Thứ Hai, 22 tháng 8, 2022

ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ VẤN ĐỀ NGÔN NGỮ

 

Thời gian qua, bên cạnh việc bịa đặt, vu khống về tình hình tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam để chống phá Đảng, Nhà nước ta, một số cá nhân, tổ chức phản động, cực đoan, thiếu thiện chí còn thường xuyên lợi dụng và đẩy mạnh việc chính trị hóa, quốc tế hóa các vấn đề dân tộc nhằm tạo cớ gây sức ép và can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Trong đó chúng lợi dụng những bất cập trong vấn đề bảo tồn và phát triển ngôn ngữ của các tộc người ở một vài địa phương, kêu gọi việc cần phải tổ chức hội thảo quốc tế về người dân tộc thiểu số nhằm khơi gợi, kích động tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và ly khai tự trị ở một số tộc người. Nhiều nội dung xuyên tạc đã được chúng đăng tải trên một số tạp chí hải ngoại, mạng xã hội để kêu gọi dư luận quốc tế “lên tiếng” về vấn đề người dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Tuyên truyền, xuyên tạc, chia rẽ đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ với người Kinh, bôi nhọ, hạ thấp uy tín những chức sắc, sư sãi yêu nước, tiến bộ, từ đó kích động ly khai, kêu gọi người dân tham gia đấu tranh thành lập cái gọi là “Nhà nước Khmer Krôm”... Đó là những âm mưu thâm độc, thủ đoạn tinh vi nên cần phải vạch trần và đấu tranh phản bác có hiệu quả.

Thực tế, từ khi thành lập nước đến nay, chính sách về bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số của Đảng, Nhà nước luôn nhất quán trong công tác chỉ đạo và thực hiện. Điều này được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 cũng như nhiều văn bản pháp luật của Quốc hội và Chính phủ. Tại khoản 3 Điều 5 Hiến pháp năm 2013 quy định “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”...

Số liệu thống kê cho thấy, đến năm 2021, tại Việt Nam, hơn 90% hộ gia đình vùng đồng bào dân tộc thiểu số được nghe các chương trình Đài Tiếng nói Việt Nam và trên 80% số hộ được xem truyền hình. Các chương trình phát thanh và kênh truyền hình từ trung ương đến địa phương được phát sóng với 26 thứ tiếng dân tộc đã đến được với bản làng xa xôi.

Những quan điểm trên chính là căn cứ chính trị, pháp lý quan trọng để chúng ta vạch trần, phản bác quan điểm sai trái, xuyên tạc của các cá nhân, tổ chức phản động, cực đoan, thiếu thiện chí. Mỗi chúng ta tiếp tục nâng cao cảnh giác, hết sức tỉnh táo, giữ “cái đầu lạnh” trước những luận điệu xuyên tạc của các đối tượng phản động./.

 

LẠI THÊM MỘT TRÒ HỀ CỦA VIỆT TÂN

 

Khi thấy tin “Việt Tân” lên kế hoạch thả bong bóng để giải cứu trái đất mà tôi cười không thể ngậm miệng được bà con à. Cũng không biết đội ngũ “Việt Tân” ngáo thật hay giả vờ ngáo khi đề xuất thả lên trời những quả bóng bay phản quang, để “trả ánh sáng về vũ trụ” nhằm giữ trái đất khỏi nóng lên. Từ bao giờ một tổ chức k.h.ủ.n.g b.ố lại quan tâm đến việc “giải cứu trái đất” vậy, liệu chăng “mặt trời mọc đằng tây” rồi sao?

Chả hiểu “Việt Tân” nghĩ gì khi muốn những trái bong bóng bao phủ những đám mây rồi để phản chiếu ánh mặt trời, để trái đất không nóng lên. Nói thật những suy nghĩ của “Việt Tân” chẳng bằng đứa cháu học lớp 3 nhà tôi cơ, bởi vì sao?

Thử hỏi rằng khi những quả bong bóng phải bay ở độ cao bao nhiêu, để ánh sáng và nhiệt mà nó hắt “trở lại vũ trụ” mà không bị giữ lại trong tầng khí quyển? Chưa kể liệu những trái bong bóng phải được sản xuất bằng chất liệu gì để có thể chống chịu được nhiệt độ cao, chịu được mưa, gió, sấm, sét, nhất là khi xảy ra các trận bão thì những trái bong bóng sẽ ra sao đây. Liệu việc sản xuất những trái bong bóng có tốn kém và có thải thêm các khí gây hiệu ứng nhà kính vào môi trường không, khi mà nó chắc chắn phải chứa các thành phần từ dầu mỏ? Ngoài ra khi những quả bóng bị nổ, vỡ thì xác bong bóng rơi xuống sẽ gây hại cho môi trường, đất, nước như thế nào? Việc che bớt ánh sáng sẽ ảnh hưởng thế nào đến động thực vật, mùa màng và xã hội? Có phải nó sẽ khiến chúng ta mất thêm tiền để chiếu sáng vào ban ngày, từ đó khiến tổn thất cho môi trường càng lớn hơn?...

Tóm lại, cái việc thả bong bóng để giải cứu trái đất mà “Việt Tân” đưa ra là thiếu cơ sở, không dựa trên bất cứ hiểu biết về khoa học, công nghệ và thực tiễn nào cả. Kiểu như chỉ góp vui và để đấy mà thôi.

Ngẫm đi ngẫm lại thì bản chất của “Việt Tân” vẫn vậy, vẫn mượn danh cái mác nghe thì hào nhoáng nhưng ẩn chứa phía sau là các hoạt động phá hoại, gây mất an ninh trật tự, phá hoại sự hòa bình, ổn định và phát triển mà thôi. Nói thật, chả có mấy ai tin một tổ chức k.h.ủ.n.g b.ố lại có hoạt động để “canh tân” đất nước đâu, vì những gì mà “Việt Tân” làm chỉ là phá hoạt sự bình yên của đất nước, chống phá Việt Nam mà thôi./.

SỰ XUYÊN TẠC CÔNG CUỘC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

 

Vừa qua, trên không gian mạng xuất hiện bài viết “Độc tài đẻ ra tham nhũng - không tham nhũng chế độ tiêu vong” của kẻ tự xưng danh “Lực lượng cứu quốc” đã bịa đặt, xuyên tạc, bôi nhọ công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đang được cả hệ thống chính trị và nhân dân quyết tâm thực hiện ở nước ta hiện nay.

Thực tế nạn tham nhũng và xử lý tham nhũng là vấn đề lớn của tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong nhiều năm qua, truyền thông các nước đã đề cập và cộng đồng quốc tế đều biết đến việc có rất nhiều quan chức ở các nước trên thế giới, thậm chí là các nguyên thủ quốc gia đã bị truy tố, xử tù vì tội tham nhũng. Cụ thể như cựu tổng thống Pháp N.Sarkogy, cựu tổng thống Indonesia Suharto, cựu tổng thống Argentina C.Fernandez, nữ tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye, … Cũng chính vì  xuất phát từ thực tế đó, Liên hợp quốc đã ban hành những Điều ước quốc tế về phòng, chống tham nhũng, được nhiều quốc gia quan tâm, ủng hộ và tham gia làm thành viên. Thế mà kẻ tự xưng “Lực lượng cứu quốc” lại tuyên bố xanh rờn rằng: ở các quốc gia có thể chế chính trị tam quyền phân lập, dân chủ… không có tham nhũng, hoặc có thì cũng bị phát hiện và xử lý ngay?! Thế thì tại sao các cựu tổng thống vừa nêu ở trên tham nhũng từ lúc còn đương chức, tham nhũng từ nhiều năm trước, đến lúc thôi giữ chức, thành “cựu” tổng thống rồi mới bị tòa án các nước trên xét xử?! Thực tế đó đã bác bỏ nhận định sai lầm, tùy tiện nêu trên của “Lực lượng cứu quốc”. 

Việt Nam là thành viên có trách nhiệm, những quy định của Điều ước quốc tế về phòng, chống tham nhũng được Việt Nam thực hiện nghiêm túc, với các nội dung được quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự, Luật phòng, chống tham nhũng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Có thể nêu ra ở đây về Điều 92 - Luật Phòng, chống tham nhũng đã quy định: “Người có hành vi tham nhũng giữ bất kỳ chức vụ, vị trí công tác nào đều phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, kể cả người đã nghỉ hưu, thôi việc, chuyển công tác”. Như vậy, pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam là không có “vùng cấm”, không có “ngoại lệ”, không có “đặc quyền” đối với bất kể ai, cho dù người đó có giữ chức vụ gì đi chăng nữa. Điều này đã lật tẩy sự bịa đặt, vu khống trơ trẽn của kẻ xưng danh “Lực lượng cứu quốc” rằng: pháp luật chỉ dùng để xử dân đen, không dùng để xử lý cán bộ, đảng viên.

Bên cạnh đó, trong bài viết của kẻ tự xưng danh “Lực lượng cứu quốc” còn xuyên tạc, vu khống rằng: quan cộng sản phạm tội thì có đảng trưởng (ý của Y là nói đến Tổng bí thư) tùy nghi xét xử, không cần dùng đến pháp luật… rằng: ông Nguyễn Phú Trọng ra lệnh cho phán quan Đào Bá Sơn đưa một số quan chức ra xử riêng cho nhẹ tội. Ở đây, ta thấy “Lực lượng cứu quốc” tự phủ nhận lời nói của mình, khi thì phán bừa là quan chức không bị pháp luật xử lý, chỉ bị kỷ luật về đảng, khi lại nói quan chức bị pháp luật xử nhẹ.

Ở Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp một cách hợp lý. Toà án xét xử dựa trên các quy định của pháp luật, để xem xét, luận tội căn cứ vào các hành vi, chứng cứ phạm tội, “án tại hồ sơ”, chứ không phải “xét xử theo lệnh của Đảng”, hay “đảng trưởng tùy nghi xét xử” như sự bịa đặt, vu khống của kẻ xưng danh “Lực lượng cứu quốc”.

Rõ ràng, sự xuyên tạc, vu khống trắng trợn của kẻ tự xưng danh “Lực lượng cứu quốc” là hoàn toàn sai trái và phản tác dụng, người dân Việt Nam chân chính và cộng đồng tiến bộ trên thế giới luôn đủ nhãn quan chính trị, vốn hiểu biết, nguồn thông tin để thấy rõ bộ mặt phản động, bịa đặt, bôi nhọ, chống phá đất nước của chúng./.

 

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM ANH HÙNG

 

Phê phán quan điểm: “Quân đội chỉ cần trung thành với lợi ích của quốc gia dân tộc, phải đề cao khẩu hiệu “Tổ quốc trên hết” trong mục tiêu lý tưởng chiến đấu của mình”.

- Quan điểm này ra vẻ vì Tổ quốc, song đi ngược lại lợi ích quốc gia – dân tộc, chỉ muốn quân đội mất đi phương hướng, dẫn đến mất sức mạnh chiến đấu để ngoại xâm dễ bề thôn tính đất nước.

- Những giọng điệu tưởng như là khách quan, không chính trị, không giai cấp, nhưng lại nằm trong âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội ta của các thế lực thù địch, thực chất là nhằm lái chính trị của quân đội ta sang chính trị tư sản.

- Trung thành với Đảng, hiếu với dân là những phẩm chất cơ bản, cốt lõi gắn bó chặt chẽ với nhau trong bản chất, truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam.

- Bằng quan điểm đó, các thế lực thù địch có ý đồ loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội, xóa nhòa bản chất chính trị – giai cấp của quân đội, hòng làm biến chất quân đội ta.

 

ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM LUÔN TÔN TRỌNG QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO

 

Thời gian qua trên các trang mạng xã hội các đối tượng phản động có những bài viết xuyên tạc, phản ánh không đúng sự thật, đánh giá phiến diện, tiêu cực về tình hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam.

Thực tế cho thấy, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các công dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên cũng như nhiều nước trên thế giới, Việt Nam không chấp nhận việc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước hay kích động bạo lực, chia rẽ nhân dân, chia rẽ  các dân tộc, tôn giáo, gây rối trật tự, xâm hại tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân... Chính sách trên luôn được Nhà nước Việt Nam khẳng định và thực hiện nhất quán. Sự ra đời của các tổ chức tôn giáo một mặt phản ánh sự quan tâm của Nhà nước trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mặt khác khẳng định Việt Nam không phân biệt đối xử với những người có tín ngưỡng, tôn giáo, không phân biệt hay kỳ thị bất cứ tôn giáo nào, miễn sao hoạt động của các tôn giáo nằm trong khuôn khổ pháp luật.

Sự thật là thế, vậy mà thời gian qua các thế lực thù địch, phản động luôn đưa ra những thông tin sai lệch, cho rằng Việt Nam hạn chế các hoạt động tôn giáo, cho rằng Việt Nam không có tự do tôn giáo... Những đánh giá ấy chẳng những không phản ánh đúng bản chất tình hình mà còn phớt lờ những thành tựu của nước ta trong tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thực chất đây là âm mưu lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo để chống phá Đảng và Nhà nước ta. Chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng ở Việt Nam hoàn toàn không có cái gọi là đàn áp hay hạn chế các hoạt động tôn giáo đúng pháp luật. Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo chỉ là chiêu trò của các thế lực thù địch nhằm phục vụ âm mưu chống phá Đảng và Nhà nước ta./.

THU TRÂN – KẺ “THỪA NƯỚC ĐỤC THẢ CÂU”

 

Tục ngữ thường có câu “Thừa nước đục thả câu” để nói về những hành động cơ hội khi người khác đang gặp khó khăn để trục lợi nhằm mưu lợi riêng cho mình. Trước kết quả cả nước tập trung ưu tiên phòng, chống và kiểm soát dịch covid -19 cũng như tìm các giải pháp khắc phục, phục hồi sản xuất, kinh doanh và tăng trưởng kinh tế, với quyết sách sáng suốt của Đảng, Nhà nước đến nay nước ta là một trong những nước đi đầu trong kiểm soát dịch bệnh, đời sống nhân dân đi vào ổn định, kinh tế từng bước được phục hồi, đây là vấn đề được cả thế giới ghi nhận thì trên mạng xã hội lại xuất hiện những bài viết lợi dụng tình hình đó để xuyên tạc xuyên tạc tình hình đất nước, bôi nhọ, nói xấu hạ thấp uy tín, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và những thành quả của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điển hình là bài viết “Và khi tro bụi…” của Thu Trân.

Vẫn với thủ đoạn hèn hạ, lời lẽ thô tục, Bà Thu Trân đưa ra những luận điệu vu khống, quy kết cho Đảng có nhiều khuyết tật, “trong Đảng toàn là những kẻ ăn trên ngồi chốc, chạy chức, chạy quyền; hay Đảng khbà quan tâm đến sức khỏe người dân, thoái hóa, biến chất, tranh giành quyền lực”… Đọc những lời lẽ đầy phản động này, bản thân tôi cũng như những người dân Việt Nam không ai không bất bình, tức giận… tôi không thể nói từ nào cay độc hơn nữa với bà, nhưng bà hãy nhớ rằng, nhờ có Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo mà nhân dân ta đã giành lại độc lập dân tộc, non sông thu về một mối, đưa nhân ta thoát khỏi kiếp nô lệ trở thành người làm chủ đất nước kể từ đó đến nay; trong đó có cả ông, bà, cha mẹ và bản thân bà. Không ai là không có sai lầm, khuyết điểm kể cả tổ chức và cá nhân. Nhưng quan trọng là biết khắc phục sửa chữa sai lầm, khuyết điểm để phát triển; những cá nhân trong Đảng, những con người cụ thể sai phạm bà rêu rao, gán ghép rồi quy chụp cho là sai phạm của cả tổ chức, sai phạm của toàn Đảng, của cả hệ thống, bộ máy. Xin thưa với bà những chiêu trò này đã quá lỗi thời, không lôi kéo được ai đâu mà càng làm cho mọi người dân hiểu rõ hơn bản chất, âm mưu đen tối của bà mà thôi.

Cha bà xưa đã dạy: “Con người có tổ, có tông, như cây có cội như sông có nguồn”. Vậy nên, đã là người Việt Nam, dù ở địa vị nào, ở bất kỳ nơi đâu, hoàn cảnh nào cũng đừng quên cội nguồn dân tộc, phải nhớ đến quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, gốc rễ tổ tiên và xa hơn nữa là lịch sử nước nhà. Bác Hồ đã nói: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Câu nói của Bác như một lời hiệu triệu, nhắc nhở mỗi công dân Việt Nam, mỗi con Lạc cháu Hồng phải có trách nhiệm tìm hiểu về cội nguồn, lịch sử dân tộc, qua đó gìn giữ, phát triển, giáo dục và khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc cho thế hệ mai sau. Thế nhưng, bấy lâu nay Bà đã không có công sức đóng góp cho đất nước, cho dân tộc, mà lợi dụng tình hình để “thừa nước đục thả câu” theo đuôi những kẻ phản động, những kẻ bán nước cầu vinh. Bà đã quên cội nguồn dân tộc, quên quê hương nơi chôn nhau cắt rốn, quên gia đình, gốc rễ tổ tiên của mình rồi sao? Bà nên nhớ rằng, rồi cũng đến một ngày chính những kẻ phản động, bán nước chúng đưa cho bà những đồng tiền bẩn thỉu sẽ xa lánh bà, rời bỏ bà. Lúc đó, bà sẽ đi đâu, về đâu ??? hay bà lại chui rúc ở một nơi nào đó ???.

Tuổi trẻ Việt Nam từ xưa tới nay đều là những con người thông minh, sáng tạo, giàu lòng yêu nước, sống có văn hóa, nói năng ứng xử khiêm nhường ngay cả khi chiến thắng kẻ thù, chứ họ không phải: “Và khi tro bụi ” như bà nói đâu. Ngày nay, được Đảng giáo dục, rèn luyện họ đang ngày đêm thi đua cùng với tuổi trẻ, học sinh, sinh viên xung kích, tình nguyện cống hiến sức lực, trí tuệ và tài năng góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tôi không nghĩ bà không biết điều đó, phải không bà!

Như vậy, có thể thấy Thu Trân cùng những kẻ phản động, bán nước sẽ tiếp tục “thừa nước đục thả câu” chống đối Đảng, Nhà nước và nhân dân ta một cách quyết liệt, không từ bỏ một thủ đoạn nào. Vì vậy, mỗi người dân Việt Nam hãy nêu cao cảnh giác, đoàn kết một lòng, kiên quyết vạch trần và đấu tranh bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của Thu Trân, không để mắc mưu chúng làm tổn hại đến lợi ích quốc gia dân tộc./.

 

 

THƯ GỬI THẾ HỆ TRẺ: XIN ĐỪNG LÀM HOEN Ố MÁU CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐI TRƯỚC

 

Chuyện rằng có người tìm thấy trên 3 chiếc võng dù cùng cột chung đầu vào một thân cây là 3 bộ hài cốt của 3 chiến sĩ Quân giải phóng. Cạnh mỗi bộ hài cốt là một khẩu AK đã han rỉ, một đôi dép cao su. Gần đó, có bức thư được bọc kỹ càng trong ni lông và được cột chặt ở đầu võng. Những dòng viết run rẩy, nguệch ngoạc vì bị thương, đói khát...

Đó là các chiến sỹ: 1. Lê Hoàng Vũ, Thái Bình; 2. Nguyễn Chí, Quảng Ngãi; 3. Trần Viết Dũng, Sài Gòn, là chiến sĩ thuộc Tiểu đội 1, Trung đội “Ký Con”, Trung đoàn Bình Giã, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.

Sau trận tập kích của Trung đoàn Bình Giã và một số đơn vị khác thuộc Bộ Tư lệnh Miền, diệt một lực lượng lớn quân Mỹ - Ngụy ở Bông Trang - Nhà Đỏ (Thủ Dầu Một), tháng 2-1966, trên đường rút về hậu cứ, một tiểu đội, trong đó có các anh Vũ, Chí, Dũng, được phân công nghi binh, đánh lạc hướng địch, để trung đoàn trở về an toàn.

Một tiểu đội 11 người với những chiếc bật lửa và vài chiếc máy thông tin, mỗi người một khẩu AK đã làm tròn nhiệm vụ tạo dấu vết một trung đoàn hành quân về hậu cứ sau trận tập kích thắng lợi. Sau mấy ngày băng rừng, vượt suối, hứng chịu hàng chục phi vụ rải thảm của B-52 khiến 8 người hy sinh, phương tiện thông tin hư hỏng.

Vượt qua những ngày “đói quay đói quắt, khát như khô cháy cả ruột gan…” và mang trên mình đầy thương tích, 3 chiến sĩ còn lại đã tới được cánh rừng này. Sức kiệt, không thể đi tiếp, không còn phương tiện thông tin, các anh quyết định dừng lại và “chọn khu rừng đẹp đẽ này làm nơi an nghỉ cuối cùng…”

Chúng ta hãy nghe các anh tâm sự: “Quyết định rồi chúng tôi tự thấy khoan khoái lạ thường. Sáng suốt hẳn lên… Dừng lại ở đây với một ít sức lực còn lại viết một tường trình cuộc chiến đấu gửi lại cho ai đó tìm được…

Mỗi người đứng trước cái chết của mình cố gắng dùng một chút sức còn lại, quả thật rất ít ỏi, để thay nhau chấp bút. Chúng tôi đã chọn cây gỗ tơ còn sống lâu này làm trụ, giúp nhau mắc võng cho từng người, thống nhất nhau tư thế nằm trên võng, sắp xếp vài đồ vật còn lại… Chúng tôi sẽ chết ung dung thư thái như đã từng sống mãnh liệt mà thư thái với công việc chúng tôi đã làm…”

Sau khi chọn cho mình cái chết, 3 chiến sĩ - người yếu viết trước, người còn sức dành viết sau; các anh dồn chút sức lực còn lại viết về cuộc chiến đấu trong mấy ngày qua, về sự hy sinh của đồng đội; những tình cảm thân thương da diết đối với bố, mẹ, vợ con, người thân, quê hương… và bày tỏ niềm tin vào ngày cuộc kháng chiến chống Mỹ toàn thắng.

Lần lượt, Lê Hoàng Vũ, Nguyễn Chí vĩnh viễn ra đi. Người để lại những dòng lưu bút cuối cùng là Trần Viết Dũng. Những dòng như rút từ gan ruột của anh:

“…Nhưng rồi các bạn giục kết thúc lá thư đi thôi. Thời gian không chờ chúng tôi nữa. Chúng tôi đã cảm thấy sắp đến giờ phải từ giã cõi đời này rồi. Trước khi ra đi, thư phải được bảo quản cẩn thận để tránh thời gian mưa nắng phũ phàng. Thư phải về tới tay những người đang sống…

Nếu lá thư này được về với đồng đội chúng tôi trong Trung đoàn Bình Giã Quân giải phóng miền Nam hay một đơn vị bạn nào đó qua đây, xin chuyển giùm lên cấp trên.

Tiểu đội Giải phóng quân chúng tôi trong Trung đội “Ký Con” đã hoàn thành nhiệm vụ. Chúng tôi mong được ghi nhận rằng chúng tôi đã từng sống, chiến đấu và đã chết trong một mùa xuân giữa đất trời như trăm ngàn cái chết của người Việt Nam chân chính cho Tổ quốc và dân tộc sống còn.

Còn như chúng tôi được phát hiện muộn hơn sau 5 năm - 10 năm - tự do quý giá, thì xin cho chúng tôi - gởi đến những người đang sống, sống đúng ý nghĩa của nó, trong một thời đại vinh quang, lời biết ơn sâu sắc vì các bạn đang làm cho cái chết của chúng tôi giữ được đầy đủ ý nghĩa. Các bạn đang lao động quên mình cũng như chúng tôi đã chiến đấu quên mình cho đất nước ta ngày nay tươi đẹp, cho dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, cho xã hội ta ngày càng dân chủ công bằng.

Hay trong trường hợp đến 50-100 năm sau, thư này mới tới những người, có thể gọi là thế hệ mai sau, thì cho phép chúng tôi gửi lời chào xã hội chủ nghĩa, cho phép chúng tôi bày tỏ vui mừng tuyệt diệu vì hạnh phúc và hòa bình đang tràn ngập hành tinh chúng ta mà chúng tôi trở thành những hạt bụi có ích - Và hơn thế nữa nếu được, cho chúng tôi gửi lời chào niềm nở nhất đến những con người ở những vì sao xa xôi, những người bạn mới giữa các hành tinh.

Mùa xuân giữa rừng miền Đông Nam Bộ”.

Trận chiến đã kết thúc từ lâu, những thế hệ Việt Nam sinh ra từ sau thời khắc đó cũng đã trở thành lứa trung niên, cũng như không thể đếm hết những người lính đã hóa thân vào đất đai, cây cỏ, núi sông của Tổ quốc chúng ta ...

Mình lại chia sẻ thêm cho các bạn trẻ về những lời gửi gắm trong nhật ký mà Liệt sĩ Vũ Xuân viết cho em gái của mình ngày 01/05/1969.

“Hãy học cho giỏi và ngoan. Chuẩn bị tiếp nhận cái gia sản quý báu mà bằng máu, bằng sinh mệnh các Anh đã hi sinh để giành giật lấy nó.

Bàn giao nguyên vẹn cái cơ đồ, cái giang sơn Việt Nam cho thế hệ tương lai là trách nhiệm của chúng mình,của thế hệ thanh niên đang sống và chiến đấu chống Mỹ này.”

Nhưng liệu lớp trẻ bây giờ, có mấy người nhớ về công ơn của họ. Rồi một mai những cựu chiến binh cuối cùng ấy trở về đất mẹ, người ta sẽ nhìn nhận về cuộc chiến nằm xưa thế nào đây? Liệu còn mấy ai biết nhớ về “màu hoa đỏ” với ký ức một thời rực lửa của dân tộc, những câu chuyện về lòng hi sinh, về sự quả cảm của tuổi trẻ, và cả sự mất mát chia ly.

“Đất nước Việt Nam giờ đã thanh bình, không còn những cảnh chia li, không còn những giọt nước mắt đau thương... Nhưng ở phía chân trời xa ấy, “màu hoa đỏ” vẫn ngời lên như màu của lửa để nhắc nhớ thế hệ mai sau hiểu hơn về giá trị của bình yên hôm nay.

Nên nhớ rằng, hòa bình độc lập có được ngày hôm nay đã được đánh đổi bằng xiết bao máu xương của thế hệ cha anh đi trước, lớp cháu con phải biết trân trọng để cố mà giữ gìn. Như lời của anh hùng LLVT, liệt sỹ Vũ Xuân: “Tôi chỉ mong một câu nói mãi vang bên tai thế hệ mai sau là: đừng làm hoen ố máu của những người đi trước”./.

 

LAN TỎA GIÁ TRỊ CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

 

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một trong những thắng lợi nổi bật, vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.

Ngược dòng lịch sử để trở về những ngày mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của 76 năm trước để ôn lại những bài học lịch sử quý báu còn nguyên giá trị đến ngày nay là việc làm cần thiết để kết nối giữa quá khứ với hiện tại.

           Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Cách mạng Tháng Tám là thành quả của một quá trình đấu tranh lâu dài, kiên cường, bất khuất của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám là minh chứng sinh động của thắng lợi trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, của tư tưởng Hồ Chí Minh, cho thấy nội dung, giá trị tư tưởng của Người về giải phóng và phát triển, nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người của Hồ Chí Minh.

Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng điển hình được tiến hành bằng sức mạnh của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, thông qua mặt trận Việt Minh-hình ảnh trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và của Lãnh tụ Hồ Chí Minh. Lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn thể đồng bào ta hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta” chính là tiếng gọi của non sông, là lời hịch sống dậy tài dân và sức dân từ trong chiều sâu lịch sử của dân tộc ngàn năm văn hiến với dòng chảy chủ lưu là truyền thống yêu nước.

Về tinh thần dân tộc thể hiện trong sự đoàn kết để chiến thắng kẻ thù xâm lược. Toàn bộ tinh thần dân tộc được tích lũy trong tiến trình lịch sử và tiếp tục nhân lên trong gần một thế kỷ oanh liệt chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít và chế độ phong kiến để đưa tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Tất cả tinh thần dân tộc được tích hợp trong tiến trình đó lại hội tụ ở Hồ Chí Minh rồi tỏa sáng trong Bản Tuyên ngôn Độc lập do Người khởi thảo để tuyên bố trước thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam mới-nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Khẳng định về sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chủ trương đoàn kết, tập hợp lực lượng của Mặt trận Việt Minh góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị lực lượng cách mạng, chuyển cách mạng Việt Nam sang thời kỳ cao trào và tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Có thể nói, Mặt trận Việt Minh ra đời là đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm thực hiện chiến lược đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám. Chính nhờ việc xây dựng có hệ thống vững chắc, rộng khắp, các tổ chức quần chúng yêu nước trong Mặt trận Việt Minh mà cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra thuận lợi, nhanh chóng và ít đổ máu.

Nhận định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là minh chứng của một cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, thể hiện tinh thần đoàn kết của nhân dân ta. Là cuộc cách mạng điển hình về tinh thần chủ động, sáng tạo, biết tranh thủ thời cơ chung, tự mình đứng lên giải phóng cho mình; đồng thời cũng cho thấy những quyết định đúng đắn, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người không chỉ hoạch định đường lối, xây dựng lý luận cách mạng giải phóng dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội mà còn là người tổ chức, kiến tạo phong trào cách mạng, tìm đường, mở đường, dẫn đường và định hướng sự phát triển của đất nước trong tương lai.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á, đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả đấu tranh kiên cường, bền bỉ, anh dũng của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam.

Phát huy giá trị tinh thần của Cách mạng Tháng Tám

Tự hào được hàng ngày làm việc tại nơi đã ghi dấu chân Người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc-Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mùa thu Tháng Tám lịch sử mãi là những trang sử hào hùng, ghi dấu truyền thống đấu tranh anh hùng, bất khuất, biểu tượng sáng ngời ý chí quật khởi của cả dân tộc còn vang dội đến hôm nay và mai sau, là động lực tiếp thêm sức mạnh và niềm tin chiến thắng để thế hệ hôm nay được sống trong hòa bình, viết tiếp trang sử vẻ vang của đất nước. Quá khứ hào hùng và âm vang lịch sử từ mùa Thu năm 1945 vọng về trở thành điểm tựa tinh thần cho đất nước ta vững vàng trên con đường hội nhập và phát triển bền vững, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kiện có tầm vóc thời đại, có ý nghĩa quốc tế sâu sắc, là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với các dân tộc thuộc địa, nhân dân bị áp bức, bóc lột trên thế giới vùng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ý nghĩa và tầm vóc vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám không chỉ đóng khung trong một thời điểm, không gian nhất định mà ngày càng lan tỏa cao rộng hơn cùng với tiến trình phát triển của đất nước. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những trang sử vẻ vang nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Giá trị to lớn và ý nghĩa đặc biệt sâu sắc của Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945-văn bản pháp lý đặt cơ sở cho việc thiết lập Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, với mục tiêu Độc lập-Tự do-Hạnh phúc, khơi nguồn sáng tạo và soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mãi mãi là một trang sử vàng sáng chói. Nhìn lại quá hào hùng để tưởng nhớ công lao to lớn, vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới đồng thời góp phần lan tỏa giá trị to lớn cũng như ý nghĩa đặc biệt sâu sắc của Cách mạng Tháng Tám và Bản Tuyên ngôn Độc lập.

 

NHẬN THỨC RÕ TRƯỚC ÂM MƯU LỢI DỤNG VẤN ĐỀ “TỰ DO TÍN NGƯỠNG” VÀ “NHÂN QUYỀN” Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

 

Có thể thấy, Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, kể cả tôn giáo nội sinh và tôn giáo ngoại nhập. Ngay sau khi giành được chính quyền năm 1945, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, trong bản Hiến pháp đầu tiên cũng đã khẳng định: “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái, trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” hay: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng”. Quyền tự do tín ngưỡng của công dân không chỉ thể hiện trong văn bản pháp lý có giá trị cao nhất ngoài ra Đảng ta còn dành sự ưu ái, tin tưởng đặc biệt đối với đồng bào, nhân sỹ, trí thức là người các tôn giáo trong khắp cả nước. Chính vì vậy, trong chiến lược diễn biến hòa bình của mình, các thế lực luôn tìn mọi cách, lợi dụng vào quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo để chống phá lại Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa của nước ta.

Để thực hiện được âm mưu của mình, chúng tìm mọi cách tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước, lấy chữ “tự do” trong tín ngưỡng tôn giáo và phớt lờ đi cụm từ “ trong khuôn khổ của pháp luật” để tuyên truyền, thành lập nhiều đạo giáo trái với luân thường đạo lý của dân tộc mà gần đây là Tin lành Đề Ga, Hà Mòn, Pháp Luân Công và đặc biệt là tà đạo Hội Thánh đức Chúa Trời. Đồng thời, chúng coi tôn giáo như là công cụ “đối trọng” với Đảng, sử dụng tôn giáo như một ngồi nổ chống phá Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, phổ biến trong nhân dân và tuyệt đối hóa quan điểm “nhân quyền cao hơn pháp quyền”, kêu gọi nhân dân biểu tình đòi dân chủ, chống lại người thi hành công vụ từ đó chụp ảnh, ghi hình truyền bá rộng rãi trên các trang mạng xã hội để bóp méo sự thật, cho rằng nhân quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là giả tạo.

Trong thời gian tới, các thế lực thù địch, phản động lưu vong, số cơ hội chính trị, phần tử xấu vẫn sẽ tiếp tục lợi dụng tôn giáo với nhiều hình thức, thủ đoạn mới để lôi kéo, tập hợp lực lượng, tiếp tục hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng tiếp tục chỉ đạo từ bên ngoài, móc nối với những phần tử chống đối ở trong nước xây dựng cơ sở, tìm cách tái phục hồi các hoạt động chống đối. Do vậy, nhìn chung tình hình mọi mặt về cơ bản là tiếp tục ổn định, song vẫn tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định, khó lường trước, cần hết sức quan tâm, không thể xem thường.

Trước những âm mưu, thủ đọan vô cùng thâm độc đó, các cơ quan tổ chức nhà nước có thẩm quyền cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục trong toàn thể nhân dân để người dân nắm rõ và có biện pháp phòng tránh, tránh bị lợi dụng, lôi kéo. Đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các thông tin trên các trang mạng xã hội, kịp thời ngăn chặn thông tin xấu, độc lan truyền. Từng cá nhân phải nhận thức rõ và luôn quán triệt nghiêm túc quan điểm “ tự do tín ngưỡng phải trong khuôn khổ của pháp luật”, nhận diện rõ âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, đề cao cảnh giác từ đó chấp hành tốt các quy định của Đảng, Nhà nước ta.

 

ÂM MƯU THÂM ĐỘC, LUẬN ĐIỆU PHỦ NHẬN VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 

Chống phá cách mạng Việt Nam là mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch, phản động; trong đó, trọng tâm hàng đầu là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với sự nghiệp cách mạng. Điều này được thể hiện thông qua những âm mưu, thủ đoạn tinh vi, nham hiểm đòi hỏi mỗi người cần đề cao cảnh giác và kiên quyết đấu tranh.

Trong hơn 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn đồng hành cùng dân tộc, gắn bó với Nhân dân, phấn đấu đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân. Thông qua việc đề ra đường lối đúng đắn, sáng suốt, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân Việt Nam lập nên những chiến công lẫy lừng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

Đặc biệt, với tinh thần sáng tạo, Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới và tiếp tục lãnh đạo Nhân dân giành được những thành tựu to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ, đời sống Nhân dân được cải thiện rõ rệt; vị thế, uy tín của của Việt Nam không ngừng được nâng lên trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, với định kiến chính trị và góc nhìn phiến diện, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; đưa nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Thủ đoạn mà các thế lực này thường sử dụng đó là xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng, phủ nhận cơ sở lý luận về vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ra sức tuyên truyền cho luận điệu “chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời”; “chủ nghĩa Mác - Lênin là lý thuyết suông về chủ nghĩa xã hội không tưởng, không có thực”,... Chúng đồng nhất sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu, Liên Xô với bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin không còn phù hợp với thế kỷ XXI, không phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay và cần loại bỏ khỏi đời sống tư tưởng chính trị xã hội. Chúng cũng tầm thường hóa tư tưởng Hồ Chí Minh,… Mục đích sâu xa là phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với vai trò là nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

Không khó để nhận ra tính phi lý của các luận điệu nêu trên. Bởi vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam là sự lựa chọn của lịch sử dân tộc. Đảng ra đời không chỉ chấm dứt cuộc khủng hoảng thiếu về lực lượng lãnh đạo, mà còn trở thành hạt nhân đoàn kết, thống nhất. Từ đó, tập hợp các lực lượng dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, đưa toàn dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thực tiễn cũng chứng minh, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu, Liên Xô chỉ là sụp đổ của một mô hình cụ thể chứ không phải sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng không phải sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Bằng chứng là dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã thu được những thành tựu to lớn. Tính chất ưu việt, vì Nhân dân của chế độ chủ nghĩa xã hội được thể hiện ngày càng rõ nét trong thực tiễn công tác an sinh xã hội trên phạm vi cả nước, nhất là qua công tác phòng, chống dịch COVID-19 trong hơn hai năm qua.

Không dừng lại ở việc xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng, phủ nhận cơ sở lý luận về vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng, các thế lực thù địch, phản động còn ra sức lợi dụng những tiêu cực nảy sinh trong đời sống xã hội, nhất là tình trạng tham nhũng,... để gây “nhiễu” dư luận, xuyên tạc bản chất của chế độ; coi những tiêu cực đó có nguyên nhân là do sự lãnh đạo của Đảng. Nguy hiểm hơn, chúng đưa ra luận điệu “tham nhũng là hệ quả tất yếu của chế độ độc đảng”; “việc phòng chống tham nhũng thực chất là đấu đá trong nội bộ Đảng”. Từ đó, các thế lực này lớn tiếng hô hào đòi “thay đổi chế độ”, thực hiện “đa nguyên, đa đảng”.

Cần nhận thấy, tham nhũng là hiện tượng xã hội tồn tại trong mọi chế độ chính trị khác nhau, gắn liền với nhà nước và quyền lực. Bản chất của tham nhũng gắn liền với quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế. Do đó, dù chế độ chính trị nào, chủ nghĩa xã hội hay tư bản chủ nghĩa, chế độ một đảng cầm quyền hay đa đảng thay nhau cầm quyền thì vẫn có nạn tham nhũng. Trong bối cảnh hiện nay, tham nhũng đang là “vấn nạn” đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy, luận điệu cho rằng tham nhũng là “hệ quả tất yếu của chế độ độc đảng” đã cho thấy động cơ chính trị đen tối của các thế lực thù địch, phản động. Các thế lực này đang cố tình bỏ qua bản chất, tính xã hội của hiện tượng tham nhũng để chống phá cách mạng Việt Nam; xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thời gian qua, thực hiện sự chỉ đạo quyết liệt của Trung ương Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, công cuộc phòng, chống tham nhũng đã được thực hiện thường xuyên, liên tục, mạnh mẽ với quan điểm “không có vùng cấm” và đã đạt nhiều kết quả quan trọng, toàn diện, rõ rệt. Từ năm 2013 đến 2020, cả nước đã có hơn 1.900 vụ án tham nhũng bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; 131.000 đảng viên, trong đó có hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (có 27 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Ủy viên Bộ Chính trị, 30 sĩ quan cấp tướng thuộc lực lượng vũ trang) bị xử lý kỷ luật. Chỉ tính riêng năm 2021, cơ quan có thẩm quyền đã kỷ luật 618 đảng viên do tham nhũng, cố ý làm trái (tăng 132 trường hợp so với năm 2020), trong đó có 32 trường hợp thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý1 .

Từ đầu năm 2022 đến nay, các cơ quan tố tụng cả nước đã khởi tố, điều tra 1.264 vụ/2.038 bị can, truy tố 742 vụ/1.594 bị can, xét xử sơ thẩm 737 vụ/1.567 bị cáo về các tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ 2. Trong đó, đã khởi tố, điều tra nhiều vụ án lớn, đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp; đã khởi tố 8 cán bộ diện Trung ương quản lý. Những kết quả nói trên không chỉ khẳng định quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng mà còn cho thấy rõ tính chất quyết liệt, "không có ngoại lệ”; “không có vùng cấm” của cuộc đấu tranh này. Thành quả đó đã để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, được cán bộ, đảng viên, nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao và quốc tế ghi nhận. Đồng thời, cũng là minh chứng rõ ràng, đập tan mọi âm mưu lợi dụng vấn đề tham nhũng để chống phá cách mạng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Việt Nam.

Tổng kết 35 năm đổi mới, Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện” 3; “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” 4. Những thành tựu trên có được trước hết là do Đảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích và nguyện vọng của Nhân dân; tạo được niềm tin và động viên Nhân dân quyết tâm thực hiện con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Do đó, mọi âm mưu, luận điệu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đều là biểu hiện của động cơ chính trị đen tối, mưu đồ chống phá Đảng, Nhà nước ta. Mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng cần đề cao cảnh giác; tích cực vạch trần và kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, luận điệu nói trên để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo vệ sự nghiệp cách mạng của Nhân dân

 

NỖ LỰC PHỤC HỒI ĐƠM 'TRÁI NGỌT', KINH TẾ VIỆT NAM PHÁT TRIỂN VƯỢT BẬC

 

Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều khó khăn và bất định, bức tranh sáng màu của kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2022 rất đáng tự hào, lạc quan.

Mặc dù dịch bệnh COVID-19 còn khó lường, giai đoạn phục hồi sau đại dịch gặp vô vàn khó khăn, nhưng vượt lên tất cả, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng vượt bậc và đạt nhiều thành tựu, chứng tỏ những nỗ lực không ngừng đã góp phần xoay chuyển cục diện.

Những chỉ số vụt sáng

Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 6/2021 và 6 tháng đầu năm của Tổng cục Thống kê chỉ rõ, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý II năm 2022 ước tính tăng trưởng 7,72% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng của quý II các năm trong giai đoạn 2011 - 2021. GDP 6 tháng đầu năm 2022 tăng 6,42%, cao hơn tốc độ tăng 2,04% của 6 tháng đầu năm 2020 và tốc độ tăng 5,74% của 6 tháng đầu năm 2021.

Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, hầu hết các ngành sản xuất chính đều tăng trưởng. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,78% (đóng góp 5,07%); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,70%, (đóng góp 48,33%); khu vực dịch vụ tăng 6,60%, (đóng góp 46,60%). Đáng chú ý, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản phát triển đã đảm bảo cung cấp đầy đủ nhu cầu lương thực thực phẩm của nền kinh tế với giá ổn định. Đó là nền tảng trong kiểm soát lạm phát 6 tháng ở mức 2,44% trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với khủng hoảng lương thực và giá thực phẩm tăng cao.

Trong 6 tháng đầu năm 2022, cả nước có 76,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 13,6%; đón 602 nghìn lượt khách quốc tế; FDI cũng đạt mức tăng cao nhất cùng kỳ 5 năm qua khi đạt 10,06 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2021…

Một điểm nhấn đáng tự hào của nền kinh tế Việt Nam nữa đó là những thành tựu trong thương mại quốc tế. 6 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu đạt tới 185,94 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm 2021. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 6 tháng ước đạt 185,23 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, cán cân thương mại hàng hóa 6 tháng đầu năm ước tính xuất siêu 710 triệu USD. Có 28 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 90,6% tổng kim ngạch xuất khẩu (5 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 57,8%). Ngược lại, có 30 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 87% tổng kim ngạch nhập khẩu.

Kỳ vọng bức tranh sáng cuối năm

Theo các chuyên gia, những tín hiệu tích cực trên chứng tỏ đà phục hồi của nền kinh tế rất đáng khích lệ trong bối cảnh quốc tế nhiều biến động và những hậu quả của đại dịch COVID-19 còn chưa được khắc phục hết.

Bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục Trưởng Tổng cục Thống kê nhấn mạnh: Trong 6 tháng đầu năm 2022, nền kinh tế trong nước phục hồi rõ nét, nhu cầu sản xuất hàng hóa phục vụ tiêu dùng của người dân tăng cao, thị trường hàng hóa chịu ảnh hưởng từ biến động giá trên thị trường thế giới. Chỉ số giá sản xuất, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất, chỉ số giá xuất khẩu, nhập khẩu quý 2 và 6 tháng đầu năm 2022 đều tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2021.

"Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp bình ổn giá, hạn chế những tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước phản ánh nền kinh tế đang hồi phục và phát triển", bà Nguyễn Thị Hương nhấn mạnh.

Bà Hương cũng chỉ rõ những biến động khó lường của kinh tế thế giới khi tác động của đại dịch COVID-19 và xung đột Nga-Ukraine vẫn căng thẳng. Hầu hết các tổ chức lớn đều bi quan về sự tăng trưởng của kinh tế thế giới. Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 giảm so với trước, ở mức 3,6%; Liên hợp quốc dự báo chỉ tăng trưởng 3,1%; Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế cũng nghiêng về con số 3%...

Vì thế, những thành tích của kinh tế Việt Nam trong bối cảnh này rất đáng tự hào và kỳ vọng rằng sẽ góp phần tạo thế và lực cho những tháng còn lại của năm 2022 và cả năm 2023 sắp tới.

Các chuyên gia kinh tế khác cũng khẳng định, những nỗ lực phục hồi kinh tế sau dịch đã đơm trái ngọt. Tư duy đột phá, hành động khẩn trương, linh hoạt của Chính phủ và cả hệ thống chính trị cùng nhiều chính sách, giải pháp được triển khai đúng thời điểm đã xoay chuyển cục diện phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Theo PGS-TS Đinh Trọng Thịnh, Giảng viên Học viện Tài chính, những tháng đầu năm 2022, kinh tế của Việt Nam phát triển rất tích cực và phù hợp với suy đoán của các nhà kinh tế. Ngành sản xuất công nghiệp trong quý II/2022 tăng trưởng khá do hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được duy trì và dần phục hồi. Ngoài ra, có được kết quả này là nhờ các gói hỗ trợ phục hồi phát triển kinh tế của Chính phủ bắt đầu phát huy tác dụng và nhờ sự chủ động, nỗ lực vươn lên của các doanh nghiệp, nhà đầu tư.

Ông Thịnh tin tưởng: "Tuy không cần đến những gói hỗ trợ mới mà chỉ cần triển khai hiệu quả các gói hỗ trợ trước như giãn hoãn thuế, miến giảm thuế thì dù xung đột vũ trang giữa Nga và Ukraine vẫn tiếp diễn, giá nguyên nhiên vật liệu, nhất là xăng dầu tăng…nhưng tốc độ tăng trưởng của chúng ta cũng không thể dưới ngưỡng 6,5% trong năm nay”.

Cũng tin tưởng vào điểm sáng của kinh tế Việt Nam trong 6 tháng đầu năm và mục tiêu đặt ra trong cả năm 2022, TS Lê Đăng Doanh cho rằng, điều nổi bật là Việt Nam đã kiểm soát tốt dịch bệnh, từng bước mở cửa trở lại và đảm bảo an toàn cũng như khôi phục lại các hoạt động kinh tế.

Theo ông Doanh, ngoài các chính sách hỗ trợ của Chính phủ, bản thân các các doanh Nghiệp Việt Nam rất năng động, vì vậy nên kinh tế của chúng ta được hồi phục một cách nhanh chóng, trong đó nông nghiệp Việt Nam trở thành trụ đỡ vững chắc cho nền kinh tế, đảm bảo an ninh lương thực, đảm bảo đời sống của người dân và xuất khẩu nông thủy sản.

Đứng ở góc độ doanh nghiệp, PGS-TS Nguyễn Trọng Điều, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân tư nhân Việt Nam cho rằng, những tháng đầu năm, mặc dù còn nhiều khó khăn do ảnh hưởng bởi xung đột vũ trang giữa Nga - Ukraine khiến giá xăng dầu có nhiều biến động và tăng cao, kéo theo nhiều mặt hàng nguyên nhiên vật liệu khác cũng tăng theo, nhưng Việt Nam đã kiểm soát rất tốt lạm phát. Điều này chắc chắn sẽ tạo được niềm tin với người dân và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.

“Điểm sáng là vốn đổ vào Việt Nam vẫn tăng, cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài vẫn coi Việt Nam là điểm đến an toàn, hấp dẫn. Tuy nhiên, nhằm tiếp tục thu hút nhà đầu tư có chất lượng, chúng ta cần tiếp tục đổi mới thể chế để tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư phát triển”, ông Điều nói.

Ông Điều dẫn chứng thêm, sự tăng trưởng kinh tế thể hiện rõ ở 6 tháng đầu năm, sau khi chúng ta quyết định mở cửa các dịch vụ một cách đồng bộ từ 1/4. Với đà tăng trưởng như hiện nay, ông Điều dự đoán, nếu không có biến động lớn thì chúng ta có 2 kịch bản là tăng trưởng ở mức từ 7-7,5% và kịch bản thứ hai là từ 7,5-8,4%, tức là tương đối cao trong năm 2022 này.

“Với hai kịch bản cơ bản đó, chúng tôi tin tưởng rằng, từ nay đến cuối năm, kinh tế của Việt Nam rất sáng và đạt được triển vọng mà Quốc hội đặt ra. Thậm chí tôi kỳ vọng vào mức tăng trưởng rất cao, nếu như chúng ta tiếp tục có chính sách hỗ trợ cho cộng đồng doanh nghiệp hồi phục và tăng trưởng tốt hơn”, ông Điều nói.

ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG LÀ QUYẾT TÂM VÀ NGUYỆN VỌNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN

 

Ngày 30/6/2022, Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2012 – 2022 được tổ chức tại Hà Nội. Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Đây là một hội nghị có ý nghĩa rất quan trọng, bàn về những vấn đề liên quan đến "chống giặc nội xâm", giữ gìn sự trong sạch, vững mạnh của Đảng và hệ thống chính trị; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Nhìn lại công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2012 - 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho hay, trong 10 năm gần đây, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ngày càng đi vào chiều sâu, có bước tiến mạnh; thực sự "đã trở thành phong trào, xu thế không thể đảo ngược".

Tham nhũng từng bước đã được kiềm chế, ngăn chặn, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố thêm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta. 

Không phải như một số ý kiến cho rằng, nếu quá tập trung vào chống tham nhũng sẽ làm "nhụt chí", "chùn bước" những người dám nghĩ, dám làm, làm "chậm" sự phát triển đất nước; mà hoàn toàn ngược lại. Chính nhờ làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Đặc biệt là góp phần lấy lại và củng cố niềm tin của nhân dân, bác bỏ luận điệu sai trái của các thế lực xấu, thù địch, chống đối cho rằng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, xử lý cán bộ, đảng viên sai phạm là "đấu đá nội bộ", "phe cánh".

"Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng và xây dựng, làm trong sạch Đảng và bộ máy Nhà nước chỉ làm "chùn bước" những ai có động cơ không trong sáng, đã trót "nhúng chàm" và những người không nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, thiếu bản lĩnh, thiếu kiến thức và kinh nghiệm".

Như vậy có thể thấy, quyết tâm của Tổng Bí thư cũng chính là quyết tâm của toàn Đảng toàn dân và toàn quân ta, là ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Mọi luận điệu của các phần tử phản động rêu rao trên các trang Việt nam thời báo, Facebook Việt Tân… đều vô cùng lạc lõng cần bị lên án và đấu tranh.

BẢN CHẤT CỦA VẤN ĐỀ ‘NHÂN QUYỀN’ TRONG ‘DIỄN BIẾN HÒA BÌNH’ CỦA PHƯƠNG TÂY

 

Nhân quyền là một giá trị cao cả của loài người nhưng đã bị các thế lực tư bản cường quyền xuyên tạc, lợi dụng để chống phá các quốc gia độc lập và XHCN trong chiến lược “diễn biến hòa bình”. 

Luật pháp Việt Nam đã khẳng định mạnh mẽ, rõ ràng quyền con người, quyền công dân của công dân và Đảng, Nhà nước ta đã thực hiện ngày càng đầy đủ các quyền này trên thực tế. Điều đó tự nó đã bác bỏ các luận điệu sai trái và âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch sử dụng vấn đề nhân quyền để chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.

Nhân quyền là danh từ trong sáng, dùng để chỉ một trong những giá trị của loài người. Nhưng nó bị làm vẩn đục khi người ta lợi dụng để mưu đồ những lợi ích chính trị ích kỷ. Vấn đề nhân quyền được đặt ra không giống nhau trong những điều kiện lịch sử khác nhau. Các giai tầng xã hội, quốc gia dân tộc do lợi ích, địa vị khác nhau, có quan điểm không giống nhau, thậm chí đối lập, trong vấn đề nhạy cảm này. Trong thời đại ngày nay, nhân quyền trở thành vấn đề đặc biệt phức tạp, do các thế lực cường quyền ra sức sử dụng nó làm công cụ thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”.

Trở lại những thế kỷ của các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Anh, Mỹ, Pháp…), nhân quyền nổi lên như vấn đề bức xúc của lịch sử. Giai cấp tư sản giương cao ngọn cờ nhân quyền, dân quyền để lôi kéo dân chúng làm cách mạng đánh đổ trật tự phong kiến. “Tuyên ngôn nhân quyền” của cách mạng tư sản phù hợp với yêu cầu xóa bỏ chế độ nông nô và các thể chế tương ứng để mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Trọng tâm nhân quyền thời kỳ đó là quyền tự do cá nhân, trong đó tự do của cá nhân này bị giới hạn bởi tự do của cá nhân khác.

Đó không phải tự do như nhau cho tất cả mọi người. Đối với những nông nô vừa thoát khỏi sự trói buộc phong kiến, quyền tự do thực tế nhất, khả thi nhất là tự do đi lang thang ra các đô thị để kiếm việc làm, đáp ứng nhu cầu tuyển mộ nhân công của giới chủ tư bản. Nhân quyền trong “Tuyên ngôn nhân quyền” không bao hàm quyền có điều kiện để hưởng hạnh phúc mà chỉ giới hạn ở “quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuy nhiên, những quyền con người chật hẹp, hạn chế, nặng hình thức đó vẫn thể hiện bước tiến khổng lồ trong lịch sử đấu tranh giải phóng con người khỏi những áp bức xã hội. Từ cách đây nhiều thế kỷ, vấn đề nhân quyền đã mang tính hai mặt. Cần nhận rõ sự khác nhau giữa những yêu cầu nhân quyền thời Phục hưng và thời cách mạng tư sản với những đòi hỏi “nhân quyền” (đối với các nước khác) của các nước phương Tây hiện nay (thế kỷ 20, 21).

Tại sao chủ nghĩa tư bản đã thống trị toàn cầu, đã chuyển thành chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, vẫn không từ bỏ chiêu bài nhân quyền, trái lại sử dụng nhân quyền làm quốc sách hàng đầu? Các cường quốc tư bản không chỉ sử dụng “nhân quyền” trong đối nội – tức trong quản trị quốc gia, bảo đảm duy trì, củng cố trật tự tư bản, mà còn sử dụng chiêu bài nhân quyền như một vũ khí rất lợi hại để chi phối tất cả các nước còn lại, chủ yếu là các nước độc lập dân tộc, các nước XHCN, các nước đang phát triển, chậm phát triển, bảo đảm những nước này không đứng ngoài “trật tự thế giới” do họ làm chủ.

Sử dụng vũ khí nhân quyền là một trong những trụ cột của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ. Sức ép “nhân quyền”, “nô lệ viện trợ” (khái niệm của Nguyễn Văn Thiệu dùng để nói về viện trợ) cùng với các sức ép khác về chính trị, kinh tế, văn hóa, bạo lực quân sự… tạo thành sức mạnh tổng hợp của chủ nghĩa thực dân mới. Mỹ và các cường quốc phương Tây, dưới chiêu bài nhân quyền, đã ép buộc các chính phủ có xu hướng độc lập phải chấp nhận quyền tự do hoạt động phi pháp của các lực lượng đối lập, để khi có cơ hội, các lực lượng này sẽ trở thành ngòi nổ gây nên những cuộc “cách mạng sắc màu” lật đổ các chính quyền không hợp “khẩu vị” hoặc đã hết tác dụng. Thậm chí, Mỹ còn dùng vũ khí “dân chủ”, “nhân quyền” để can thiệp vào nội trị của đồng minh chí cốt trong NATO. Các sự kiện xảy ra năm 2016 ở Thổ Nhĩ Kỳ là minh chứng.

Mũi nhọn của vũ khí “nhân quyền” tất nhiên nhằm vào các nước XHCN. Thời chiến tranh lạnh, trong cuộc đối đầu toàn diện, ác liệt, không tiếng súng giữa hai phe, các cường quốc phương Tây đã sử dụng tối đa vũ khí “nhân quyền” để “diễn biến hòa bình” các nước XHCN và các nước dân tộc chủ nghĩa tiến bộ. Cuộc chống phá về ý thức hệ, sử dụng chiêu bài nhân quyền đã khoét sâu những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân ở các quốc gia XHCN, góp phần làm sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa châu Âu.

Tóm lại, sử dụng chiêu bài “nhân quyền”, “dân chủ” là thủ đoạn quen thuộc rất hiểm độc trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực cường quyền quốc tế để toàn trị thế giới. Sau chiến tranh lạnh, lợi dụng ưu thế của kẻ thắng thế, thấm nhuần bài học của thời kỳ chiến tranh lạnh, Washington và Brussels càng đẩy mạnh những hoạt động dùng chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, kết hợp với trừng phạt kinh tế và can thiệp quân sự, để làm thay đổi bản đồ địa chính trị thế giới có lợi cho họ. Những sự kiện gần đây chứng tỏ, âm mưu của họ là: “nhân quyền” đi trước, bạo lực theo sau, lật đổ là mục đích. Các thủ đoạn lợi dụng vấn đề “nhân quyền” phổ biến của họ là:

Lấy danh nghĩa “can thiệp nhân đạo” để chống phá nhà nước dân tộc Serbia, cuối cùng dùng lực lượng quân sự hùng mạnh của NATO để xóa bỏ nền độc lập, dân chủ của nước này; lấy danh nghĩa Tòa án quốc tế, bắt và giết chết Tổng thống Milosevich trong nhà tù.

Lấy danh nghĩa “chống khủng bố” để tấn công quân sự Iraq, lật đổ chính quyền của Tổng thống Hútxêin, giết chết ông, đưa Irắc vào cảnh hỗn loạn triền miên.

Mượn cớ “chống khủng bố” để đem quân xâm lược Afghanistan.

Thúc đẩy hàng loạt các cuộc “cách mạng sắc màu”: “cách mạng nhung” (Gruzia năm 2003), “cách mạng cam” (Ukraina năm 2004), “cách mạng hoa tuylíp vàng” (Kyrgyzstan năm 2005)…

 Gây ra cuộc nội chiến và chiến tranh ủy nhiệm kéo dài hàng chục năm nhằm lật đổ chính quyền dân tộc ở Syria.

Cuộc “cách mạng sắc màu” và can thiệp quân sự của các nước phương Tây đã lật đổ Tổng thống Gaddafi, giết chết ông, đưa đất nước Libya vào thảm cảnh đói rét lầm than và nội chiến kéo dài.

Mỹ đã ra sức dùng vũ khí “nhân quyền” để can thiệp chống phá độc lập tự do và cách mạng xã hội ở các nước Mỹ – Latinh như Cuba, Venezuela, Chile…

Thế giới vừa kỷ niệm 10 năm sự kiện “Mùa xuân Ả Rập”. Mười năm qua, “Mùa xuân Ả Rập” đã biến thành mùa đông ảm đạm, với những đau khổ không kể xiết dành cho người dân các nước Ảrập, nhưng đem lại lợi nhuận khổng lồ cho các tập đoàn sản xuất vũ khí. Các cuộc “cách mạng sắc màu”, “can thiệp nhân đạo” – sản phẩm của “chủ nghĩa đế quốc tự do” – diễn ra rất bài bản. Trong cuốn sách Học thuyết phản kháng phi bạo lực, tác giả Gene Sharp đã phân chia các cuộc “cách mạng” đó thành ba giai đoạn: giai đoạn 1. Hình thành các hoạt động mềm (mít tinh, biểu tình…); giai đoạn 2. Làm mất uy tín của chính quyền và các quan chức; giai đoạn 3. Trực tiếp lật đổ chế độ.

Câu hỏi đặt ra là: hiện nay Việt Nam và Mỹ đã trở thành “đối tác chiến lược” của nhau, vậy Việt Nam có còn nằm trong tầm ngắm của “diễn biến hòa bình” nữa không? Câu trả lời là “có”. Nói vậy, mà không ngại đối tác sẽ phật ý. Bởi, chính chính quyền Mỹ không giấu giếm điều này. Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã nói thẳng: “Tôi tin tưởng rằng, việc bình thường hóa và tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa người Mỹ và người Việt Nam sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở Việt Nam như đã từng diễn ra ở Đông Âu và Liên Xô trước đây. Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng, việc lôi cuốn người Việt Nam vào mặt trận rộng lớn của cuộc cải cách kinh tế và mặt trận rộng lớn của cải cách dân chủ sẽ giúp tôn vinh sự hy sinh của những người đã chiến đấu vì tự do ở Việt Nam”(1).

Quan hệ Việt – Mỹ được bình thường hóa, đã phát triển đến mức như hiện nay không do ý muốn chủ quan của chính quyền Mỹ. Quá trình đó diễn ra như một xu thế lịch sử, do lợi ích của đôi bên đòi hỏi, thúc đẩy. Trước hết, do sự lớn mạnh không ngừng, không gì ngăn cản nổi của nước Việt Nam XHCN; do nhân dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ngày càng đoàn kết; do Đảng và Nhà nước ta có đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn, khôn khéo. Cả thế giới đều thấy rõ, Việt Nam vẫn hiên ngang tồn tại, phát triển không ngừng, vượt qua mọi thách thức, bất chấp sự bao vây, cấm vận kéo dài hàng chục năm của Mỹ, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch cực đoan; rằng, trong khi tất cả các quốc gia có chủ quyền, nhất là các nước có đường lối phát triển độc lập tự chủ, đều không nằm ngoài “vùng phủ sóng” của chiến lược “diễn biến hòa bình”, lẽ nào Mỹ lại “bỏ quên” một Việt Nam XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là biểu tượng sáng ngời của phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN trong thế kỷ XX và thế kỷ XXI? Bốn mươi lăm năm qua, hiện nay và từ nay về sau, vì lợi ích dân tộc, vì lợi ích của hòa bình thế giới, Việt Nam kiên trì chính sách đối ngoại hòa bình, rộng mở, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị – xã hội khác nhau, đồng thời kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền dân tộc, bảo vệ chính quyền nhân dân và chế độ XHCN.

Quyền công dân, quyền con người đã được luật hóa rõ ràng, đầy đủ, được khẳng định đanh thép trong Hiến pháp Việt Nam các năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013. Điều 3, Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi rõ: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.

Các quyền con người, quyền công dân được khẳng định trong Hiến pháp, pháp luật, được thể hiện sáng ngời trong cuộc sống. Trước hết, đó là, từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám từ năm 1945 đến nay và từ nay về sau, “nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập” (Tuyên ngôn Độc lập). Nước độc lập vừa là hạnh phúc, vừa là tiền đề và điều kiện tiên quyết để nhân dân được hưởng tự do, hạnh phúc. Theo đánh giá của Liên Hợp quốc, chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng không ngừng và tăng nhanh nhất trong số các nước đang phát triển (năm 2020 tăng 4 bậc, xếp thứ 79 trên thế giới, đứng hàng đầu các nước châu Á), kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế tiến bộ không ngừng. Năm 2020, trong khi hầu hết các nước trên thế giới, do đại dịch Covid-19, đều tăng trưởng âm, thì Việt Nam giữ vững tăng trưởng dương, đứng đầu thế giới về mức tăng trưởng. Dư luận quốc tế chỉ rõ rằng, thành công của Việt Nam trong chống dịch không phải vì Việt Nam giàu có, có trang thiết bị y tế tiên tiến, mà vì ở Việt Nam có sự đồng thuận cao giữa chính quyền với nhân dân (được xếp số một thế giới về sự hài lòng của người dân đối với chính sách chống dịch của Chính phủ).

Có đầy đủ cơ sở để tin rằng: khoảng một phần tư thế kỷ nữa, Việt Nam sẽ đứng trong khu vực các nước phát triển. Những thành tựu kinh tế – xã hội trên đây chẳng phải đã mang ý nghĩa sâu sắc nhất về quyền con người đó sao? Các quyền tự do chính trị ở Việt Nam mà Hiến pháp đã quy định, được thực thi đầy đủ trong đời sống thực tế. Đó là quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền sống được pháp luật bảo hộ, quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do ngôn luận, lập hội, biểu tình, quyền bầu cử, ứng cử, quyền khiếu nại, tố cáo… Về sự thực hiện tự do chính trị, Việt Nam không thua kém bất cứ quốc gia dân chủ nào. Đương nhiên, luật pháp Việt Nam, nhân dân và Nhà nước Việt Nam không cho phép bất kỳ cá nhân và tổ chức nào lợi dụng “nhân quyền”, lợi dụng các quyền tự do dân chủ để vi phạm pháp luật, chống chính quyền nhân dân, Tổ quốc và chế độ XHCN.

Chúng ta thực hiện quyền con người không phải vì sức ép bên ngoài mà chính vì quyền con người là mục tiêu cao cả, thuộc về bản chất của cách mạng Việt Nam. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nêu rõ: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(2).