBC News tiếng Việt; Đài RFA; RFI… liên tục đăng phát ý kiến của các tổ chức mang danh nhân quyền quốc tế tỏ ra nghi ngờ việc bà Hoàng Thị Minh Hồng bị cáo buộc về tội “trốn thuế”; tỏ rõ thái độ bênh vực, thậm chí còn đòi trả tự do ngay lập tức cho “nhà hoạt động môi trường” này. Chưa dừng ở đó, các trang mạng nói trên còn dẫn lời một số “chuyên gia nhân quyền” cho rằng, vụ bắt giữ, điều tra, xét xử bà Hoàng Thị Minh Hồng và các vụ bắt giữ, xét xử thời gian gần đây là “một phần của chiến dịch đàn áp các nhóm xã hội dân sự... của Đảng Cộng sản Việt Nam”.

Cần phải khẳng định rằng, sự hoài nghi của một số tổ chức mang danh nhân quyền quốc tế là hoàn toàn vô căn cứ, không có cơ sở và nhằm dụng ý xấu. Theo cáo trạng, bà Hoàng Thị Minh Hồng là Giám đốc Trung tâm Hành động và liên kết vì môi trường và phát triển (Change). Quá trình hoạt động, từ năm 2012 - 2022, trung tâm Change phát sinh doanh thu hơn 69 tỷ đồng. Với vai trò giám đốc, bị cáo Hoàng Thị Minh Hồng đã chỉ đạo nhân viên thuộc quyền không xuất hóa đơn giá trị gia tăng, không thực hiện đầy đủ thủ tục về kế toán, hóa đơn, chứng từ... nhằm trốn thuế hơn 6,7 tỷ đồng... Trước Hội đồng xét xử, bị cáo Hoàng Thị Minh Hồng đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin được hưởng lượng khoan hồng… Như vậy, mọi tình tiết liên quan đến vụ án là rất minh bạch, rõ ràng. Bản án 3 năm tù giam dành cho Hoàng Thị Minh Hồng là đúng người, đúng tội, thể hiện sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Chỉ có những người với cái nhìn thiển cận, chủ quan, phiến diện mới tỏ ra hoài nghi trong chuyện này.

Việc bắt giữ, điều tra, xét xử đối với công dân vi phạm pháp luật là công việc nội bộ của Việt Nam. Các tổ chức, cá nhân nào đứng ra bênh vực và đòi trả tự do ngay lập tức cho “nhà hoạt động môi trường” Hoàng Thị Minh Hồng là hành động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Việc làm ấy vừa vi phạm nghiêm trọng công ước, vừa trái nguyên tắc quốc tế về cấm can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Nghị quyết Liên hợp quốc về nguyên tắc “không can thiệp vào công việc nội bộ” được thông qua năm 1965 và được thể hiện trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng khác đó là: “Tuyên bố cấm can thiệp vào công việc nội bộ, bảo vệ độc lập và chủ quyền của các quốc gia”. Nội dung của nguyên tắc này không cho phép bất kỳ quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, dù văn minh hay lạc hậu được quyền can thiệp vào các lĩnh vực thuộc thẩm quyền riêng biệt của mỗi quốc gia, xuất phát từ chủ quyền của mình… Pháp luật Nhà nước Việt Nam cũng quy định rõ các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam và thành viên của những cơ quan đó phải: Tôn trọng pháp luật và phong tục, tập quán của Việt Nam; không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Từ tội “trốn thuế” một số đối tượng thuộc các tổ chức mang danh nhân quyền quốc tế lại xảo biện cho rằng, đó là “bắt giữ nhà hoạt động khí hậu”, “nhà hoạt động môi trường”... là không đúng với bản chất của vụ án, cố tình bóp méo, xuyên tạc trắng trợn sự thật, suy diễn, dựng chuyện vu cáo Nhà nước Việt Nam bỏ tù các “nhà hoạt động môi trường...”.

Luận điệu cho rằng, việc xét xử bà Hoàng Thị Minh Hồng và các vụ bắt giữ những năm gần đây là “một phần của chiến dịch đàn áp các nhóm xã hội dân sự... của Đảng Cộng sản Việt Nam” là xuyên tạc, dựng chuyện, vu khống trắng trợn. Ở Việt Nam chẳng hề có “chiến dịch” nào cả. Đó là suy nghĩ thấp hèn, hồ đồ của những kẻ mang tâm địa xấu xa, đen tối, chuyên chống phá Việt Nam. Mục đích việc làm của họ không gì khác là khiến cho người đọc hiểu sai bản chất các vụ án, vụ việc trong thời gian qua để kiếm cớ chống phá Việt Nam.

Ở Việt Nam không bao giờ có chuyện bắt, giam giữ, xét xử tùy tiện các nhà bảo vệ môi trường chân chính, đúng nghĩa. Chỉ có những người lợi dụng hoạt động bảo vệ môi trường vi phạm pháp luật, phạm tội mới bị bắt, giam giữ và điều tra, xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Những tổ chức, cá nhân khoác áo “bảo vệ môi trường” để thực hiện ý đồ chính trị, dựng chuyện, vu cáo, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam là không thể chấp nhận.