Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2015

ĐỪNG LÀM PHÂN TÂM XÃ HỘI, PHÂN RÃ NIỀM TIN



Đừng làm phân tâm xã hội, phân rã niềm tin
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh 5 vấn đề liên quan đến hoạt động và quản lí báo chí trong tình hình hiện nay.
 Tổng bí thư yêu cầu cần quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm báo chí là vũ khí sắc bén, là công cụ đắc lực của Đảng trên mặt trận tư tưởng. Mỗi người làm báo là một chiến sỹ cách mạng. Đảng lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện đối với hoạt động báo chí, Nhà nước quản lí báo chí bằng pháp luật.
“Nhà báo cách mạng phải có tinh thần cách mạng. Đó là tinh thần đấu tranh loại bỏ cái sai, cái xấu, bảo vệ cái tốt, cái đúng, vì sự nghiệp chung của đất nước và lợi ích của nhân dân”, Tổng bí thư nhấn mạnh..
Báo chí kiên quyết loại bỏ tin bài ảnh hưởng xấu đến tư tưởng, tình cảm đời sống xã hội, đừng làm phân tâm xã hội, phân rã niềm tin - Tổng bí thư nói.
Ngoài ra, Tổng bí thư cũng lưu ý báo chí thực hiện nhiệm vụ cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là diễn đàn để phát huy dân chủ, để nhân dân tham gia giám sát và phản biện xã hội.
Tổng bí thư cũng yêu cầu đổi mới lãnh đạo và chỉ đạo trong quản lí báo chí. Trong đó, tăng cường trách nhiệm các cơ quan chủ quản, các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, quản lí và tạo điều kiện thuận lợi để báo chí hoạt động chất lượng.
“Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn đánh giá cao, luôn ủng hộ và tạo điều kiện cho báo chí phát triển. Yêu cầu nhiệm vụ mới đặt ra cho báo chí và người làm báo hiện nay hết sức nặng nề. Tôi tin tưởng rằng đội ngũ những người làm báo Việt Nam hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình”, Tổng bí thư khẳng định.

Cần tỉnh táo trước thông tin lợi dụng dân chủ đòi đa đảng



'Cần tỉnh táo trước thông tin lợi dụng dân chủ đòi đa đảng'

Báo chí cần tỉnh táo và cảnh giác trước những thông tin lợi dụng tự do, dân chủ đòi đa nguyên, đa đảng, lợi dụng phòng chống tham nhũng, tiêu cực thổi phồng những yếu kém của một bộ phận cán bộ, đảng viên để quy kết, bôi xấu chế độ...
Tới dự Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nhà báo VN, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài phát biểu dài hơn 15 phút, trong đó nhấn mạnh vai trò của báo chí trong việc kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, bịa đặt trong những ngày tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 12.
Tổng bí thư cho rằng, thời điểm này, các thế lực thù địch lợi dụng tự do dân chủ đòi đa nguyên đa đảng, lợi dụng phòng chống tham nhũng, tiêu cực thổi phồng những yếu kém khác biệt của một bộ phận cán bộ đảng viên để quy kết, bôi xấu chế độ, làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nước ta, gây nghi ngờ chia rẽ nội bộ.
“Báo chí cần tỉnh táo và cảnh giác trước những thông tin xuyên tạc của các thế lực xấu để thông tin phản bác lại, củng cố niềm tin của nhân dân”, Tổng bí thư nhấn mạnh.

Ông Phạm Viết Đào là ai?



ông Phạm Viết Đào sinh ngày 10-4-1952 tại Nghệ An; hiện thường trú tại số 02 hẻm 39/7/460 Thụy Khuê, phường Bưởi, quận Tây Hồ - Hà Nội.  Ông Đào từng là cán bộ thanh tra thuộc Bộ Văn hóa - Thông tin trước đây, nguyên trưởng Phòng Thanh tra hành chính chống tham nhũng - Bộ Văn hóa – Thông tin, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Gần đây, theo cơ quan điều tra, ông Đào đã “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” theo Điều 258 Bộ Luật Hình sự.


"Đa nguyên đa đảng” sẽ biến thành mất mát cho nhân dân



"Đa nguyên đa đảng” sẽ biến thành mất mát cho nhân dân

Ông Nguyễn Trọng Cầu, nguyên giảng viên bộ môn Lịch sử Đảng, trường Đại học Vinh, Nghệ An khẳng định: "Đa nguyên đa đảng” sẽ biến thành mất mát cho nhân dân
Ông Nguyễn Trọng Cầu cho rằng: Tôi chưa hề biết về ông Lê Hiếu Đằng, không biết về con người thực của ông ấy như thế nào nhưng những gì ông ấy nói rằng đòi "đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” thì tôi không đồng ý.
Nếu "đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” sẽ biến thành cơ hội cho bọn phản động lợi dụng, kích động đấu đá, phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc và kết quả là sẽ biến thành những mất mát cho nhân dân mà không thể bù đắp được. Bởi vì, trong nước cũng có kẻ xấu, ngoài nước cũng có kẻ xấu, bọn chúng đang tìm mọi cơ hội để khuấy động nhân dân tổ chức bạo động và người thiệt thòi nhất thuộc về nhân dân lao động. Chắc hẳn ông Đằng đã không lường trước được hậu quả của việc này nên mới có ý như vậy.
Đảng ta có một lịch sử rất tốt đẹp, vai trò lãnh đạo của Đảng trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc, xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới…không ai có thể chối cãi. Nhưng Đảng cũng có lúc sai lầm trong lãnh đạo, nhất là trong thời kỳ bao cấp, nhưng chúng ta không nên lấy sai lầm ấy để quy kết rằng Đảng hoàn toàn không tốt, không sáng suốt, không vì dân, vì nước.
Thực ra, hiện nay tình hình tham nhũng xảy ra ở một bộ phận không nhỏ cán bộ Nhà nước, chúng ta đã hô hào chống tham nhũng nhiều mà chưa giải quyết được bao nhiêu, điều đó đã làm cho những con người có tâm huyết với Đảng, với dân tộc bức xúc. Có những vụ tham ô lớn nhưng khi giải quyết lại nhẹ nhàng làm dân bức xúc. Vì vậy Đảng phải giải quyết vấn đề này một cách quyết liệt để củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng.


Gửi ông Lê Hiếu Đằng “Đừng nói và làm hại cho dân”



Gửi ông Lê Hiếu Đằng “Đừng nói và làm hại cho dân”

Trong những ngày qua, bài viết "Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh” của ông Lê Hiếu Đằng đã cho rằng, Việt Nam cần phải "đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản” đã tạo dư luận trên một số diễn đàn. Đại Đoàn Kết đã có những phản hồi về bài viết này. Và ngay sau khi đăng tải loạt bài ấy, rất nhiều ý kiến từ khu dân cư đã gửi về, bày tỏ sự đồng cảm với những bài viết trên Đại Đoàn Kết đồng thời phản đối quan điểm của ông Đằng.

Ông Lù Văn Que- Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn Dân tộc – UBTƯ MTTQ Việt Nam: Tránh nói và làm hại cho dân

Đồng bào các dân tộc, tôn giáo không quan tâm đến việc đa nguyên đa đảng. Qua các cuộc tiếp xúc với đồng bào các dân tộc những lần góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đồng bào các dân tộc đều thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phải tôn thêm sự lãnh đạo của Đảng. Từ khi thành lập, Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện thắng lợi Cách mạng tháng Tám, đấu tranh chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước cũng như giành những thành tựu trong công cuộc đổi mới hiện nay. Thực tế đã chứng minh chưa có một Đảng nào làm được nhiều việc cho nhân dân như Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên các dân tộc cũng bày tỏ mong muốn Đảng Cộng sản Việt Nam phải đổi mới, dân chủ vì dân hơn nữa, có cơ chế chính sách hợp lòng dân, làm cho dân tin. Cán bộ đảng viên phải thật sự gương mẫu, là người đày tớ của nhân dân.
Liên quan đến cách nhìn của ông Lê Hiếu Đằng nguyên Phó Chủ tịch MTTQ thành phố Hồ Chí Minh về các vấn đề của đất nước đòi "đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập” tôi cho rằng mọi người đều có quyền nêu chính kiến của mình trong tổ chức, nhất là trong Mặt trận. Việc có ý kiến khác nhau là bình thường nhưng phải tạo sự đồng thuận. Việc phản biện, đấu tranh với cái xấu là nhằm mục đích để xã hội tốt lên chứ không phải làm xã hội có những mâu thuẫn, đổ vỡ theo một cách góp ý không chính thức. Bác Hồ đã từng dạy: "Nói và làm việc gì có lợi cho dân, tránh nói và làm hại dân”.
Về vấn đề đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập đã từng có ý kiến đặt vấn đề một đảng là sự thiếu hụt. Tôi nghĩ rằng phải bù đắp sự thiếu hụt đó bằng việc mở rộng và nâng cao được vai trò của MTTQ Việt Nam. MTTQ Việt Nam phải chủ động kiểm soát được quyền lực nhà nước bằng việc giám sát và phản biện xã hội, tham vấn của nhân dân. Nếu chúng ta thực hiện tốt được những việc đó sẽ hạn chế được sự lợi dụng xuyên tạc của các thế lực thù địch- đang ngày đêm hòng phá vỡ khối đại đoàn kết của dân tộc.

“Viên ngọc quý” càng ngày càng sáng



 “Viên ngọc quý” càng ngày càng sáng

Nhà báo Vũ Duy Thông trong một bài viết gần đây đã có lý khi cho rằng, yêu nước là tình cảm và tư tưởng phổ biến, vốn có ở tất cả các dân tộc trên thế giới chứ không riêng gì của dân tộc Việt Nam. Nhưng một trong những đặc trưng nổi bật nhất của lòng yêu nước mang bản sắc Việt Nam chính là yêu nước gắn liền với yêu hòa bình, hòa hiếu. Chỉ đến khi kẻ thù hung bạo quyết phá vỡ nền hòa bình, hòa hiếu ấy thì cả dân tộc mới buộc phải đứng lên cầm súng, cầm dáo, mác, tầm vông… Yêu nước của dân tộc Việt Nam còn có đặc trưng là tình yêu lặng thầm, kìm nén vì những bước đi chiến lược. Bài học lịch sử cho ta thấy, nhiều khi tình cảm ấy cần được phô trương như viên ngọc quý nhưng nhiều lúc nó lại cần phải lặn vào trong, cần kìm nén vì những nước cờ chiến lược.
Nếu chúng ta kiên trì hòa bình mà đối phương vẫn cố tình gây chiến xâm lược thì cũng như những cuộc chiến tranh khác, chúng ta sẽ đứng lên, như câu thơ của Chế Lan Viên: “Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt/ Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng/ Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết/ Cho mỗi căn nhà, ngọn núi, con sông!”. Nhưng thời điểm đó chưa đến, nhiệm vụ lúc này chưa phải như thế.
Nhìn ra các quốc gia khác, có lẽ cũng cần nhắc đến sự kiện vào tháng 9 tới, Ủy ban Chính sách xã hội của Thượng viện Nga sẽ trình Duma Quốc gia (Hạ viện) Nga một dự luật về giáo dục lòng yêu nước cho công dân. Việc đề ra đạo luật này xuất phát từ chỗ đang có những âm mưu viết lại lịch sử cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, coi nhẹ sự hy sinh của những người lính Hồng quân Liên Xô. Chính phủ Nga cho rằng, âm mưu này nhằm làm suy yếu nước Nga. Một cường quốc như nước Nga ngày nay vẫn rất cần “luật hoá” lòng yêu nước như thế thì không có lý do gì chúng ta không phê phán, đấu tranh, thậm chí xử lý nghiêm minh những kẻ cố tình lợi dụng để làm ố bẩn viên ngọc quý lòng yêu nước.
Tất nhiên, một đất nước gần 90 triệu dân thì những ý kiến khác nhau là điều bình thường. Nếu đây đó có cả những suy nghĩ, hành vi chưa đúng thì chưa hẳn không yêu nước mà có khi chỉ vì thiếu thông tin nên chưa có nhận thức đúng. Bổn phận của mỗi người Việt Nam là hiểu đúng và thể hiện đúng về lòng yêu nước. Mỗi người đều có trách nhiệm gìn giữ và làm sáng thêm truyền thống quý báu của dân tộc ta là lòng yêu nước. Phải làm cho “viên ngọc quý” ấy mỗi ngày một thêm sáng trong. Chúng ta không chấp nhận và không tha thứ những kẻ làm vấy bẩn viên ngọc quý “lòng yêu nước” vì những động cơ chính trị thấp hèn.

Đâu là lòng yêu nước chân chính?



Đâu là lòng yêu nước chân chính?

Thực ra, trong các bài viết, lời kêu gọi, thậm chí là tuyên ngôn của mình, những người đang chơi trò chơi “chính trị” kia đã đánh tráo khái niệm yêu nước chân chính, tầm thường hóa lòng yêu nước đích thực. Làm sao họ có thể “gán” cho những hành động vĩ cuồng, những phát ngôn thiếu trách nhiệm, những hành vi sai trái đi ngược lợi ích cộng đồng kia một khái niệm thiêng liêng đối với mỗi người dân Việt Nam ta là lòng yêu nước? Làm sao họ có thể mang lòng yêu nước ra để kích động giới trẻ, lôi kéo họ vào những suy nghĩ và hành động đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của đất nước và nhân dân? Hành vi đầu độc lớp trẻ như vậy khác gì là một tội ác?
Nói đến lòng yêu nước, nhiều người trong chúng ta sẽ nhớ ngay đến tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được đưa vào sách giáo khoa, như một áng hùng văn khái quát và đúc kết nét đặc trưng của truyền thống dân tộc. Đó là tác phẩm “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”, có đoạn: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Sự khái quát ấy, ở một góc độ nào đó còn giống như di huấn tinh thần để chúng ta vững tâm hơn, cùng nhau bình tĩnh trước nguy nan và cùng nhau hun đúc, trau chuốt thêm chiếc “nỏ thần vô hình” có sức mạnh vạn năng trong bảo vệ Tổ quốc: Lòng yêu nước. Đó mới là thái độ tinh thần đúng đắn chứ không phải yêu nước theo kiểu hồ đồ đi kèm với những hành động sai trái, bất chấp kỷ cương và luật pháp!
Cũng cần nhắc lại lòng yêu nước là gì và những biểu hiện cụ thể của nó ra sao để khu biệt, nhìn nhận những nhân vật và hành động đang được nhiều trang mạng và tổ chức phản động tung hô? Trong sách giáo khoa Giáo dục công dân của học sinh phổ thông đã đề cập tương đối ngắn gọn, dễ hiểu và đầy đủ. Theo đó, lòng yêu nước là tình cảm yêu quý, gắn bó, tự hào về quê hương, đất nước và tinh thần sẵn sàng đem hết tài năng, trí tuệ của mình phục vụ lợi ích của Tổ quốc. Các biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam ta bao gồm: Tình cảm gắn bó với quê hương đất nước; tình thương yêu đối với đồng bào, giống nòi, dân tộc; niềm tự hào dân tộc chính đáng; đoàn kết, kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm, để bảo vệ chủ quyền dân tộc và nền độc lập tự do của Tổ quốc; cần cù và sáng tạo trong lao động để xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.
Nói một cách đơn giản và cụ thể hơn như nhà văn I. Ê-ren-bua thì yêu nước là “yêu những vật tầm thường nhất, yêu người thân, yêu Tổ quốc” và tình cảm ấy có những cung bậc, những cách thể hiện khác nhau trong hai thời kỳ khác nhau: Thời bình và thời chiến. Đây cũng là một chủ đề được bàn luận khá sôi nổi trên internet gần đây.
Chúng tôi xin trích ý kiến của một bạn trẻ về lòng yêu nước, có thể chưa đầy đủ nhưng rất đáng suy ngẫm về những giá trị đích thực của lòng yêu nước: “Thực tế, đã có không ít thanh niên nghĩ rằng phải làm một việc gì thật to lớn cho Tổ quốc mới là yêu nước. Nhưng họ đâu hiểu rằng lòng yêu nước biểu hiện qua từng hành động, việc làm hằng ngày của mỗi chúng ta. Bạn cố gắng học tập tốt, rèn luyện tốt, hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình, đó là yêu nước. Lựa chọn được một nghề nghiệp phù hợp với bản thân mình, gắn bó và cống hiến hết mình vì công việc, đó là yêu nước. Lao động tích cực, hăng hái, làm giàu chính đáng, đó là yêu nước. Có khi lại là việc nhỏ như không vứt rác bừa bãi, không tàn phá môi trường, không hủy diệt muông thú. Và thậm chí, nói một câu tiếng Việt đúng ngữ pháp, văn cảnh, thể hiện sự tự tôn với ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc mình, cũng là biểu hiện của lòng yêu nước… Lòng yêu nước chân chính không nhất thiết phải hô, hét thật lớn để cho tất cả mọi người biết mà quan trọng là tính tự giác trong mọi hành động, việc làm của mỗi chúng ta.
Có những thanh niên nhận thức lệch lạc, ngồi một chỗ kêu ca, oán thán với nhau rằng, sao Việt Nam lại nghèo nàn, lạc hậu so với các quốc gia khác vậy; một số thì chạy theo lối sống thực dụng, ăn chơi sa đọa, lãng phí, tự do cá nhân, vô tổ chức. Những người đó tự cho mình cái quyền phán xét nhưng lại không có tí trách nhiệm nào với cộng đồng, xã hội…”. (Xem bàiSuy ngẫm từ bản án dành cho Nguyễn Phương Uyên)
Một bạn trẻ khác là Hoàng Thắng đã bày tỏ quan điểm trước những quan niệm lệch lạc về yêu nước trong một bài viết khá dài. Anh viết: “Những người gác biển không cần những người “đứng” sau lưng bằng những bài viết răn dạy về tình yêu nước trên facebook. Đừng để con em nhân dân đổ máu để cho các bạn lên internet hô hào mình là yêu nước”. (Xem bàiSau Bình Minh 02, lại có những ‘đại ngôn’ về lòng yêu nước)
Còn một cựu chiến binh thì cho rằng, Việt Nam đang có một thế hệ gồm nhiều bạn trẻ ngồi trong phòng lạnh, uống nước ngọt, ăn gà rán và luôn miệng kêu gào trên facebook rằng “Chính phủ không nên nhu nhược, phải chứng minh bằng hành động”. Ông tha thiết mong các bạn trẻ hãy thôi sống ảo và đừng yêu nước bằng máu của kẻ khác! (Xem bàiĐừng ngồi ‘yêu nước’ bằng bàn phím!)


Yêu nước kiểu “kêu gào bàn phím”



Yêu nước kiểu “kêu gào bàn phím”

Hai thanh niên Nguyễn Phương UyênĐinh Nguyên Kha có hành vi trái pháp luật đã được tòa án xét xử công khai nhưng vẫn không ít người cố tình khoác lên cho họ chiếc áo “yêu nước”. Bằng màn kịch vụng về, một nhóm người cùng hội cùng thuyền với cái gọi là nhóm “Tuổi trẻ yêu nước” đã “thiết kế” một chuyến du lịch dọc miền Tây Bắc rồi dừng lại bên đường viết nguệch ngoạc mấy câu khẩu hiệu tôn vinh Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha. Họ chụp ảnh, post lên mạng, rồi vống lên rằng, các bạn trẻ đồng bào dân tộc thiểu số cũng ngưỡng mộ hai người này.
Xa hơn nữa, bên kia bán cầu, cô Cung Hoàng Kim, người Mỹ gốc Việt, mang tiếng là sinh viên báo chí mà khi đăng quang một cuộc thi hoa hậu ở Hoa Kỳ cũng có một bài diễn văn “chém gió”, tung hô các blogger: Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, nữ sinh viên Nguyễn Phương Uyên… cho rằng họ phải vào tù vì dám đứng lên tranh đấu vì “yêu nước”. Bậy bạ hơn, nhiều trang mạng gần đây còn trích dẫn câu nói của Nguyễn Phương Uyên “Tôi là sinh viên yêu nước…” để so sánh với hình ảnh của Võ Thị Thắng, Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm…
Cùng với việc “tôn vinh” những nhân vật được coi là “điển hình yêu nước”, gần đây xuất hiện không ít lời kêu gọi, phát động giới trẻ tham gia biểu tình, xuống đường để thể hiện “lòng yêu nước”. Có trang mạng còn lộ liễu kích động “bất đồng chính kiến là yêu nước”… Một trang mạng tự đặt cho mình cái tên rất kêu là “Nhật ký yêu nước” để hô hào thanh niên đi biểu tình.
Có thể nói, chưa bao giờ lòng yêu nước lại bị lợi dụng, đánh đồng với những “động cơ đen”, trở thành một quân bài trong bộ bài nham hiểm chống phá Việt Nam.

"Lòng trung thành" của nhóm thư ngỏ 61



"Lòng trung thành” của nhóm thư ngỏ 61

Hiện nay, trên mạng Internet có nhiều ý kiến tranh luận về bức thư ngỏ của 61 đảng viên “trung thành” gửi Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Dưới lăng kích của các tác giả khác nhau về cùng một vấn đề, có nhiều tác giả đăng bài phản đối kịch liệt, cũng lắm người tán thưởng vỗ tay, người nói thế này, người nói thế khác, cũng có người dùng các thủ thuật để che giấu mục đích của mình.
Với bức thư được đăng tải ngay trước thềm Đại hội Đảng lần thứ XII của Đảng, “61 Đảng viên trung thành” đã lựa chọn thời điểm hết sức “hợp lý”, phần nào thể hiện sự “quan tâm lo lắng” của họ đến thời cuộc, đến vận mệnh của Đảng, tương lai thể chế chính trị của nước nhà.
Sự thật về lòng "trung thành" của nhóm thư ngỏ 61
Bản thân tôi cũng chú ý đến câu chuyện về bức thư này và đã đọc nhiều bài viết của nhiều tác giả, với nhiều hướng khác nhau. Nhất là, sau khi đọc bài của Minh Tâm về trường hợp ông Đoàn Văn Phương một trong 61 người được cho là ký tên vào thư ngỏ. Theo bài viết, ông Phương vừa không là Đảng viên, lại vừa không biết gì về bức thư này. Sau đó, tôi đã cất công tìm hiểu thêm về những nhân vật của nhóm người tự xưng là “61 Đảng viên trung thành với Đảng” này, mà theo thông tin đăng tải là đang sống tại thành phố Hồ Chí Minh và thật bất ngờ khi trường hợp của ông Phương không phải là trường hợp duy nhất, mà trong nhóm người này còn có nhiều nhân vật khác cũng gần như vậy. Sau khi tìm hiểu, thì có 22 người đang sống tại thành phố Hồ Chí Minh, trong số đó, một số nhân vật thời gian gần đây nổi tiếng trên mạng với những ý kiến đi ngược đường lối chủ trương của Đảng, tham gia vào nhiều thư ngỏ khác nhau nhưng cùng một mục tiêu đó là đòi Đảng từ bỏ vị trí cầm quyền, kích động biểu tình gây mất ổn định an ninh trật tự như Kha Lương Ngãi, Hà Quang Vinh, Tương Lai, Lê Công Giàu, Hạ Đình Nguyên… Đặc biệt hơn, trong đó có người đã bỏ sinh hoạt Đảng từ lâu, không còn là Đảng viên nữa như Lữ Phương; có người thì đã đi định cư tại nước ngoài, không tham gia bất kỳ sinh hoạt nào của Đảng là Cao Lập, thế mà họ vẫn tự xưng là Đảng viên, là Đảng viên “trung thành”.
Như vậy có thể thấy rõ rằng, tự nhận là nhóm Đảng viên “trung thành” nhưng lại có nhiều người không còn là Đảng viên nữa, hay không tham gia sinh hoạt Đảng nữa, vậy nhóm người này gửi thư ngỏ với mục đích gì? Có đúng thật là vì Đảng, vì sự phát triển của đất nước không, hay là do một thế lực nào đó, một tổ chức nào đó lôi kéo, tập hợp lại, rồi mượn danh Đảng viên, mượn danh “yêu nước” mà tạo nên một sự hỗn loạn về thông tin, gieo rắc những mầm mống độc hại cho xã hội tạo nên sự bất ổn về tư tưởng, an ninh, gây nhiễu loạn, gây bất ổn trong quần chúng nhân dân, chia rẽ mối đoàn kết của dân tộc. Ngoài 22 người đang sống tại thành phố Hồ Chí Minh, số còn lại của nhóm này phần đông đang ở Hà Nội, vậy trong số đó có trường hợp nào giống như các nhân vật vừa nêu hay không? Đề nghị các cơ quan chức năng của Hà Nội sớm công khai để mọi người hiểu rõ bộ mặt thật của nhóm tự xưng là 61 đảng viên “trung thành” này.
Trong giai đoạn mà toàn Đảng, toàn dân đang chuẩn bị cho một đợt sinh hoạt chính trị trọng đại là Đại hội lần thứ XII của Đảng, bên cạnh những phấn đấu, quyết tâm của đại bộ phận đảng viên và quần chúng nhân dân phải chăng là một dàn hợp xướng lỗi nhịp của những cái gọi là nhóm 61, nhóm 72, nhóm café nhân quyền, nhóm họp mặt dân chủ, nhóm nhà báo, nhà văn độc lập…, cho dù khoác lên mình tấm áo mới là chống Trung Quốc, nhưng thực chất là chống lại đường lối đối ngoại sáng tạo, độc lập tự chủ của Đảng và Nhà nước. Các nhóm này thông qua nhiều con đường khác nhau, nhiều phương thức khác nhau, nhưng mục đích cuối cũng vẫn là tiếp tay cho Việt Tân và các tổ chức phản động lưu vong chống lại sự lãnh đạo của Đảng, chống lại sự phát triển của đất nước, gây chia rẽ, phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, cũng như làm tổn hại niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng.
Mỗi một người dân đều có cách yêu nước của chính mình, nhưng yêu nước phải gắn với xây dựng và bảo vệ đất nước, đừng biến tình cảm thiêng liêng đó thành cơ hội cho việc tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước, bóp méo sự thật, tạo sự mơ hồ, gây ra những lệch lạc về mặt tư tưởng, tạo ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội. Trong muôn vàn khó khăn của thời cuộc, chặng đường đi đến đích cuối cùng còn dài, thử thách còn nhiều và chắc sẽ còn nhiều kẻ như những nhóm người này, mượn danh vì dân tộc, vì đất nước hay khoác lên mình tấm áo dân chủ rồi tự cho mình cái quyền muốn làm gì thì làm, muốn nói gì thì nói bất chấp cả kỷ cương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Cho dù họ có cố gắng nói như thế nào đi chăng nữa, thực tiễn vẫn là thước đo đúng đắn nhất của chân lý, và rằng bánh xe lịch sử sẽ nghiền nát tất cả những gì cản đường phát triển của đất nước của dân tộc.

thực chất của :Nhóm thư ngỏ 61"?



Thực chất cái gọi là "Nhóm thư ngỏ 61"

Tôi viết bài này để mọi người hiểu rõ hơn sự vu cáo, xuyên tạc đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng của “nhóm thư ngỏ 61”.
“Thư ngỏ” cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô-viết, dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần 30 năm qua sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi đó vẫn giữ nguyên chế độ độc đảng toàn trị đã kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện”. Xin hỏi 61 vị lão thành trước khi có Đảng, đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam như thế nào? Chắc các vị đã có câu trả lời, nhưng các vị lại cố tình quên đi lịch sử của dân tộc? Trước khi có Đảng, dân tộc Việt Nam phải sống trong đêm trường nô lệ, có biết bao phong trào yêu nước đứng lên đấu tranh đều không thành công, bị dìm trong biển máu và chỉ từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thì mới giành được độc lập, tự do cho dân tộc; chính Đảng chứ không phải một đảng nào khác đã hy sinh tính mạng và chịu trách nhiệm bảo vệ dân tộc này, đất nước này một khi đất nước bị lâm nguy, và chính Đảng ta là người đã dẫn dắt dân tộc đi từ đống tro tàn đổ nát của chiến tranh, từ một nước cực kỳ lạc hậu, không có tên trên bản đồ thế giới, với sự bao vây cấm vận triền miên, để rồi vươn lên thành một Việt Nam hôm nay, điều đó được bàn bè trên thế giới đánh giá nhìn nhận: “Việt Nam như một sức trẻ đang lên, độc lập, tự chủ, vững vàng, tự tin và đang xây dựng một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Việt Nam từ tầm vóc quốc gia, khu vực, tiến lên hàng tầm vóc quốc tế đáng tin cậy”. Cựu Tổng giám đốc Quỹ tiền tệ quốc tế thì vô cùng ngạc nhiên và ấn tượng, ông đánh giá: “Có hai điều làm tôi vô cùng ngạc nhiên. Thứ nhất, là sự thành công đáng để học tập của Việt Nam trong vòng mười năm qua chung quanh nỗ lực tăng trưởng và giảm nghèo. Thứ hai, với những gì tôi chứng kiến, tôi có thể khẳng định rằng sự tiếp cận của Việt Nam đối với quá trình toàn cầu hóa là hoàn toàn khéo léo và khôn ngoan. Ở Pháp, hằng ngày, hằng giờ nhiều người đang bày tỏ sự lo lắng, sợ hãi trước thay đổi chóng mặt từ những hệ quả của toàn cầu hóa mà điển hình là các cuộc biểu tình. Còn ở Việt Nam thì ngược lại, các bạn đang tự tin hội nhập để làm sao hưởng lợi tốt nhất từ toàn cầu hóa và giảm thiểu những tác động tiêu cực của nó. Những gì mà Chính phủ Việt Nam đang thực hiện có thể là một lời giải đáp khôn khéo cho những thách thức của toàn cầu hóa”.
Các vị lão thành kia hãy trả lời đi, kể từ ngày lập quốc, có đảng nào làm được như vậy cho dân tộc này, đất nước này như vậy hay không? Sự thật là như thế, vậy tại sao Đảng phải từ bỏ vai trò lãnh đạo của mình?
Xin hỏi 61 vị lão thành kia nếu không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta bây giờ sẽ như thế nào, đang ở đâu? Nếu không có những người lính cộng sản anh dũng chiến đấu chống kẻ thù xâm lược thì nước Việt liệu có được như ngày hôm nay hay không? Lịch sử dân tộc đã chứng minh, khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình, khoa học và sáng tạo của Đảng ta; Tổ quốc và nhân dân bao thế hệ đã và đang khắc ghi công ơn to lớn của Đảng và những người con ưu tú của dân tộc. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã giành được những thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh vực. Đời sống của quần chúng nhân dân được nâng lên cả về vật chất lẫn tinh thần. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đang từng bước được khẳng định. Điều này ai ai cũng đều biết…
Vậy mà, các vị lại phủ nhận công lao của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi Đảng từ bỏ quyền lãnh đạo đất nước, từ bỏ lý tưởng, hệ tư tưởng với mục đích “cao đẹp” là để “cứu đảng”? Xin thưa với các vị, cái gì hợp lý thì tồn tại, cái tồn tại nghĩa là nó hợp lý. Lịch sử không thể bị xuyên tạc và sự thật không thể che giấu. Phải chăng vì “cái tôi” của mình mà các vị tự thôi miên và tưởng tượng ra rằng ta đây “vì lợi ích của dân tộc, vì lợi ích của nhân dân”, nhưng thực ra các vị đang đi ngược lại quyền lợi của dân tộc, của  đất nước, làm trái với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân, các vị chỉ lừa gạt được những người nhẹ dạ cả tin là mình "61 ông lão thành" này thành tâm với đảng? chứ các vị không lừa được 90 triệu người dân trong nước và  4 triệu người dân Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay họ đã hiểu ra vấn đề ai mới là những người vì dân, vì nước, cho nên hàng năm có hàng triệu thanh niên và quần chúng ưu tú làm đơn xin vào Đảng. Bởi vì, họ xác định vào đảng là vì mục đích, lý tưởng cao cả của Đảng. Họ biết, Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng đại diện cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Đảng không có mục đích nào khác là phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ công bằng, văn minh, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, tiến lên xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn. Họ muốn là đảng viên để có điều kiện, để phấn đầu và được cống hiến sức mình cho lý tưởng, mục đích đó của Đảng, đó là lời tuyên thệ của tất cả những người đảng viên chân chính./.

NĂM LÝ DO CƠ BẢN ĐỂ KHẲNG ĐỊNH KHÔNG THỂ ĐA NGUYÊN CHÍNH TRỊ, ĐA ĐẢNG ĐỐI LẬP Ở VIỆT NAM



NĂM LÝ DO CƠ BẢN ĐỂ KHẲNG ĐỊNH
KHÔNG THỂ ĐA NGUYÊN CHÍNH TRỊ, ĐA ĐẢNG ĐỐI LẬP
Ở VIỆT NAM
Một là, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không phải là chế độ chính trị của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đa nguyên chính trị là một khuynh hướng xã hội học - triết học, tuyệt đối hóa sự đa dạng đối kháng của các nhóm, đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau trong xã hội. Nó xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII, khi giai cấp tư sản còn là giai cấp tiến bộ trong đấu tranh chống độc quyền, bảo vệ sự đa dạng và bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự do dân chủ tư sản. Khi các tổ chức độc quyền xuất hiện, đa nguyên chính trị mất dần ý nghĩa ban đầu, trở thành thủ đoạn để điều chỉnh lợi ích trên nguyên tắc cạnh tranh giữa các nhóm, tổ chức độc quyền có lực lượng ngang bằng nhau và là bình phong “dân chủ” che đậy sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội tư bản. Khi chủ nghĩa xã hội xuất hiện, đa nguyên chính trị trở thành công cụ tư tưởng để giai cấp tư sản chống các nhà nước xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân và các trào lưu tiến bộ trên thế giới bằng việc đòi mở rộng quyền tự do dân chủ vô chính phủ, chống nguyên tắc tập trung dân chủ, đòi thực hiện chế độ đa đảng, nhằm vô hiệu hóa và từng bước đẩy Đảng Cộng sản khỏi vị trí lãnh đạo xã hội, đòi xây dựng nhà nước pháp quyền tư sản - bề ngoài đại diện cho lợi ích của tất cả các nhóm, đảng phái đối lập, nhưng thực chất đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản. Như vậy, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập tất yếu không phải là mô hình chính trị của chế độ xã hội chủ nghĩa.
 Hai là, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không bảo đảm được dân chủ đích thực.
Bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Muốn thực hiện được nó thì trước tiên người lao động phải xây dựng nên một chính đảng cùng một chính phủ duy nhất đại diện cho quyền lực của mình. Với một chế độ xã hội, thì hoặc quyền lực thuộc về giai cấp bóc lột hoặc thuộc về giai cấp bị bóc lột mà thôi. Không có thứ quyền lực hay dân chủ cho mọi giai cấp. Bản chất của đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong xã hội tư bản chỉ nhằm một mục tiêu duy nhất là bảo đảm quyền lực cho giai cấp tư sản bóc lột.
Ba là, lịch sử cách mạng Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân, đế quốc đã xuất hiện và phủ định đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập như một tất yếu tự nhiên.
Năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo toàn dân tộc đứng lên khởi nghĩa, giành chính quyền, thiết lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đặt quyền lợi của quốc gia, dân tộc lên trên hết nên trong những ngày đầu gìn giữ chính quyền và nền độc lập dân tộc, Đảng ta đã tự tuyên bố giải tán và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã mở rộng thành phần cho mọi tổ chức, chính đảng cùng tham gia lãnh đạo đất nước. Song, trong quá trình cách mạng, các tổ chức đảng phái hoặc phản động, hoặc có đường lối không đúng đắn, không vì quyền lợi của quốc gia, dân tộc đã lần lượt bị chính nhân dân loại bỏ, chỉ còn lại duy nhất Đảng Cộng sản Đông Dương do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo có đường lối cách mạng đúng đắn, vì quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động, vì nền độc lập và sự phát triển của đất nước đã được nhân dân lựa chọn là chính đảng duy nhất đại diện cho quyền lợi của mình. Sau 1954, Đảng ta cũng chủ trương tổng tuyển cử tự do, thành lập chính phủ liên hiệp, thống nhất nước nhà, nhưng chính chính quyền Ngô Đình Diệm đã bác bỏ và phủ nhận thể chế đa nguyên đó. Mặt khác, được sự tiếp sức của đế quốc Mỹ, các thế lực phong kiến và phản động ở miền Nam cũng đã từng lập nên một chính thể đa nguyên với sự tham gia của nhiều đảng phái. Nhưng mục đích chính trị của các đảng phái đó lại chống lại nền độc lập dân tộc và quyền lợi của nhân dân lao động, nên nhân dân cả nước ta đã đứng lên lật đổ thể chế chính trị đó, thiết lập nên nền chính trị nhất nguyên và lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là người đại diện duy nhất cho quyền lợi của nhân dân lao động và cả dân tộc. Tính tất yếu của quá trình lịch sử tự nhiên đó đã và đang được nhân dân ta khẳng định trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Bốn là, Đảng Cộng sản Việt Nam - một chính đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã và đang không ngừng xây dựng và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế trong nền chính trị nhất nguyên.
Nền chính trị nhất nguyên ở nước ta là do nhân dân ta lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng ở nước ta đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân lao động. Đó là độc lập, tự do cho dân tộc; là quyền tự quyết dân tộc, quyền bình đẳng với mọi quốc gia khác trong việc lựa chọn con đường phát triển đi lên của mình; là quyền tự do lập hiến và lập pháp, lựa chọn và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân; là quyền bình đẳng giữa các dân tộc, giữa các thành phần kinh tế; quyền tự do làm giàu theo pháp luật, phát huy dân chủ gắn liền với giữ vững kỷ cương xã hội; là sự phát triển trong đa dạng các sắc màu văn hóa dân tộc; là sự tiến bộ trong giáo dục, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu vì sự tiến bộ và phát triển toàn diện con người… Những thành tựu không thể phủ nhận của nền chính trị nhất nguyên đó đã khẳng định và ngày càng củng cố vững chắc hơn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Năm là, dư luận quốc tế, chính phủ và nhân dân các nước dân chủ, tiến bộ trên thế giới đánh giá cao, ủng hộ Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ nhất nguyên ở Việt Nam.
Trước những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, dư luận quốc tế, chính phủ nhiều nước, các tổ chức quốc tế và nhân dân thế giới đã bày tỏ sự khâm phục và ủng hộ chế độ chính trị ở Việt Nam. Nhiều đoàn đại biểu quốc tế sang Việt Nam nghiên cứu và học tập kinh nghiệm về xây dựng sự ổn định chính trị xã hội.

 

KHÔNG BIẾT THÌ “DỰA CỘT MÀ NGHE” CHO RÕ VỀ “XÃ HỘI DÂN SỰ” PHẠM CHÍ DŨNG NHÉ



KHÔNG BIẾT THÌ “DỰA CỘT MÀ NGHE” CHO RÕ VỀ “XÃ HỘI DÂN SỰ” PHẠM CHÍ DŨNG NHÉ
Thời gian gần đây, cái tên Phạm Chí Dũng được một số trang blog phản động (như: thuymyrfi, ntuongthuy….) tung hô với một vài hành động, phát ngôn chống Đảng cộng sản Việt Nam nhằm “câu” tiền tài trợ của nước ngoài. 
Mới đây, Phạm Chí Dũng còn hùng hồn tuyên bố: “Đảng cộng sản Việt Nam cần thừa nhận xã hội dân sự”. Than ôi! Thương thay cho kẻ “ếch ngồi đáy giếng”! Chí Dũng ơi, về đọc sách rồi hãy trả lời báo nhé, nói năng bừa bãi kiểu này không kiếm tiền được đâu. Không biết thì dựa cột mà nghe cho rõ về “xã hội dân sự” nhé!
Theo cách hiểu chung nhất: “Xã hội dân sự cấu thành từ tổng thể của các tổ chức xã hội và dân sự tự nguyện mà các tổ chức này tạo nên cơ sở của một xã hội tự vận hành, khác với các cấu trúc quyền lực của một Nhà nước (bất kể hệ thống chính trị của Nhà nước này thuộc kiểu gì) và các thể chế thương mại của thị trường” (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Tuy nhiên, các nước phương Tây thì luôn rêu rao xã hội dân sự với quan điểm: “Xã hội dân sự là xã hội trong đó các tổ chức khác nhau của các công dân như đảng phái, công đoàn, hợp tác xã, nhóm... thực hiện mối liên hệ giữa công dân với Nhà nước, không để cho Nhà nước áp bức các công dân của mình”. Bản chất của ý tưởng này là mong muốn có một xã hội mà trong đó các tổ chức, cá nhân không bị ràng buộc bởi Nhà nước, cho dù họ có hành động chống lại lợi ích của cộng đồng, Nhà nước.
Nếu hiểu theo khái niệm đầu tiên thì “xã hội dân sự” là sự liên minh tự nguyện của các tổ chức xã hội “tự vận hành” bên cạnh Nhà nước; thì trên thế giới này chưa thấy có một “xã hội dân sự” nào như thế. Bởi bất kỳ tổ chức xã hội nào trong thể chế chính trị nào cũng đều dưới hoặc bị sự chi phối công khai hoặc ngấm ngầm của Nhà nước.

Riêng hiểu theo khái niệm của các nhà tư sản phương Tây thì lộ rõ ra cái mục đích chính trị của các tổ chức xã hội.
Ai cũng thấy rõ tính chất còn mù mờ của khái niệm và chưa hình dung nổi nếu có một “xã hội dân sự” thì nó có quyền lực gì, chi phối xã hội ra sao… Riêng người viết bài này thì nhận thức vấn đề là: Nếu cái gì tốt đẹp, tích cực của cái gọi là “xã hội dân sự” thì xã hội ta đang có. Ví dụ chúng ta có tổ chức Công đoàn bảo vệ quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động. Tương tự là các tổ chức Hội Nông dân, Hội Người cao tuổi… Các tổ chức này cũng là cầu nối giữa Nhà nước với hội viên…
Điều đáng lưu ý là ở chính các nước phương Tây và Mỹ, một mặt khuyến khích “xã hội dân sự” trên hình thức để mị dân chính quốc và thi hành chính sách “diễn biến hòa bình” ở các nước cần thay đổi thể chế chính trị; một mặt lại giám sát, cấm đoán một cách chặt chẽ các tổ chức xã hội nếu thấy có mối nguy cơ tiềm ẩn. Ví dụ, Điều 16 Công ước châu Âu quy định các nước tham gia cần có những hạn chế đối với hoạt động chính trị của người nước ngoài trong các trường hợp liên quan đến quyền tự do lập hội. Dưới góc độ kinh tế thì mối nguy hại của “xã hội dân sự” được chính Ngân hàng Phát triển châu Á nhận xét: “Các tổ chức xã hội công dân cũng có thể bao gồm những hiệp hội có động cơ bạo lực, tham lam, lợi ích cục bộ, thù địch sắc tộc và đàn áp xã hội, cũng như các tổ chức kinh doanh vận động hành lang như ngành công nghiệp thuốc lá, là không thể đại diện cho lợi ích đông đảo của công chúng”(Ngân hàng Phát triển châu Á: Phục vụ và duy trì, cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh. NXB. Chính trị Quốc gia. Hà Nội.2003. tr.613). Dẫn chứng này cho thấy ngay tính chất vô chính phủ, tự phát, cơ hội của các tổ chức trong “xã hội dân sự” nếu không có một cơ chế quản lý chính trị chặt chẽ.
Vậy nên, Chí Dũng à, ngẫm kỹ đôi lời trên rồi hãy ba hoa nhé!

bản chất về "xã hội dân sự" ở Việt Nam theo tiêu chí phương tây


"xã hội dân sự" (XHDS) ở Việt Nam theo tiêu chí phương Tây 


Thời gian qua, việc tác động để hình thành một "xã hội dân sự" (XHDS) ở Việt Nam theo tiêu chí phương Tây đang được một số người cổ vũ và thực hiện. Vậy thực chất "xã hội dân sự" là gì, đây có phải là một trong các phương thức hoạt động nhằm chuyển hóa chế độ mà những thế lực chủ mưu diễn biến hòa bình (DBHB) đã áp dụng thành công ở Đông Âu, Trung Đông, Bắc Phi, và hy vọng sẽ thành công ở Việt Nam?
Theo một số học giả và tổ chức nước ngoài, khái niệm XHDS (civil society) xuất hiện sớm nhất ở nước Anh, và được hiểu là việc những con người sống trong cộng đồng. Theo lý thuyết của Scottish (thế kỷ XVIII), XHDS có nghĩa là xã hội văn minh với một nhà nước không độc đoán. Đến thế kỷ XIX, Hegel mô tả XHDS như là một phần của đời sống đạo đức, bao gồm ba yếu tố gia đình, XHDS và nhà nước, trong đó các cá nhân theo đuổi những lợi ích riêng trong giới hạn đã được pháp luật thừa nhận... Theo tổ chức Liên minh thế giới vì sự tham gia của công dân (CIVICUS) - một tổ chức phi chính phủ (NGO) tại Nam Phi, XHDS là "diễn đàn giữa gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mà mọi con người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung". Cùng với khái niệm XHDS, còn có một số cụm từ, khái niệm khác có liên quan, như: "xã hội công dân" (citizens society - CS), "tổ chức XHDS" (Civil Society Organization - CSO), "tổ chức phi chính phủ" (Non governmental organization - NGO)... Đây là những khái niệm ra đời từ các chủ thể khác nhau nhưng lại có liên quan chặt chẽ, trong đó nổi bật là quan niệm không có NGO (tổ chức quần chúng, hội, đoàn thể...) thì không thể hình thành XHDS. Trong một xã hội, nếu có nhiều tổ chức NGO hoạt động mạnh thì sẽ có XHDS phát triển và ngược lại. Nhìn từ cấu thành cơ bản một xã hội với ba thành phần là nhà nước, doanh nghiệp và XHDS, một số nhà nghiên cứu nước ngoài cho rằng, nếu ba yếu tố này cân bằng thì xã hội, chế độ chính trị sẽ ổn định, phát triển hài hòa. Ngược lại, nhà nước mạnh sẽ dẫn tới chế độ độc tài, nếu XHDS mạnh, thì sẽ dẫn tới vô chính phủ, bất ổn về xã hội và chế độ sẽ sụp đổ. Đây chính là lý do để các thế lực thù địch quan tâm nghiên cứu, vận dụng, nhằm lợi dụng vai trò của XHDS trong hoạt động lật đổ một chế độ như họ đã thực hiện tại một số nước trong thời gian qua.
Một số học giả trên thế giới có quan điểm chống cộng rất đề cao vai trò của XHDS trong các cuộc "cách mạng màu" lật đổ chế độ XHCN tại Đông Âu trước đây. Bronislaw Geremek, nhà sử học, cố vấn đặc biệt của Tổng thống Ba Lan Lech Valesa từ những ngày đầu xuất hiện Công đoàn Đoàn kết cho rằng: "Khái niệm XHDS, được hiểu như một chương trình chống lại chủ nghĩa cộng sản, xuất hiện đầu tiên tại Ba Lan vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX, ban đầu chỉ đặt trong mối liên quan đến phong trào Đoàn kết. Thời gian dài sau đó, trong thế giới cộng sản xuất hiện một phong trào độc lập của quần chúng đòi tẩy chay hệ thống cầm quyền". Bronislaw Geremek đánh giá cao vai trò của XHDS trong việc lật đổ chế độ XHCN tại Ba Lan: "Đối đầu với phong trào quần chúng khổng lồ này là sức mạnh của bộ máy chế độ, gồm: quân đội, cảnh sát và bộ máy hành chính (kể cả guồng máy Đảng Cộng sản). Tuy nhiên, đến khi đó, tất cả đều không còn tính hợp pháp, họ bị loại ra khỏi tầm kiểm soát xã hội, đồng thời cũng mất đi mọi sự ủng hộ của xã hội. Trong phong trào Đoàn kết, chúng tôi đặt hy vọng bao vây, cô lập bộ máy công quyền đó bằng một thứ giống như cái kén tằm, từng bước cô lập và sau đó là đặt bộ máy đảng - nhà nước ra bên lề".
Tại Đông Âu trước đây, có những "tổ chức chính trị đối lập" hình thành, phát triển và hoạt động với danh nghĩa là "tổ chức XHDS", như Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan, Hội Văn hóa Ucraina ở Liên Xô trong những năm 80 của thế kỷ XX... Thông qua việc lôi kéo công nhân, với sự hỗ trợ từ nước ngoài (như Trung tâm Đoàn kết Lao động Quốc tế Mỹ - ACILS) và một số tổ chức Công giáo, từ những năm 70 tại Ba Lan đã xuất hiện các tổ chức như: Ủy ban bảo vệ công nhân (KOR), Phong trào Bảo vệ các quyền dân sự và con người (ROPCiO), sau đó Công đoàn Đoàn kết Ba Lan được thành lập. Thông qua Công đoàn Đoàn kết, các thế lực thù địch đã tổ chức thành công việc lật đổ chế độ XHCN tại nước này. Tương tự, tại Tiệp Khắc, với sự hỗ trợ của bên ngoài, các đối tượng chống đối chế độ đã thành lập Phong trào Hiến chương 77 làm hạt nhân. Các cuộc "cách mạng đường phố" tại các nước vùng Trung Đông - Bắc Phi thời gian qua cũng cho thấy vai trò của các cơ quan đặc biệt nước ngoài, các NGO, trong việc hỗ trợ các tổ chức XHDS lôi kéo, kích động quần chúng lật đổ chế độ.
Hiện nay, các nước, các tổ chức quốc tế, các NGO nước ngoài đang tìm mọi cách để hình thành, phát triển XHDS theo tiêu chí phương Tây ở Việt Nam, qua đó thực hiện mục tiêu lật đổ chế độ XHCN bằng biện pháp "bất bạo động", "phi vũ trang". Hoạt động này nằm trong ý đồ thực hiện "tiến trình dân chủ ở Việt Nam" với mục đích lợi dụng XHDS để gây mất ổn định chính trị, tiến tới thay đổi chế độ như xảy ra tại các nước Đông Âu, SNG và Trung Đông - Bắc Phi thời gian qua. Báo cáo Khỏa lấp sự cách biệt: XHDS mới nổi tại Việt Nam của một tổ chức quốc tế cho rằng, các NGO Việt Nam và các tổ chức tại cộng đồng đã tạo ra một thách thức to lớn. Bản báo cáo khuyến nghị một số lĩnh vực cần quan tâm để thúc đẩy XHDS tại Việt Nam, như cải thiện môi trường xã hội, luật pháp và kinh tế cho các NGO, tăng cường năng lực các tổ chức xã hội cho việc thực hiện nghiên cứu và đánh giá các hoạt động của các tổ chức XHDS tại Việt Nam. Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, một số NGO nước ngoài rất quan tâm đến các tổ chức chính trị, xã hội ở nước ta và tìm cách xâm nhập, tác động, chuyển hóa các tổ chức này để chuyển hướng hoạt động chính trị trong khi chưa đủ điều kiện thành lập tổ chức đối lập. Thông qua các hoạt động như triển khai dự án, hỗ trợ, tài trợ, tổ chức hội thảo với các NGO Việt Nam, một số tổ chức nước ngoài đã cố gắng tìm hiểu nội bộ, xu hướng quan điểm của các NGO Việt Nam về sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức quần chúng, kích động sự thoát ly vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, cổ vũ quyền tự do lập hội theo tiêu chí phương Tây. Ngoài ra, một số tổ chức nước ngoài còn tài trợ tài chính cho một số NGO Việt Nam để hỗ trợ việc xuất bản, phát hành tài liệu nghiên cứu, văn bản luật nước ngoài nhằm tuyên truyền quan điểm, pháp luật phương Tây đến với công chúng Việt Nam một cách công khai.
Các tổ chức phản động nước ngoài cũng tìm cách phát triển XHDS tại Việt Nam để phục vụ ý đồ chống phá từ bên trong. Tổ chức Bảo vệ người lao động (của Trần Ngọc Thành tại Ba Lan) gia tăng hoạt động nhằm chuyển hướng hoạt động xâm nhập vào trong nước với ý đồ xây dựng các tổ chức công đoàn tự do. Tổ chức Mạng lưới tuổi trẻ Việt Nam lên đường đã tiến hành Đại hội thanh niên sinh viên Việt Nam trên thế giới lần thứ V vào tháng 1-2008 tại Malaysia với chủ đề XHDS: dân chủ từ sức mạnh quần chúng với mục đích trao đổi để tìm cách cho ra đời một XHDS độc lập với chính quyền, tôn trọng nhân quyền, có các công đoàn độc lập, có tự do báo chí... Tại đại hội này, các đối tượng tham gia đã đề ra mục tiêu để tiến hành "cuộc cách mạng hòa bình" tại Việt Nam là phải xây dựng được một XHDS bền vững và muốn thay đổi xã hội thì không chỉ trên phương diện chính trị, mà còn trên các phương diện kinh tế, luật pháp, trong mỗi cộng đồng dân cư. Tại hội thảo Chuyển đổi Nhà nước Việt Nam: Các tác động lên Việt Nam và khu vực do các đối tượng bên ngoài tổ chức ở Hồng Công tháng 8-2008 đã tập trung bàn luận các nội dung: thách thức tự nhiên của XHDS đối với chế độ độc đảng ở Việt Nam; XHDS trong bối cảnh Việt Nam, sự trỗi dậy của XHDS qua việc tập trung vào hoạt động của Khối 8406 và Việt Tân. Qua đây cho thấy, các thế lực phản động bên ngoài rất quan tâm đến việc lợi dụng XHDS để thực hiện âm mưu lật đổ chế độ.
Đáng chú ý là một số đối tượng cơ hội chính trị có quan điểm chống đối cực đoan đã lợi dụng một số tổ chức quần chúng hợp pháp để tổ chức các hội thảo, tọa đàm, diễn đàn có nội dung đòi hỏi đưa Hiến pháp 1992 trở về Hiến pháp năm 1946, trưng cầu ý dân về Điều 4 cũng như toàn bộ Hiến pháp, lập Tòa án Hiến pháp, thúc đẩy XHDS và thực hiện các quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, báo chí, lập hội theo tiêu chí phương Tây, tư hữu hóa đất đai... Nếu thực hiện các nội dung này theo ý đồ của họ thì chế độ XHCN thực tế sẽ không còn tồn tại ở Việt Nam. Đây là phương thức đấu tranh công khai rất nguy hiểm, nếu không cảnh giác có thể sẽ giúp các thế lực thù địch lợi dụng các tổ chức XHDS để đưa ra những kiến nghị nhằm thay đổi thể chế, thay đổi hệ thống luật pháp XHCN bằng luật pháp dân chủ, tư sản.
Để góp phần phòng, chống âm mưu và hoạt động tác động hình thành XHDS theo tiêu chí phương Tây, chúng ta cần đề cao cảnh giác trước các âm mưu và hoạt động tác động hình thành XHDS của các thế lực thù địch, đặc biệt là tác động, ảnh hưởng của vấn đề này đối với an ninh quốc gia. Bên cạnh việc tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, cần thường xuyên tổ chức, tiến hành các hoạt động tuyên truyền về âm mưu, ý đồ của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề XHDS để tác động chuyển hóa chính trị. Đảng, Nhà nước cần ban hành các chủ trương, chính sách, xây dựng hệ thống văn bản pháp luật phù hợp, điều chỉnh hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội phù hợp với định hướng phát triển đất nước. Cùng với việc nghiêm túc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tổ chức, hoạt động của các hội, đoàn thể cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này, sao cho phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa Việt Nam. Đồng thời tăng cường công tác quản lý các tổ chức xã hội, không để các thế lực thù địch lợi dụng. Trong bối cảnh các tổ chức xã hội đang có xu hướng ngày càng phát triển, cần thường xuyên nắm chắc tình hình, diễn biến hoạt động của các tổ chức này nhằm phát hiện kịp thời những vấn đề phức tạp có liên quan đến an ninh quốc gia để chủ động xây dựng các biện pháp, giải pháp đấu tranh phòng, chống hiệu quả. Đặc biệt, cần kiên quyết xử lý các hành vi hoạt động vi phạm pháp luật, đồng thời tăng cường đối thoại, tiếp xúc, cảm hóa, không để các thế lực thù địch lôi kéo nhằm thực hiện ý đồ chống đối từ bên trong...

Góp phần đấu tranh phòng, chống “ diễn biến hòa bình ” trên lĩnh vực tư tưởng“ , văn hóa trong tình hình mới



Góp phần đấu tranh phòng, chống “ diễn biến hòa bình ” trên lĩnh vực tư tưởng“ , văn hóa trong tình hình mới

 

“Diễn biến hoà bình" là một chiến lược chống phá các nước xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, với mục đích giành "chiến thắng mà không cần chiến tranh".
Đó là một chiến lược phản động, cực kỳ nguy hiểm, nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, chiến lược “diễn biến hoà bình" đang được các thế lực thù địch sử dụng với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn.
Các thế lực thù địch đã sử dụng tổng hợp các phương thức, thủ đoạn tiến hành chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... và không loại trừ khi có điều kiện và thời cơ chúng kết hợp giữa “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ với biện pháp vũ trang tiến hành chiến tranh xâm lược. Song trọng tâm, then chốt vẫn là phá hoại về chính trị, tư tưởng, văn hóa, nhằm làm giảm niềm tin, gây hỗn loạn về tư tưởng, gây chia rẽ, hoài nghi giữa nhân dân với Đảng, tạo ra khoảng trống về tư tưởng, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ, phá vỡ sự thống nhất về tư tưởng và ý chí trong Đảng, trong toàn xã hội, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Các thế lực thù địch cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam còn đứng vững là do vẫn nắm được lực lượng vũ trang. Nếu làm cho lực lượng vũ trang biến chất, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ mất chỗ dựa, mất một công cụ đắc lực thực hiện chuyên chính vô sản, khi đó chế độ Cộng Sản Việt Nam sẽ tan rã giống như Đông Âu và Liên Xô trước đây.
Nhận rõ sự nguy hiểm của chiến lược “diễn biến hòa bình”, năm 2003, Bộ Chính trị thành lập Ban Chỉ đạo 94 về phòng, chống “diễn biến hòa bình”. Năm 2009, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị 34-CT/TW về tăng cường đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”.
Càng gần đến thời điểm tiến hành Đại hội lần thứ XII của Đảng thì chiến dịch chống phá của các thế lực thù địch càng được đẩy lên cao. Lợi dụng việc Đảng ta tổ chức lấy ý kiến trong Đảng và nhân dân về Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII, chúng tập trung chống phá đường lối, Cương lĩnh, nhân sự cấp cao của Đảng và cho rằng “Văn kiện Đại hội XII sắp tới chỉ mang tính lý luận hình thức, không dám chỉ ra khuyết điểm, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội, không giải quyết được những bức xúc của nhân dân, đặc biệt là vấn đề dân chủ, nhân quyền và phòng, chống tham nhũng”. Từ đó, đòi hỏi được thành lập nhóm “đặc biệt” có toàn quyền chuẩn bị dự thảo, báo cáo chính trị và đề xuất những ý kiến theo nhận thức chủ quan mà không câu nệ vào Hiến pháp, Cương lĩnh, Điều lệ Đảng.
Xuất phát từ tình hình nêu trên, để góp phần đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới, cần thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:
Tập trung xây dựng các chi bộ, đảng bộ trong sạch vững mạnh, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đủ sức đề kháng phòng, chống “tự diễn biến” trong từng cán bộ, đảng viên, học viên, nhân viên, chiến sĩ.
Xây dựng các chi bộ, đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; xây dựng các đơn vị VMTD có vai trò rất quan trọng trong phòng, chống “diễn biến hòa bình” tạo ra sức đề kháng đủ mạnh để phòng, chống “tự diễn biến”. Trước hết, tổ chức tốt học tập, quán triệt làm cho cán bộ, đảng viên, học viên, nhân viên, chiến sĩ hiểu đúng, nắm vững, nghiêm túc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, kỷ luật của Đảng, Nhà nước, Quân đội và quy định của đơn vị. Thực hiện nghiêm chế độ, nền nếp sinh hoạt; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng. Làm tốt công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát; đề cao cảnh giác cách mạng, tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) của Đảng.
Duy trì đơn vị thực hiện nghiêm các quy định sẵn sàng chiến đấu. Tổ chức cho các đối tượng thực hiện có hiệu quả các cuộc vận động: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; cuộc vận động: Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ. Đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua quyết thắng; động viên cán bộ, đảng viên, học viên, nhân viên, chiến sĩ hăng hái, phấn khởi thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao.
Quán triệt, học tập làm cho cán bộ, đảng viên, học viên, nhân viên, chiến sĩ hiểu và nhận diện chính xác biểu hiện, mức độ “tự diễn biến” để phòng, chống có hiệu quả:
Sự hoài nghi, dao động, mất định hướng chính trị, khủng hoảng niềm tin, phai nhạt lý tưởng.
Xa rời nguyên tắc và mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, du nhập những tư tưởng lý luận ngoài mác xít đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
Thoái hóa, biến chất về chính trị, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng các mạng; tuyên truyền quan điểm chống Đảng.
Sùng bái chạy theo văn hóa, lối sống tư bản, từ bỏ các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, các giá trị văn hóa xã hội chủ nghĩa, đề cao chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ, xa hoa trụy lạc; cực đoan.
Mâu thuẫn, chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, bè phái, biểu hiện lợi ích nhóm, tranh giành, đấu đá quyền lực.
Kết hợp chặt chẽ thực hiện nhiệm vụ giáo dục đào tạo với đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa.
Để đội ngũ cán bộ, chiến sĩ đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” cần thường xuyên coi trọng xây dựng môi trường giáo dục, đào tạo, môi trường văn hóa sư phạm lành mạnh; xây dựng chương trình, nội dung sát với từng đối tượng. Bồi dưỡng đội ngũ giảng viên có trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đưc, phương pháp sư phạm, kinh nghiệm đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ giảng dạy. Hệ thống giáo trình, tài liệu, cập nhật kịp thời thông tin đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu của các đối tượng. Bồi dưỡng, xây dựng động cơ, thái độ, trách nhiệm đúng đắn cho người học. Làm cho người học say mê học tập, nghiên cứu, tạo ra phong trào học tập, nghiên cứu, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” sôi nổi
Tích cực, chủ động đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Triển khai nghiên cứu đề tài, công trình khoa học các cấp của các đối tượng; quán triệt, vận dụng và khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng. Mặt khác, tích cực phê phán, đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN.
          Đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa hiện nay là nhiệm vụ cấp bách, xuyên suốt của Quân đội ta. Phòng, chống “diễn biến hòa bình” cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống; lấy xây dựng các tổ chức, các lực lượng trong sạch, vững mạnh là biện pháp hữu hiệu để phòng, chống “Tự diễn biến”. Trước mắt, hướng các hoạt động đấu tranh phản bác những quan điểm thù địch chống phá Đại hội XII của Đảng. Thường xuyên đấu tranh bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ chế độ XHCN ở Việt Nam.