Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2021

Cuối năm lại diễn trò lố

 

H.D

Lệ thường, dịp cuối năm, các nơi tổ chức tổng kết, bình bầu thi đua khen thưởng, đánh giá lại năm cũ và khởi động cho năm mới. Tổ chức Việt Tân cũng học theo nếp đó nhưng lại ở khía cạnh diễn trò lố bịch: tung hô, “trao giải” cho kẻ phản dân, hại nước.

Hôm 18/11, tổ chức khủng bố Việt Tân tiếp tục khuếch trương về “giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng 2021”. Thông tin rêu rao: “Giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng năm 2021 với chủ đề nghĩa đồng bào trong mùa đại dịch, để vinh danh những hoạt động cứu trợ dân nghèo khó trong đại dịch COVID-19 vừa qua đã bị chính quyền bỏ rơi”. Đồng thời, Việt Tân “mong mỏi giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng năm 2021 sẽ là một đóng góp thêm nữa vào phong trào dân giúp dân”. Trong thông báo này, Việt Tân đã sử dụng những cụm từ đánh vào lòng nhân nghĩa của con người để lừa bịp, đó là lấy danh nghĩa “cứu trợ dân nghèo khó trong mùa đại dịch”, “đóng góp vào phong trào giúp dân”…  Xem qua, thiết tưởng như đây là hành động nhân ái nhằm giúp đỡ đồng bào nghèo khó trong đại dịch COVID-19, từ đó có thể chạm vào lòng trắc ẩn, bao dung của con người. Tuy nhiên, đó chỉ là lớp sơn để che đậy bản chất xảo trá của tổ chức khủng bố, phản động này.

Giải thưởng là thể hiện sự tôn vinh cho tập thể hay cá nhân nào đó có thành tích, cống hiến. Giải thưởng mang tên nhân quyền còn thể hiện giá trị thiêng liêng, cao quý bởi ý nghĩa của cụm từ này. Vậy mà những tổ chức chống phá lại lấy cớ trao thưởng để tập hợp những thành phần là tội phạm chống phá đất nước, chống phá nhân dân, biến hành vi phạm tội của các đối tượng thành những danh xưng mĩ miều “đấu tranh cho tự do dân chủ”, “vì tiến bộ xã hội”, “vì quyền con người”… Rõ ràng, các tổ chức này đã xâm phạm, bôi nhọ lên giá trị quyền con người nhưng lại tự huyễn hoặc bảo vệ quyền con người, vì con người.

 

 

 

Những đóng góp thầm lặng của người lính trong cuộc chiến chống Covid -19 hiện nay

 


Đ.T

Đại dịch Covid-19 tiếp tục lây lan nhanh, gây khó khăn rất lớn cho công tác phòng, chống của tất cả các nước trên thế giới và Việt Nam cũng không ngoại lệ.Trong cuộc chiến chống Covid-19 ở Việt Nam có những đóng góp thầm lặng của những người lính.Có thể thấy, những người lính luôn là lực lượng nòng cốt, xung kích tích cực, chủ động trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 trên nhiều mặt trận, như: Những người lính biên phòng tuần tra, kiểm soát vùng biên không để ngăn chặn dịch Covid-19 xâm nhập; người lính hóa học khoanh vùng, phun hóa chất dập dịch; những người lính nhường doanh trại cho người dân thực hiện cách ly; người lính phóng viên, phát thanh, truyền hình, làm công tác dân vận kịp thời thông tin, tuyên truyền những quyết sách của Đảng, Nhà nước và các khuyến cáo phòng, chống dịch Covid-19 của Bộ Y tế. Đặc biệt, những người lính là các nhà khoa học, bác sĩ, y sĩ, dược sĩ luôn phát huy cao nhất tinh thần, trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân, không quản ngại khó nhọc, hiểm nguy lấy mẫu xét nghiệm và chữa trị bệnh nhân Covid-19. Những hoạt động thầm lặng của người lính trong cuộc chiến chống Covid-19 đã tiếp nối truyền thống cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, khi nào Tổ quốc cần, nơi nào nhân dân khó là có các quân nhân; thể hiện bản chất giai cấp công dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ của người lính Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng./.

 

Luận điệu suy diễn quy định mới về những điều Đảng viên không được làm

 


H.D

Ngày 25/10/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 37-QĐ/TƯ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng quy định “Về những điều đảng viên không được làm” thay thế Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 1/11/2011 trước đây.

Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phản động xuyên tạc những nội dung trong Quy định số 37, từ đó suy diễn, tự cho mình vai trò “người phát xét” để quy kết, chỉ trích chế độ, chỉ trích vị trí, vai trò của Đảng.Trên nhiều trang mạng của cá nhân, tổ chức thù địch, phản động, hội đoàn chống cộng hải ngoại xuyên tạc rằng, việc Đảng ban hành quy định mới chứng tỏ sự mục nát, là “vá những lỗ thủng quá nhiều của chế độ”. Các đối tượng vu cáo gốc rễ của tham nhũng là “do lỗi của thể chế chính trị”, lỗi hệ thống tạo ra chứ không phải do biện pháp thực hiện. Từ đó quy kết việc Đảng đưa ra hết biện pháp này đến biện pháp khác để chống tham nhũng mà không thay đổi chế độ thì không bao giờ chống tham nhũng được. Đưa ra luận điệu “Đảng đứng trên pháp luật”, các đối tượng suy diễn “Đảng loay hoay, mò mẫm soạn ra các văn bản giấy tờ quy định cấm cho thêm rắc rối, chồng lấn pháp luật, vì những điều ấy pháp luật cũng cấm rồi, đảng viên cũng là công dân, thêm điều cấm là Đảng đứng trên, đứng ngoài pháp luật”!

Thực chất, đây là những luận điệu hòng hạ thấp mục tiêu, vai trò, ý nghĩa của Quy định mới về những điều đảng viên không được làm, tạo ra diễn biến tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, làm giảm niềm tin đối với công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phủ nhận thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Và cuối cùng là làm suy giảm niềm tin, hạ thấp, thúc đẩy, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

Trước hết cần khẳng định, quy định về kỷ luật Đảng là công tác hệ trọng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đây là công việc thường xuyên, liên tục và mang tính kế thừa. Việc bổ sung một số quy định mới để đảm bảo đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đảm bảo tính khách quan, khoa học. Từ đó, tổ chức Đảng, đảng viên có cơ sở, căn cứ để rèn luyện, tu dưỡng, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ. Do đó, không thể lợi dụng vào một số quy định mới để xuyên tạc, suy diễn.

Việc Đảng ta sửa đổi, bổ sung Quy định về những điều đảng viên không được làm không chỉ thể hiện sự quyết tâm của Đảng mà còn tạo niềm tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

 

 

 

 

Núp bóng “tổ chức đại diện người lao động” để chống phá Đảng, Nhà nước

 


H.D

Lợi dụng quy định của pháp luật cho phép thành lập “tổ chức đại diện người lao động” tại doanh nghiệp không thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN), thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động và phần tử xấu ráo riết tuyên truyền, lôi kéo công nhân, người lao động nhằm tập hợp, hình thành lực lượng chính trị đối lập dưới vỏ bọc các tổ chức “công đoàn độc lập” ở Việt Nam.

Ngày 20/11/2019, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Lao động (sửa đổi), có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2021, trong đó quy định cho phép thành lập “tổ chức đại diện người lao động” tại doanh nghiệp ngoài công đoàn, trên cơ sở phù hợp với các quy định quốc tế về lao động và tuân thủ các hiệp định thương mại tự do mới mà Việt Nam đã tham gia. Khoản 2, Điều 170 Bộ luật Lao động năm 2019 (sửa đổi) quy định: “Người lao động trong doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập và tham gia hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp theo quy định của pháp luật”. Đây là một vấn đề mới, chưa từng có tiền lệ trong pháp luật lao động Việt Nam.

Lợi dụng quy định này, các thế lực thù địch, phản động và phần tử xấu đang ra sức tuyên truyền, lôi kéo, kích động công nhân, người lao động trong các doanh nghiệp thành lập “tổ chức đại diện người lao động” nhằm biến tướng thành các tổ chức “công đoàn độc lập” tại Việt Nam; từng bước tập hợp lực lượng, xây dựng ngọn cờ, kích động biểu tình, đình công, đòi tự do, dân chủ… Âm mưu của chúng là nhằm hình thành lực lượng chính trị đối lập trong nội địa, tiến tới thực hiện “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” lật đổ Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ chính trị tại Việt Nam.

Thời gian qua, bên cạnh những kết quả tích cực, hệ thống Công đoàn Việt Nam vẫn chưa thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích của công nhân, người lao động dẫn đến nhiều nơi tỉ lệ công nhân, người lao động tham gia công đoàn chưa cao. Đây sẽ là điều kiện mà các thế lực thù địch, phản động và phần tử xấu lợi dụng nhằm lôi kéo, kích động công nhân, người lao động thành lập các “tổ chức đại diện người lao động”, âm mưu tập hợp lực lượng, thúc đẩy sớm ra đời tổ chức “công đoàn độc lập”, “nghiệp đoàn độc lập” tại Việt Nam nhằm tạo dựng lực lượng chính trị đối lập, tiến tới thực hiện mưu đồ thay đổi chế độ chính trị tại Việt Nam. Bởi vậy, hơn lúc nào hết chúng ta cần tỉnh táo, cảnh giác để nhận diện và đấu tranh với thủ đoạn nguy hiểm này. Cần tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho công nhân, người lao động nắm rõ mục đích, ý nghĩa việc tham gia Công đoàn, đồng thời nhận diện âm mưu của kẻ xấu lợi dụng việc kêu gọi thành lập các tổ chức công đoàn độc lập, giúp công nhân tẩy chay, loại trừ.

Suy thoái tư tưởng chính trị căn bệnh “ung thư” nguy hiểm"

 


M.H

Suy thoái tư tưởng chính trị, thực chất là sự phản ánh sai lệch bản chất của Đảng Cộng sản, từ việc phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng, xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi thường chủ trưởng, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đó là do tuyệt đối hóa cái chủ quan, đề cao chủ nghĩa cá nhân, làm cho mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta cũng như những cái tốt, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa bị xuyên tạc trở thành méo mó, thực hư, thật giả, lẫn lộn trắng đen. Vì thế, cái xấu, cái ác có cơ hội nảy nở, “lên ngôi”, cái tốt, cái thiện bị lấn át, nhấn chìm. Do vậy, có thể coi suy thoái chính trị như là căn bệnh “ung thư” nguy hiểm và hậu quả khó lường.

Căn nguyên của sự suy thoái về tư tưởng và sự phản ánh sai lệch các giá trị, chuẩn mực đạo đức, lối sống có thể nhìn nhận từ hai góc độ: Thứ nhất, bộ óc người – khí quan vật chất sản sinh ra tư tưởng bị tổn thương do sự cố tai nạn hoặc bị rối loạn chức năng tâm sinh lý gây nên tình trạng bất bình thường của hệ thần kinh trung ương. Thứ hai, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một số người là do bộ óc của họ “có vấn đề”, “lương tâm, danh dự” đã bị hoen ố, lu mờ; tự thân không thể nhận thức đúng sai, không phân biệt rõ ràng phải trái; không thể điều chỉnh thái độ, hành vị trong các mối quan hệ, giao tiếp, ứng xử để đạt đến sự chuẩn mực về giá trị đạo đức nên đã rơi vào lối sống tùy tiện, buông thả, “quên tình nghĩa, xa rời đạo lý”; đề cao vật chất, sùng bái đồng tiền; nặng nề hưởng thụ, ham chức, cậy quyền, đề cao “cái tôi”, coi thường tổ chức, chà đạp lên tập thể, rơi vào “vũng bùn” của chủ nghĩa cá nhân. Hiện tượng này tuy không phải là phổ biến, chỉ rơi vào một số người “bị bệnh hoạn” nhưng lại gây hại lớn cho xã hội; làm nhiều người tốt lo ngại, trăn trở, băn khoăn; thậm chí khủng hoảng niềm tin vào chân lý, có nơi lòng tin của một bộ phận người dân đối với Đảng, Nhà nước, nhất là đối với tổ chức đảng và chính quyền địa phương bị giảm sút nghiêm trọng.

Có thể khẳng định, sự suy thoái về tư tưởng chính trị là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến sai lầm, suy thoái về đạo đức, lối sống và ngược lại. Cho nên, muốn không bị suy thoái về tư tưởng chính trị dẫn đến các loại suy thoái, biến chất khác thì chính trị của ta phải mạnh lên, đạo đức của ta phải trong sáng; lối sống của ta phải lành mạnh. Một vấn đề có tính nguyên tắc (bất di bất dịch) là phải quan tâm chăm lo công tác giáo dục chính trị tư tưởng; ra sức xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chiếm vị trí thống trị, trở thành nền tảng trong đời sống văn hóa – tinh thần xã hội. Đồng thời, phải làm tốt hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát, giáo dục cán bộ, đảng viên; kiên quyết xử lý nghiêm minh những người vi phạm pháp luật, kỷ luật; kịp thời đưa những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất; không đủ tư cách ra khỏi tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII và Kết luận số 21- KL/TW, ngày 25 tháng 10 năm 2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đã chỉ ra tác hại khôn lường của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và các giải pháp khắc phục căn bệnh ấy. Đây là dịp tốt để chúng ta nhận diện ngày càng rõ hơn những người mắc “căn bệnh này”, có biện pháp “hạ nhiệt” cho những người thường hay ác cảm và nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa; hay ca ngợi và muốn đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, thích sống theo kiểu văn hóa phương Tây: đề cao vật chất sùng bái đồng tiền; coi thường tình nghĩa, đạo lý; phủ nhận truyền thống, lịch sử dân tộc…

Quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đang đặt ra nhiều việc phải làm, nhất là trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Các cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền các cấp cần phải có những giải pháp hữu hiệu để giúp đỡ một số cán bộ, đảng viên sửa chữa sai lầm, khuyết điểm do “bị thương” bởi “viên đạn bọc đường” của thời kinh tế thị trường, bị mua chuộc bởi những kẻ làm ăn phi pháp; có lúc đã trở thành tù nhân của lương tâm, nô lệ của đồng tiền, trở lại đội ngũ, thành người lương thiện. Công việc này có giá trị rất tốt là khi các đồng chí ấy quay về đội ngũ sẽ là nhân cốt tích cực trong cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ; tham nhũng, tiêu cực trong xã hội ta hiện nay.

Mối quan hệ giữa suy thoái về tư tưởng chính trị và suy thoái đạo đức, lối sống là mối quan hệ giữa “kẻ tung người hứng”, a dua tòng phạm, cùng dẫn đến hệ lụy phá bỏ chế độ, lũng đoạn nền nếp, trật tự, kỷ cương, rũ bỏ luân thường đạo lý, vi phạm kỷ luật, làm sai luật pháp; gây hậu họa cho nhiều gia đình tổ chức; tác động tiêu cực cho xã hội, cản trở tiến bộ lịch sử. Cho nên, cần hiểu rằng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là “một cơ thể mang bệnh ghép”, gồm ba căn bệnh trong một con người: suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái về đạo đức, suy thoái về lối sống. Cả ba căn bệnh ấy đều bám nhau, dính chặt trên một cơ thể người bị “lệch chuẩn”, bệnh hoạn nên rất khó phân biệt một cách rạch ròi bản chất, nguyên nhân của từng loại bệnh. Ai đó chỉ cần mắc một chứng bệnh là lập tức bị lây nhiễm, mắc các chứng bệnh khác ngay lập tức. Đương nhiên, ổ bệnh gây mầm vẫn là suy thoái về tư tưởng chính trị xét một cách toàn cục mà nói. Sự phát bệnh và biểu hiện rõ nhất, dễ nhìn thấy nhất có khi lại bắt đầu từ các hành vi thoái hóa đạo đức, lối sống thông qua các hành động “lệch chuẩn” của nó.

Nói cách khác, sự suy thoái về tư tưởng chính trị thường được che đậy, ngụy trang kín đáo, tinh vi, rất khó nhìn thấy, nhất là đối với một số người từng trải, có nhiều kinh nghiệm thực tế; song sự “hư đốn” lại thấy dễ dàng hơn bởi sự buông thả, tùy tiện ở một số người này như tham nhũng, vun vén lợi ích cá nhân, ăn chơi xa đọa. Suy thoái tư tưởng chính trị là dấu hiệu đầu tiên và quy định nguồn gốc, bản chất, hình thức biểu hiện của sự suy thoái về đạo đức, lối sống. Nếu sự suy thoái về tư tưởng chính trị được loại bỏ hoặc mất đi thì sớm hay muộn, suy thoái về đạo đức, lối sống cũng có thể sẽ dần mất theo và ngược lại.

Vì vậy, (1) Phải kiên quyết hơn nữa trong triển khai thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng; kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm khắc những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, suy thoái trong tổ chức đảng. Đồng thời, (2) Đẩy mạnh hơn nữa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; xây dựng hệ thống pháp luật, các chế độ, quy định thật cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ để đủ sức ngăn ngừa, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; làm tốt công tác quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ; chọn đúng người có thực đức, thực tài để bố trí vào các vị trí chủ chốt, chủ trì quan trọng. (3) Đổi mới cơ chế, chính sách, chế độ đãi ngộ để cán bộ, đảng viên có đủ điều kiện “bảo liêm”, “dưỡng liêm”, làm tốt việc nêu gương cho quần chúng học tập, noi theo. (4) Giải quyết tốt mối quan hệ giữa suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một biện pháp nhất thiết phải làm, nhằm gột rửa cho sạch thói hư, tật xấu của một bộ phận cán bộ, đảng viên do thiếu rèn luyện, tu dưỡng, để uy tín, danh dự của Đảng ta ngày càng thêm tỏa sáng, sống mãi trong lòng nhân dân; là cách tốt nhất để thực hiện thành công mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đưa đất nước ta phát triển phồn vinh, hạnh phúc đúng như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã vạch ra./.

 

Một cái nhìn bi quan và hạn hẹp về tương lai hay lòng “Trắc ẩn”

 


M.H

Khi Bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được công bố ngày 16/5/2021, trên các trang mạng xã hội gần đây có lan truyền bài viết của một người được coi là nhà phản biện có tiếng, nguyên là giáo sư của một trường Đại học kỹ thuật tại Hà nội, từng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Vị giáo sư, sau khi đọc bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đã nêu nhiều phản bác, trong đó có hai khẳng định: Một là “Làm gì có Chủ nghĩa xã hội”; Hai là “Lựa chọn Chủ nghĩa xã hội là của Đảng, không phải lựa chọn của nhân dân”. Đây là quan điểm không mới, trước đây đã từng được một số người nêu lên và chắc sẽ còn có người tiếp tục nêu lên, vì vậy cần phải trao đổi, làm rõ hai vấn đề trên với vị giáo sư với hy vọng có thể góp một tiếng nói để xây dựng nhận thức chung

Có Chủ nghĩa xã hội không ?

Rất nhiều người biết, Chủ nghĩa xã hội được đề cập từ ba góc độ: một là, lý luận về một xã hội lý tưởng với các giá trị như công bằng, bình đẳng, nhân đạo, hạnh phúc…; hai là, phong trào vận động chính trị-xã hội nhằm đạt tới xã hội tốt đẹp đó; ba là, một chế độ xã hội hiện thực, tồn tại trên thực tế.

Theo nghĩa thứ nhất, chủ nghĩa xã hội đã và sẽ luôn là một lý tưởng tốt đẹp để loài người vươn tới. Chỉ có những ai không muốn hoặc bi quan, hoài nghi về bản chất của con người mới phủ nhận lý tưởng tốt đẹp đó đó.

Theo nghĩa thứ hai, từ cách đây gần 200 năm, ở châu Âu đã xuất hiện các phong trào xã hội, thậm chí là những thử nghiệm xã hội trong phạm vi nhỏ, nhằm hiện thực hoá lý tưởng tốt đẹp đó nhưng không đạt kết quả mong muốn. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” viết năm 1848, Mác, Ănghen coi đó là những ý tưởng tốt đẹp, nhân đạo nhưng do nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan, đó là các mô hình của “Chủ nghĩa xã hội không tưởng”.

Trong gần 200 năm qua, ở khắp nơi trên thế giới, tuỳ từng hoàn cảnh, điều kiện, trình độ phát triển, loài người vẫn tiếp tục phát triển lý luận, thậm chí tiến hành các phong trào xã hội để hiện thực hoá lý tưởng muôn đời của mình. Một trong những dòng lý luận và phong trào xã hội đó là của Mác, Ănghen, Lênin và đã dẫn đến sự ra đời trong thế kỷ XX một mô hình chủ nghĩa xã hội tồn tại ở Liên Xô và một số nước Đông Âu trong nhiều thập kỷ. Đó là chủ nghĩa xã hội theo nghĩa thứ ba, tức là một chế độ xã hội-chính trị và được gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực”. Mô hình đó cũng đã nảy sinh (nhưng trên nền tảng kinh tế-xã hội thấp hơn) ở Trung Quốc, Cu Ba, Việt Nam từ giữa thế kỷ XX. Nhiều nước ở Châu Mỹ, Châu Phi trong những năm 70 sau khi giành độc lập dân tộc cũng tuyên bố đi theo chủ nghĩa xã hội. Từ khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ vào cuối thập niên 80, đầu 90 thế kỷ trước, rất nhiều ý kiến cho rằng sẽ không còn, không có chủ nghĩa xã hội và những nơi nào còn tiếp tục “định hướng xã hội chủ nghĩa” sẽ chịu thất bại mà thôi (?).

Phải thừa nhận rằng, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là sự thất bại lớn của phong trào xã hội chủ nghĩa. Song, không vì thế mà nói đơn giản là sự chấm dứt của chủ nghĩa xã hội. Đúng là mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, bên cạnh những thành tựu to lớn, đã có những khuyết tật cần phải sửa đổi, song đó là những khuyết tật của một xã hội còn đang trên đường hoàn thiện, chứ chưa phải đã hoàn thiện, đã chín muồi (như có nhiều người từng nghĩ). Chính vì vậy, đổi mới, cải tổ là cần thiết, đúng đắn. Song, câu hỏi đặt ra là có nước cũng đi theo lý luận đó, mô hình đó và cũng thực hiện cải cách, đổi mới mà tại sao không bị sụp đổ và còn phát triển vượt bậc về mọi mặt, chỉ trong vòng hơn 4 thập niên đã trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới? Vậy, trong số những nguyên nhân dẫn đến sụp đổ ở Liên Xô, Đông Âu thì nguyên nhân trước hết là do cá nhân người lãnh đạo công cuộc cải tổ. Có nhiều bằng chứng cho thấy họ đã từ thiếu bản lĩnh, đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” dẫn đến đánh mất chế độ.

Thực tiễn hơn 30 năm qua cho thấy, mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở thế kỷ XX có thể sửa đổi được, trước hết là từ thay đổi nhận thức, đổi mới lý luận. Một lý luận dù đã có thời phù hợp với thực tiễn, song nếu không theo kịp với sự biến đổi của thế giới, của xã hội loài người thì sẽ có thể dẫn người ta đến thất bại trong thực tiễn. Chủ nghĩa tư bản cũng như vậy, trước áp lực của phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân và các phong trào đấu tranh cho tiến bộ xã hội và từ chính thất bại của mô hình tư bản chủ nghĩa truyền thống đã phải nhiều lần làm mới mình. Nếu không đổi mới chính sách dựa vào lý luận của Keynes trong những thập niên từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến thập niên 70, hoặc thay đổi theo lý luận gọi là Chủ nghĩa tự do mới từ thập niên 80 của thế kỷ trước thì chủ nghĩa tư bản không thể phát triển đến ngày nay.

Chính do hoàn cảnh khách quan, mong muốn thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc mà Việt Nam đã đi theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, theo con đường xã hội chủ nghĩa, đã giành được những thắng lợi và cũng từng gặp những khó khăn, hạn chế như nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác. Nhưng hơn 30 năm qua, Việt Nam đã đổi mới nhận thức, lý luận về chủ nghĩa xã hội và theo đó, đổi mới chính sách và đạt được những thành tựu phát triển không thể phủ nhận được như ngày nay.

Từ thực tiễn phát triển của thế giới mấy thập niên vừa qua trong đó có cả nhận thức về khiếm khuyết, hạn chế của mô hình chủ nghĩa xã hội trước đây, Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn cho mình một mô hình chủ nghĩa xã hội mới mà Cương lĩnh của Đảng (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu và gần đây đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã diễn đạt dưới hình thức gần gũi hơn, là: một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người; một xã hội mà sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội;một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm; một xã hội phát triển bền vững, hài hoà với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và huỷ hoại môi trường; một xã hội mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có.

Một xã hội như vậy có thể đạt được không? Chắc chắn là được, vì nó không xa vời, trừu tượng. Không chỉ nhiều nước đã trải qua công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhất là một số nước đi theo “dân chủ xã hội” có nhiều thành tựu phát triển xã hội mà ngay cả với các nước có điểm xuất phát thấp hơn như Việt Nam chắc chắn cũng sẽ đạt được dù khó khăn hơn. Bởi lẽ con đường đi đến mục tiêu đó đã khác với trước. Nếu trước đây vì nhiều lý do, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội là con đường biệt lập với thế giới, chủ yếu đóng khung trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa với nhau, ngày nay là con đường hội nhập quốc tế, chủ động, tích cực tiếp cận với những thành tựu văn minh khoa học, công nghệ mới nhất của loài người thì không lẽ gì không đạt được. Kết quả phát triển hơn 30 năm qua của Việt Nam đã chứng minh khả năng đó.

Chủ nghĩa xã hội có phải chỉ là sự lựa chọn riêng của Đảng ?

Thực tế lịch sử phát triển của loài người, của mỗi quốc gia chứng minh rằng, tiếp cận với một lý thuyết mới, học thuyết mới thường là bắt đầu từ những cá nhân tiên tiến. Họ có thể kế thừa tư tưởng truyền thống dân tộc, có thể tiếp thu lý luận bên ngoài, nhưng đối chiếu, so sánh với hoàn cảnh, văn hoá dân tộc, đất nước mình mà xây dựng nên lý luận phù hợp, từ đó mà lý luận được phổ biến, lan rộng trong dân chúng.

Từ đầu thế kỷ XX, nhiều tư tưởng chính trị đã được du nhập vào Việt Nam theo cách đó. Chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội cũng được du nhập vào Việt Nam bắt đầu từ những người tiên tiến - những người Cộng sản. Song, câu hỏi đặt ra là tại sao lý luận này thì lôi cuốn hàng triệu triệu người, đem đến kết quả to lớn, lâu dài; còn lý luận kia thì không? Câu trả lời chỉ có thể là lý luận nào phù hợp nhất với mục tiêu độc lập dân tộc, hạnh phúc của đại đa số nhân dân thì được nhân dân lựa chọn, tin theo. Những người Cộng sản đã vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam, lãnh đạo thành công sự nghiệp giải phóng dân tộc mà không lực lượng chính trị và tư tưởng chính trị nào khác làm được. Đấy là sự thực lịch sử không thể phủ nhận. Hơn 30 năm qua, rút kinh nghiệm từ thành công cũng như những thất bại trong phát triển kinh tế - xã hội theo mô hình chủ nghĩa xã hội cũ, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục phát triển lý luận của mình, từ đó hoạch định đường lối, chính sách phát triển đất nước phù hợp hơn với thời đại. Trong suốt những năm qua, dù còn nhiều khuyết điểm, nhất là tình trạng tham nhũng, suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cấp cao, song đại đa số người dân Việt Nam vẫn giữ niềm tin vào Đảng, ủng hộ Đảng, mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Bằng chứng là qua rất nhiều dịp công khai góp ý xây dựng, bổ sung Cương lĩnh chính trị, xây dựng các văn kiện của các Đại hội Đảng, góp ý xây dựng, sửa đổi Hiến pháp, pháp luật, tiếng nói ủng hộ vẫn chiếm đại đa số. Đường lối của Đảng vẫn là kết tinh trí tuệ không chỉ của Đảng mà còn của các tầng lớp nhân dân trong cả nước, của phần đông giới trí thức. Vậy thì sao lại nói lựa chọn định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ là lựa chọn riêng của Đảng, mà không phải là của đa số nhân dân ?

Quay trở lại với quan niệm về chủ nghĩa xã hội mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu trên, một xã hội với những điều tốt đẹp như vậy lẽ nào không phải là điều nhân dân Việt Nam đang mơ ước? Một dân tộc nghèo nàn, lạc hậu đã trải qua hơn 80 năm bị thực dân đô hộ, trải qua hơn 30 năm chiến tranh, và hàng chục năm sau đó bị bao vây, cấm vận, bị o ép nhiều phía nay có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế quốc tế chưa từng có, lẽ nào lại không lựa chọn, mơ ước và phấn đấu cho một xã hội tốt đẹp như vậy?

Vậy nên, những trí thức chân chính, dù còn có điều chưa hài lòng, vẫn nên cùng chung tay với Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân, phấn đấu cho một tương lai tươi sáng của dân tộc hơn là tuyên truyền cái nhìn bi quan, tiêu cực, hay lòng “trắc ẩn” quan điểm tư tưởng, chính trị của cá nhân mà ảnh hưởng không tốt tới tinh thần chung của xã hội./.

 

GIÁ TRỊ YÊU CHUỘNG HOÀ BÌNH KHÔNG THỂ CHỐI CÃI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA 1917

 


M.N

Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là chiến thắng vĩ đại của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới, đánh dấu sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học từ lý tưởng trở thành hiện thực, đồng thời mở ra thời đại mới trong lịch sử nhân loại - thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Chiến thắng của Cách Mạng Tháng Mười Nga khẳng định yêu chuộc hoà bình của một chế độ ưu việt khắc với chế độ khác.

Cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga đã gửi và thực thi một thông điệp hòa bình tới nhân dân thế giới. Ngay trong giời phút quyết định của cuộc khởi nghĩa với cuộc tấn công Cung điện Mùa Đông, Đại hội Xôviết toàn Nga lần thứ hai khai mạc trong Điện Xmônnưi (ngày 25-10 theo lịch Nga), thông qua “Sắc lệnh hòa bình”, coi chiến tranh là “một tội ác lớn nhất đối với nhân loại”, đòi các nước đế quốc nhanh chóng chấm dứt Chiến tranh thế giới thức nhất và tuyên bố với các chính phủ các nước sẵn sang kí ngay một bản hòa ước với những điều kiện công bằng cho tất cả các dân tộc, một hòa ước không có thôn tính và không có bồi thường. Những đề nghị hòa bình của Chính phủ Xôviết đã được sử ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới. Nhiều dân tộc khác trên thế giới, đang quằn quại dưới ách thống trị của chế độ thực dân, phong kiến, “nằm mơ nước Nga” với sự tin tưởng sâu sắc.

Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Lần đầu tiên trong lịch sử, những người vô sản, người lao động, người nghèo dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, đã đứng nên làm cuộc cách mạng đổi đời, tự giải phóng mình, làm chủ và cai quản và tổ chức xây dựng chế độ xã hội mới XHCN. Từ đây, cách mạng giả phóng dân tộc bị áp bức có được phương hướng phát triển, trở thành một bộ phận khăng khí của phong trào cách mạng thế giới và nhân loại biết đến một chế độ xã hội mới, một hệ thống thế giới mới – hệ thống XHCN, đối lập với chế độ tư bản chủ nghĩa. Không có Cách mạng Tháng Mười Nga và CNXH hiện thực thì giai cấp cần lao và các dân tộc trên thế giới vẫn chìm đắm trong màn đêm áp bức, nô dịch của chủ nghĩa tư bản, của thực dân, đế quốc. Thực tế cho thấy, trong gần thế kỷ qua, sự tiến bộ của nhân loại xét đến cùng là kết quả của quá trình đấu tranh bền bỉ của GCCN, nhân dân lao động trên thế giới và sự ảnh hưởng quan trọng từ những giá trị vì con người của CNXH hiện thực./.

 

KHÔNG THỂ THỂ PHỦ NHẬN GIÁ TRỊ TRƯỜNG TỒN “VƯƠNG QUỐC TỰ DO” CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA 1917 MANG LẠI CHO NHÂN LOẠI

 


M.N

Sự sụp đổ của CNXH theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự không thành công của một mô hình thực thi CNXH khoa học và lý tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga ở các nước ấy. Không nên phủ nhận toàn diện, lịch sử và ý nghĩa của lý tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga mang lại cho nhân loại. Thế đấy các thế lực thù địch, luôn thành tìm mọi cách để phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga.

Giá trị giải phóng cho loài người khỏi áp bức, bóc lột và trở thành “vương quốc tự” đó là:  Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã đưa nước Nga sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên nhân dân lao động Nga và các dân tộc và các dân tộc không phải Nga từ thân phận người nô lệ trở thành người làm chủ đất nước và vận mệnh của mình, “từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do”. Lần đầu tiên trên thế giới, một xã hội mới xuất hiện – xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), trong đó không có cảnh người bóc lột người, mọi người sống bình đẳng, cùng nhau mưu cầu hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng Tháng Mười đã dùng bạo lực cách mạng đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến địa chủ, lập nên chính quyền của những người lao động, xây dựng một xã hội hoàn toàn mới, một xã hội không có người bóc lột người”2  Khác với nhiều cuộc cách mạng trên thế giới, Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ làm thay đổi nước Nga và có ý nghĩa đối với nhân dân Liên Xô, mà nó còn mang tính quốc tế sâu sắc. Thành tựu của Cách Mạng Tháng Mười và những đóng góp của Liên Xô đối với nhân loại là rất to lớn. Do đó, như Tổng thống Nga V.Putin đã khảng định: “Ai không nuối tiếc sự ra đi của Liên băng Xôviết là không có trái tim”.

 

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN GIÁ TRỊ CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA

 


M.N

          Cách đây 104 năm, (7/11/1917 - 7/11/2021) dưới sự lãnh đạo của Đảng Bốn sêvích Nga đứng đầu là V.I.Lênin vĩ đai, giai cấp công nhân (GCCN) và nhân dân lao động nước Nga tiến hành cách mạng vô sản giành thắng lợi. 

    Nhân kỷ niệm 104 năm Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, khai sinh ra nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, sau đó hàng loại các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới ra đời sau chiến tranh thế giới 1945. Mặc dù do nhiều nguyên nhân dẫn đến các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ; những giá trị trường tồn của nó vẫn còn mãi mãi soi sáng cho các nước xã hội chủ nghĩa còn lại như Trung Quốc, Việt Nam, Lào…phát triển. Thế nhưng nhân kỷ niệm 104 năm Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, các thế lực xuyên tạc, phủ nhận giá trị và ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga trên không gian mạng.

Đây là quan điểm hết sức sai trái, thù địch với mục đích sâu sa nhằm nói xấu bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghãi nói chung, Việt Nam nói riêng. Cần lên án, bác bỏ và khẳng định rằng:

Cách Mạng Tháng Mười Nga  đã đi vào lịch sử nhân loại như một sự kiện vĩ đại nhất của thế kỷ XX, mở đầu một thời đại mới - thời đại quá độ đi lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, soi sáng con đường phát triển của loài người đi lên xây dựng CNXH, “ loài người đã chứng kiến một sự kiện lịch sử trọng đại – một cuộc cách mạng Mười ngày rung chuyển thế giới, mở ra một thời đại mới trên con đường đi lên của nhân loại. Đó là sự bùng nổ và thắng lợi của Cách Mạng Tháng Mười Nga. Hơn một thế kỷ đã trôi qua với biết bao nhiêu biến đổi, nhưng ý nghĩa và âm hưởng của cuộc cách mạng này vẫn trường tồn, mãi mãi không đổi thay trong hàng triệu người có lương tri trên thế giới. Họ hướng về Cách mạng Tháng Mười Nga với sự trân trọng, lòng biết ơn và vẫn tìm thấy ở đó tinh thần cách mạng và ánh sáng soi đường cho cuộc đấu tranh vì một xã hội tốt đẹp hơn./.

 

XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA “DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN” Ở VIỆT NAM LÀ YÊU CẦU KHÁCH QUAN

 


                                                                                                          M.N

Nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị xã hội quý báu được tích lũy và phát triển trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền phát triển không ngừng, là thành quả của nhân loại, nó hình thành và phát triển cùng với sự tiến bộ xã hội và cho đến nay đã được thế giới thừa nhận về mặt lý luận như một học thuyết về nhà nước pháp quyền. Hiện nay các nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa đang nổ lực xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc xác định mục đích, nội dung, phương hướng và biện pháp xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ được đông đảo người dân ở các nước này, mà còn cả những người dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới đồng tình, ủng hộ.

Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mà là giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ. Xuất phát từ nhu cầu, khát vọng của con người mong muốn có một xã hội tiến bộ, công bằng, không có áp bức, bóc lột mà ở đó pháp luật giữ vị trí thượng tôn trong xã hội mà các nhà hiền nhân trí sĩ đã hướng con người tới việc phải xây dựng cho được Nhà nước pháp quyền là tổ chức chính trị của nhân dân, bảo đảm chủ quyền của nhân dân là nhà nước tôn trọng, thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do, dân chủ của công dân chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình, còn công dân phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước và chịu trách nhiệm pháp lý về những hành vi vi phạm pháp luật của mình; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong mọi tổ chức, hoạt động của nhà nước... Đồng thời, còn xuất phát từ bản chất và tính ưu việt của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho mọi người dân trên các phương diện khác nhau của đời sống xã hội, mà vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã chủ nghĩa đặt ra như một tất yếu khách quan.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền mang bản chất của giai cấp công nhân. Đó là nhà nước tổ chức, quản lý, điều hành xã hội trên cơ sở hiến pháp và pháp luật với mục đích đảm bảo quyền lực cho nhân dân. Giá trị xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là việc tạo ra môt hệ thống các quan hệ bảo đảm sự thống trị của pháp luật trong tất cả các lĩnh vực xã hội. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền lực thực sự thuộc về nhân dân lao động, điều này được quy định một cách khách quan từ cơ sở kinh tế và chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội. Khi nhân dân được làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì đương nhiên mọi công dân đều có quyền lực. Toàn bộ hoạt động của nhà nước từ pháp luật, cơ chế, chính sách đến những nguyên tắc tổ chức đều thể hiện quan điểm của giai cấp công nhân, nhằm từng bước thực hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc.

 

KHI TRỨNG ĐÒI KHÔN HƠN VỊT!

 

                                                                   H.T

Ngay sau khi Hà Nội ra chính sách “thí điểm cách ly F1 ở nhà”, anh em báo chí, trong đó đi đầu là báo Tuổi trẻ lập tức chĩa vào đả kích chính sách này, cho rằng “mới mẻ gì mà thí điểm”, cho rằng, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương đã làm từ lâu, việc gì Hà Nội phải thí điểm, rồi quay sang chê trách “Hà Nội chuyển động chậm” trong chống dịch.

Tất nhiên, việc anh em đem Hà Nội so với TP Hồ Chí Minh, Bình Dương là tôi đủ hiểu trình độ cũng như khả năng tư duy của anh em đến đâu rồi. Thưa các “chuyên gia chống dịch online”, việc TP Hồ Chí Minh, Bình Dương phải cách ly F1, thậm chí cả F0 ở nhà là do dịch bệnh thời điểm đó đã lây nhiễm quá nhanh, các cơ sở thu dung, cách ly tập trung đã quá tải, người ta chẳng còn sức để cứu chữa F0 chứ đừng nói cách ly F1, F2. Trong một không khí vỡ trận như vậy, cho F0 hay F1 ở nhà điều trị, chỉ chữa trị ca F0 nặng là điều đương nhiên.

Trong khi đó, Hà Nội hiện nay với tâm thế khác. 100% người dân từ 18 tuổi đã được tiêm 1 mũi, gần 50% đã tiêm xong 2 mũi, số lượng ca nhiễm vẫn ở mức xung quanh 200 ca/1 ngày nên mọi vấn đề vẫn trong tầm kiểm soát, vẫn còn điều kiện để lựa chọn.

Cách ly F1 ở nhà thì cả người nhà và cơ sở cách ly đều đỡ vất vả, nhưng những người khổ nhất là cán bộ chính quyền tham gia chống dịch, bệnh viện. Vì sao ư, đơn giản vì ý thức của người dân còn hạn chế, nhiều người tự tin rằng mình tiêm 2 mũi nên không chịu cách ly theo quy định mà đi lại, tiếp xúc với người khác như bình thường, và rồi khi họ trở thành F0 thì kéo theo đó là cả một tá F0 khác. Không hiếm trường hợp như vậy đã xảy ra. Anh em hào sảng là minh chứng rõ nét nhất cho chủ nghĩa dân túy “tin vào ý thức người dân” để lại hậu quả như thế nào.

Chính vì vậy, phải thí điểm để đánh giá xem hiệu quả của chính sách cách ly F1 ở nhà như thế nào, có hiệu quả hay không, ý thức người dân có tốt không rồi mới nhân rộng mô hình này. Mọi chính sách chống dịch phải thận trọng, chặt chẽ, hiệu quả, phù hợp với tình hình địa phương và quan trọng nhất là giữ được tính mạng của nhân dân - chứ không phải là áp dụng máy móc từ tỉnh này sang tính khác.

Hà Nội từ trước đến nay vẫn luôn tuân thủ nguyên tắc trên và thực tế cho thấy, xét về tính phức tạp và mật độ dân cư, Hà Nội vẫn là địa phương làm tốt nhất liên quan đến việc phòng chống dịch với số ca tử vong đếm trên đầu ngón tay.

Còn với anh em báo chí, mong anh em sống đúng với lương tâm nghề nghiệp, bỏ bớt tính cà khịa và chọc ngoáy, ngồi ngẫm nghĩ xem mình đóng góp gì cho đất nước rồi lên mới lên bài.

Thân ái…

 

ĐỪNG SO SÁNH ANH VỚI NHỮNG NGƯỜI KHÁC

 


Nguồn Báo QĐND

Đừng so sánh Quân đội với các lực lượng khác, đừng so sánh anh với idol, ca sỹ, diễn viên nước ngoài nào đó, đừng so sánh con người, ngoại hình hay tính cách của anh với bất kỳ ai.

Anh không có chiều cao lý tưởng như các diễn viên, idol ngoại quốc bởi cha mẹ sinh anh ra đã như vậy. Anh không có làn da mịn màng tươi sáng không tỳ vết như các diễn viên, idol ngoại quốc kia anh chỉ có bàn tay trai sạn, làn da ngăm đen,... vì mỗi ngày anh đều luyện tập dầm nắng, dầm mưa trên thao trường, tôi luyện kĩ năng, bản lĩnh người chiến sỹ cách mạng. Anh không có ekip, chuyên gia trang điểm, trợ lý đi cùng chăm lo từng chân tơ kẽ tóc, anh không được chăm sóc spa mỗi ngày nên anh không được đẹp như diễn viên, idol ngoại quốc được,... Mỗi ngày đều đặn anh dành thời gian nền nếp kỉ cương Quân đội, anh rèn luyện ý chí, tinh thần chiến đấu, bản lĩnh chính trị, mỗi ngày anh canh gác từ biên giới cho tới hải đảo xa xôi,... Mỗi ngày đều cầm chắc tay súng gìn giữ từng mét đất, từng mét đường biên, sát cánh cùng bà con nhân dân, ngư dân yên tâm cắm bản, cắm mốc, cắm ngư trường biển bao đời nay.

Để Tổ Quốc không bị bất ngờ mỗi ngày Quân đội nhân dân Việt Nam đều hăng say luyện tập. Khi xảy ra chiến tranh trên các mặt trận, sự đẹp trai, tươi sáng rạng ngời không phải là yếu tố để chiến thắng kẻ thù mà đó chính là các kĩ năng đã được tôi luyện trên thao trường theo năm tháng. Thực tế chiến đấu không phải là phim ảnh, tính mạng sự an toàn thật sự của nhân dân không phải là phim ảnh. Quân đội nhân dân có phương châm “thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”.

Người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đẹp nhất khi các anh đầm đìa mồ hôi trên thao trường, đẹp nhất khi thiên tai bão lũ, nhân dân được các anh sơ tán an toàn, đẹp nhất khi thiên tai đi qua các anh cùng chính quyền địa phương hỗ trợ nhân dân gậy dựng lại từ đống đổ nát. Đẹp nhất khi các anh cứu hộ cứ nạn đê điều, cháy rừng, cứu hộ cứu nạn ngư dân, thuyền viên gặp nạn trên biển,...

Mỗi sự so sánh đều là khập khiễng, Quân đội nhân dân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ, người lính chẳng phải hậu duệ mặt trời chỉ đơn giản chính là người lính Quân đội nhân dân Việt Nam.

 

 

 

TRẦN TRUNG ĐẠO - KẺ ĐI NGƯỢC LỊCH SỬ

 


K59

Quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, ngọn cờ yêu nước đã chuyển về tay Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, đã lãnh đạo cả dân tộc làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước CHXHCN Việt Nam. 

Lịch sử hai cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã lật mặt lạ của nhiều đảng phái nhân danh yêu nước, nhưng lại đặt lợi ích của bản thân cao hơn lợi ích dân tộc, bám gót ngoại bang, phản bội Tổ quốc, chống lại nhân dân. Chỉ có ĐCSVN đứng mũi chịu sào, chấp nhận mọi hy sinh để lãnh đạo nhân dân anh dũng đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho cả dân tộc. Sự lãnh đạo của ĐCSVN đối với dân tộc Việt Nam là do thực tiễn cách mạng qui định, những thành quả đạt được là của toàn thể dân tộc, chứ không phải riêng của ĐCSVN. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định “ĐCSVN- Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”.

Hiện nay, mặc dù còn không ít khó khăn, thử thách, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc Việt Nam đều đoàn kết một lòng xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, mở rộng đối ngoại, hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo tiền đề vững chắc để phát triển bền vững trong giai đoạn mới.

Vậy mà Trần Trung Đạo lại đưa ra nhận định hết sức phản động là “…có một thời gian dài hai chữ dân tộc thiêng liêng này vắng mặt trong hầu hết các văn kiện đảng hay bút tích của các lãnh tụ CS… dân tộc chỉ là một phương tiện, một chặng đường, một chiếc ghe dẫn đến mục đích CS”. Trần Trung Đạo phải hiểu rằng, những thập niên đầu của thế kỷ XX, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, các phong trào và chính đảng đại biểu cho các giai cấp và tầng lớp yêu nước khác nhau đã bước lên vũ đài chính trị. Một số người đã từng là vua, quan phong kiến, đến nông dân, tiểu tư sản, tri thức đã giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc nhưng đều thất bại vì không có đường lối cứu nước đúng đắn, phù hợp.

Những vấn đề nêu ra trong bài viết của Trần Trung Đạo đã bộc lộ dã tâm thâm độc, cố tình xuyên tạc sự thật, tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước ta với mục đích gây hoang mang, dao động về tư tưởng trong cán bộ, đảng viên./.

 

QUAN ĐIỂM ĐẠI HỘI XIII VỀ TĂNG CƯỜNG GẦN DÂN ĐỐI VỚI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

 

K.N

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra từ ngày 25/1 đến ngày 1/2/2021 tại Hà Nội và đã thành công tốt đẹp. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân Việt Nam đang triển khai Nghị quyết vào cuộc sống. Đặc biệt là quan điểm tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng với quan điểm “kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng” đã xác định: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng” là một trong những nhiệm vụ, giải pháp đột phá trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây là quan điểm xuất phát từ truyền thống của dân tộc lấy “dân làm gốc”, tất cả đường lối, chính sách đều xuất phát từ nhân dân.  Để đưa Nghị quyết vào cuộc sống theo tôi cần thực hiện một số vấn đề sau:

1. Cấp ủy các cấp tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”.

2. Hoàn thiện thể chế “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân”; trong đó cụ thể hóa các quy định về bí thư cấp ủy định kỳ tiếp xúc, đối thoại với quần chúng nhân dân; quy định về vai trò của quần chúng nhân dân trong giám sát, quản lý, đánh giá đội ngũ cán bộ; tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.

3. Nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương. Trong kiểm điểm, đánh giá chất lượng đảng viên hằng năm, nhất định phải có phần kiểm điểm, đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của đảng viên.

4. Cấp ủy các cấp, nhất là Trung ương Đảng tăng cường công tác nắm bắt, nắm chắc lòng dân với các chỉ số đo lường trung thực, chính xác. Có nắm chắc lòng dân thì mới có giải pháp, biện pháp kịp thời củng cố, nâng cao sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân./.

.

 

Ai bảo sứ mệnh lịch sử thuộc về tầng lớp trí thức?

 


K.N

Trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, nền kinh tế tri thức ra đời, vai trò của tầng lớp trí thức ngày càng tăng. Chính vì thế, có quan điểm cho rằng giai cấp công nhân hiện nay không còn sứ mệnh lịch sử nữa, mà sứ mệnh lịch sử đó đã thuộc về những người trí thức. Khẳng định đây là quan điểm hoàn toàn sai trái nhằm phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

          Vai trò của tầng lớp tri thức đối với đối với sự phát triển của xã hội không thể phủ nhận. Họ là những người đi đầu trong việc tạo ra các phát minh khoa học, có vai trò to lớn đối với việc truyền bá tri thức cho nhân loại. Thế nhưng do địa vị kinh tế - xã hội của mình, tầng lớp trí thức không bao giờ có thể trở thành một giai cấp trong xã hội. Họ mãi chỉ là một tầng lớp đặc biệt mà địa vị kinh tế - xã hội phụ thuộc vào giai cấp thống trị. Họ không có hệ tư tưởng độc lập và không có lợi ích đối kháng với giai cấp tư sản cho nên họ không thể dựng nên một chính đảng cách mạng; và từ trước đến giờ họ không lãnh đạo, tổ chức tập hợp quần chúng lao động để đấu tranh chống áp bức, bóc lột của chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng một chế độ xã hội.

          Cho nên, dù vai trò của tầng lớp trí thức ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, nhưng do địa vị kinh tế - xã hội của mình họ không thể thay thế giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử trong thời đại hiện nay.

 

Sự thật không phải là như vậy, giai cấp công nhân vẫn còn nguyên còn sứ mệnh lịch sử

 


K.N

Hiện nay có quan điểm của các thế lực thù địch cho rằnggiai cấp công nhân hiện nay không còn sứ mệnh lịch sửnữa. Đây là quan điểm hoàn toàn sai trái của các thế lực thù địch, nhằm phủ nhận sứ mệnh lịch sử, vai trò của giai cấp công nhân hiện nay.Thực tế đã chứng minh giai cấp công nhân là lực lượng tiên tiến nhất, đại diện cho phương thức sản xuất và là người làm ra của cải cho xã hội. Hiện nay vai trò, sứ mệnh của họ không thay đổi vẫn là lực lượng sản xuất quan trọng, quyết định đến kết quả CHH, HĐH đất nước. Điều đó cũng được lịch sử chứng minh, việc phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là công lao của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin và thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917), cùng với sự phát triển phong trào cách mạng thế giới thế kỷ XX đã chứng minh một tất yếu không thể phủ nhận vai trò sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân.                  

NHẬN BIẾTÂM MƯU,THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG NƯỚC TA TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG HIỆN NAY

 


K.N

Hiện nay lợi dụng vai trò của không gian mạng các thế lực thù tập trung vào việc sử dụng mạng toàn cầu world wide web (www), thư điện tử (email) và các trang thông tin điện tử, mạng nội bộ, mạng xã hội (facebook, twitter, whatsapp, youtube, blog cá nhân) đặt ở nước ngoài và các apps (ứng dụng) trên thiết bị thông minh để tuyên truyền các quan điểm sai trái, thù địch chống phá cách mạng nước ta.

Về phương thức, thủ đoạn chống phá: các thế lực thù địch luôn lợi dụng những sự kiện chính trị lớn của đất nước như chuẩn bị kỷ niệm các ngày lễ lớn, trước các kỳ Đại hội Đảng, sửa đổi Hiến pháp, bầu cử Quốc hội; lợi dụng những bất cập yếu kém trong quản lý nhà nước, trong đấu tranh phòng chống tham nhũng của chúng ta … để tung tin thất thiệt, lồng ghép những quan điểm cá nhân vào các sự kiện; đặc biệt chúng sử dụng nhiều thông tin, hình ảnh không đúng, không đầy đủ trên không gian mạng để vu cáo, bôi nhọ, hạ thấp uy tín cá nhân các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước. Các hoạt động chống phá của chúng được diễn ra trên diện rộng, với mật độ dày đặc cả ở trong và ngoài nước nhưng đều có phương thức truyền tải theo dạng số hóa. Chính điều này đã gây ra những khó khăn không nhỏ trong nhận diện và đấu tranh phòng chống, bác bỏ các quan điểm sai trái thù địch trước sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.Trong thời gian qua, trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, chúng ta đã tích cực, chủ động triển khai nhiều biện pháp đấu tranh phòng chống trên không gian mạng và đã thu được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại những khó khăn, bất cập như: nhận thức, nhận diện của một số cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa đầy đủ, chưa rõ về bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng. Hiện nay không ít người trong chúng ta vẫn cho rằng chỉ cần dùng những biện pháp kỹ thuật như thiết lập tường lửa hay dùng phần mềm… là có thể ngăn chặn được các website, blog độc hại, coi đây là giải pháp tối ưu trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng.

Chính vì vậy, cuộc đấu tranh nhằm chống lại các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng; bản thân tự nó đang đặt ra nhiều vấn đề mới cần phải có những giải pháp giải quyết hiệu quả hơn.

 

Nhận diện xuyên tạc giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 đối với cách mạng Việt Nam

 


K.N

Cách mạng Tháng Mười Nga là nguồn cổ vũ to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Tư khi Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập, đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười, Đảng ta và Chủ tịch Hồ chí Minh đã nêu cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm1945 thành công; giành thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; đưa cả nước đi lên CNXH, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả; tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. 

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, có nguồn gốc sâu xa từ ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lênin được vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện củ thể của nước ta. Cách mạng Thánh Mười có ý nghĩa và ảnh hưởng vô cùng to lớn, sâu sắc tới cách mạng Việt Nam trên nhiều phương diện, cả lý luận và thực tiễn.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN ta đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, và đã đạt được những thành tựu rất quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước. Văn kiện Đại hội XIII, của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đó khẳng định sự vận dụng đáng đắn Cách mạng Tháng Mười Nga ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Uống nước nhớ nguồn. Càng nhớ lại những ngày tủi nhục mất nước, nhớ lại mỗi bước đường đấu tranh cách mạng đầy hy sinh, gian khổ mà cũng đầy thắng lợi vẻ vang thì giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam càng thấm thía công ơn to lớn của Lê-nin và Cách mạng Tháng Mười.

Nhưng gần đây, kẻ thù của CNXH đã xuyên tạc đủ điều nhằm bôi nhọ và hạ thấp hình ảnh của Cách mạng Tháng Mười Nga. Họ cho rằng, Cách mạng Tháng Mười Nga chỉ có ý nghĩa địa phương, chỉ có giá trị thuần túy ở Nga; qua đó, phủ nhận tính tất yếu và biện chứng của Cách mạng Tháng Mười Nga cũng như của cách mạng XHCN nói chung, phủ nhận tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin… đều nhằm phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga và CNXH hiện thực, lái các dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam đi vào quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.

Độc lập dân tộc và CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Luôn hướng tới lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, gắn độc lập dân tộc với CNXH là thể hiện sự trung thành của toàn Đảng, toàn dân ta với con đường mà Cách mạng Tháng Mười đã mở ra. Dù thế giới có những thay đổi, biến động lớn lao, nhưng mà thời đại mà Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra là không thay đổi, con đường mà nhân dân ta đi là đúng đắn. Chỉ có đi theo con đường của chủ nghĩa Mác – Lênin, của Cách mạng Tháng Mười Nga, nhân dân ta mới thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; tất yếutheo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.