Là người lãnh đạo cao nhất và trực tiếp Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều tâm huyết xây dựng và rèn luyện các LLVT nhân dân Việt Nam tận trung với nước, tận hiếu với dân, "nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng", cùng với toàn dân đưa cách mạng nước ta tiến lên, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ðúng như Ðiếu văn của Trung ương Ðảng ta đã viết khi Bác qua đời 2-9-1969: "Hồ Chủ tịch là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Ðảng ta, là người xây dựng nền Cộng hòa dân chủ Việt Nam và Mặt trận dân tộc thống nhất, là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam".
Trong di sản lý luận Hồ Chí Minh, tư tưởng xây dựng
đội quân vũ trang cách mạng của nhân dân làm nòng cốt trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một hệ thống quan điểm về quân sự,
quốc phòng... và hình thành, phát triển gắn liền với quá trình thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Ngay khi tổ chức hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, trong Chính
cương vắn tắt, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ghi rõ nhiệm vụ của Ðảng cần phải tổ
chức đội quân công nông để đánh đuổi chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giải phóng dân
tộc, thành lập chính phủ công nông.
Tháng 2-1941, Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo
phong trào cách mạng. Tháng 5-1941 Bác chủ tọa Hội nghị Trung ương 8 đã đề nghị
tập trung toàn lực giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đoàn kết rộng rãi
các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận Việt Minh, thành lập các đội du kích và
xây dựng căn cứ địa, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Tiến
tới Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, Bác và Trung ương Ðảng chủ trương chuyển
từ đấu tranh chính trị lên đấu tranh vũ trang và kết hợp cả hai hình thức để chống
phát-xít, tổ chức quần chúng rộng rãi và tiến hành huấn luyện quân sự và vũ
trang cho quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang của nhân dân, xây dựng căn cứ
địa cách mạng, phát động chiến tranh du kích, thực hiện khởi nghĩa từng phần,
chớp thời cơ tổng khởi nghĩa khắp thành thị, nông thôn trong cả nước.
Từ yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng phải có
LLVT cách mạng, năm 1941 Bác ra chỉ thị tổ chức đội tự vệ vũ trang ở Cao Bằng.
Người trực tiếp lựa chọn nòng cốt và biên soạn tài liệu về chiến thuật du kích
để huấn luyện cho đội tự vệ các địa phương, huấn luyện cán bộ quân sự... Năm
1943, khi thoát khỏi nhà tù của Tưởng Giới Thạch, Bác đã tìm mọi cách đưa một số
thanh niên được cử đi học quân sự ở Trung Quốc về tăng cường cho lực lượng vũ
trang trong nước. Và khi thành lập Ðội Việt
Chỉ thị của Bác thành lập Ðội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân có ý nghĩa như cương lĩnh quân sự của Ðảng ta, bao gồm những vấn
đề cơ bản về đường lối quân sự của Ðảng. Chỉ thị nêu rõ: "Vì cuộc kháng
chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong
khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng
vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương
diện. Ðội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa
phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này
trưởng thành mãi lên". (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, tr 377, NXB Sự Thật,
Hà Nội, 1983).
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để có LLVT nhân dân hùng
mạnh thì phải chăm lo xây dựng toàn diện cả ba thứ quân, trong đó bộ đội vừa là
đội quân chiến đấu, vừa là đội quân công tác mà công tác dân vận là hàng đầu và
thường xuyên. Kỷ niệm một năm ngày thành lập quân giải phóng, Bác nhắc nhở: Phải
tăng cường huấn luyện quân sự, kỹ thuật, chiến thuật, nâng cao thể lực và trình
độ văn hóa, phải phát triển cái kỷ luật nghiêm như sắt, cái tinh thần vững như
đồng. Phải rèn luyện cho bộ đội tác phong chiến đấu dẻo dai, bền bỉ, chịu đựng
gian khổ, mưu trí dũng cảm, thắng không kiêu, bại không nản, tuyệt đối giữ bí mật.
Người yêu cầu cán bộ quân đội phải gương mẫu, thương yêu binh sĩ như ruột thịt
"từ tiểu đội trưởng trở lên, từ tổng tư lệnh trở xuống phải săn sóc đời sống
vật chất và tinh thần của đội viên" (Huấn thị tại hội nghị kiểm thảo chiến
dịch đường 18, tháng 5-1951).
Hơn 25 năm kể từ khi chỉ thị thành lập LLVT nhân
dân, trên cương vị cao nhất lãnh đạo kháng chiến và kiến quốc, Bác luôn dành
muôn vàn tình thương yêu cho toàn thể bộ đội. Dù bận nhiều công việc, Người vẫn
dành thời gian chăm sóc và giáo dục, rèn luyện các lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong các chiến dịch Bác đi thăm các đơn vị bộ đội, đốc thúc công tác hậu cần,
dự các đợt chỉnh huấn, chỉnh quân, tổng kết rút kinh nghiệm chỉ đạo, tác chiến...
Người viết thư khen, tặng cờ thi đua, biểu dương các đơn vị, cá nhân lập công
xuất sắc và phê bình những việc chưa tốt của cán bộ quân đội. Thông qua những
việc làm cụ thể và bằng tấm gương của Người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giáo dục
cho lực lượng vũ trang và nhân dân ta phát huy chủ nghĩa yêu nước và tinh thần
tự lực kháng chiến, chống tư tưởng muốn đánh mau thắng mau hoặc bi quan, sợ địch
cũng như chủ quan khinh địch...
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người hiểu thấu những hy
sinh, gian khổ của lực lượng vũ trang phải chiến đấu với quân xâm lược có trang
bị vũ khí hiện đại và tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh. Trong những năm kháng chiến
gian lao, thiếu thốn trăm thứ, khó khăn mọi bề, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội. Người động viên toàn dân, kêu
gọi toàn dân chăm lo cho bộ đội và giúp đỡ thương binh, bệnh binh và gia đình
các thương binh, liệt sĩ. Bác thường tặng quà thương binh, bộ đội tác chiến, bộ
đội phòng không bằng tiền lương của Bác và những món quà mọi người tặng Bác.
Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Ðảng, Chính phủ và
nhân dân ta phải làm tốt chính sách đền ơn, đáp nghĩa đối với thương binh, gia
đình liệt sĩ; đối với những cán bộ, chiến sĩ LLVT nhân dân đã chiến đấu, công
tác tỏ ra dũng cảm còn sức khỏe thì phải chăm lo đào tạo thành đội quân chủ lực
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội./.
Đ.Đ.H
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét