Thứ Hai, 30 tháng 10, 2023

CẢNH GIÁC, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA

 

459


Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch là một nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, nhằm làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, củng cố sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận toàn dân trong xã hội.

Thời gian gần đây, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh hoạt động chống phá ta hết sức tinh vi và quyết liệt, trong đó chúng rất chú trọng đến mặt trận tư tưởng, văn hóa. Mũi nhọn quan trọng và thâm độc nhất mà chúng tiến hành trên mặt trận này là tiến công vào nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ  Chí  Minh, chế độ xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một thủ đoạn thâm độc trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nói chung và diễn biến về mặt chính trị, tư tưởng nói riêng của các thế lực thù địch và của những kẻ cơ hội đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi đa nguyên, đa đảng.

Cùng với các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị và số chống đối trong nước đã bí mật phát tán các tài liệu bất hợp pháp, tuyên truyền trực tiếp những thông tin xấu, độc hại bằng những phương tiện truyền thông, truyền dẫn hiện đại để xuyên tạc tình hình, truyền    những  quan điểm sai trái chống phá Cương lĩnh, đường lối của Đảng. Gần đây, đã xuất hiện thêm một số tài liệu chống đối trắng trợn hơn được gửi ra nước ngoài, có nội dung xuyên tạc lịch sử cùng với những luận điệu sai trái, bịa đặt, chống đối Đảng, Nhà nước, nói xấu lãnh tụ, bôi nhọ danh nhân và anh hùng dân tộc mà chúng gọi là “hạ bệ thần tượng”. Chúng chĩa mũi nhọn vào Đảng Cộng sản, đòi Đảng từ bỏ quyền lãnh đạo, đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đòi thực hiện đa nguyên, đa đảng, đòi cách mạng Việt Nam ngày nay phải chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ. Chúng cho rằng ta đổi mới nửa vời, đòi Đảng ta đổi mới về chính trị theo quan điểm của phương Tây, thực hiện Nhà nước pháp quyền tư sản; hô hào tập hợp lực lượng đấu tranh, đòi được quyền ra báo tư nhân, đòi tự do lập hội, tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoạt động ngoài vòng pháp luật... Mặt khác, chúng lợi dụng những tiêu cực nảy sinh trong một số cán bộ, đảng viên mà ta đang lên án, phê phán, đấu tranh, xử lý như: tham ô, tham nhũng, quan liêu, lãng phí, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân và các tệ nạn    hội  khác...  để  bôi  đen  bức  tranh    hội,  gây  tâm  lý hoang mang, mất lòng tin trong nhân dân vào Đảng, chính quyền và chế độ.

Các thế lực thù địch sử dụng các thủ đoạn nhằm bóp méo sự thật, bôi nhọ đi đến phủ nhận quá khứ tốt đẹp của cách mạng, của dân tộc, xuyên tạc lịch sử hòng chia rẽ nội bộ Đảng, làm suy yếu tổ chức đảng; chia rẽ Đảng với Nhà nước và nhân dân, cô lập, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang nhân dân; đòi giải tán Hội Cựu chiến binh, kích động số trí thức, văn nghệ sĩ, du học sinh nhẹ dạ và một số người đã từng tham gia hoạt động cách mạng trước đây có tâm lý bất mãn; chia rẽ tôn giáo, dân tộc hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm suy yếu chế độ, nhằm xóa bỏ niềm tin trong cán bộ và nhân dân ta vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, tiến tới hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Mặt khác, các thế lực thù địch cũng nhận định rằng không có một thế lực nào trên thế giới có thể đánh đổ Cộng sản Việt Nam, mà chỉ có Cộng sản Việt Nam đánh đổ Cộng sản Việt Nam mà thôi (!). Chính vì thế, chúng triệt để lợi dụng quá trình hội nhập quốc tế nhằm tuyên truyền, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ để hình thành tư tưởng, tâm lý sống thực dụng hòng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống.

Những âm mưu, thủ đoạn và luận điệu trên đây của các thế lực thù địch được tiến hành với nhiều phương thức hết sức tinh vi, thâm độc và xảo quyệt, vừa lén lút, rỉ tai, vừa công khai, thách thức đã và đang tác động không nhỏ đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số nhẹ dạ, cả tin, dễ bị mắc mưu bọn chúng.

Để góp phần đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch chống phá Đảng, Nhà nước ta, theo chúng tôi, cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, chủ động tiến công, triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Phản bác kịp thời, có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh chống các luận điểm phủ định, bóp méo sự thật, xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vạch trần âm mưu, thủ đoạn lợi dụng những yếu kém của ta để kích động, chống đối, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; khắc phục được những “khoảng trống”, những “điểm chậm trễ” trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch.

Hai là, nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu  quả  của  công  tác    tưởng, lý  luận.  Đổi  mới  nội  dung, phương pháp nâng cao chất lượng đấu tranh phản bác những quan điểm, luận điểm sai trái, thù địch, trái với Cương lĩnh, đường lối của Đảng. Đồng thời, tăng cường tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là cho thế hệ trẻ, làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nắm vững, nhất trí với mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên trì  đấu  tranh  bảo  vệ    tưởng  độc  lập  dân  tộc  gắn  liền  với chủ nghĩa xã hội; thường xuyên gắn kết chặt chẽ công tác tư tưởng, lý luận với các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh.

Ba là, đẩy mạnh xây dựng, củng cố hệ thống chính trị các cấp vững mạnh; tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc về âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, tính chất nguy hại của những quan điểm sai trái, thù địch, tránh tư tưởng chủ quan, mơ hồ, buông lỏng công tác tư tưởng, lý luận.

Bốn là, thường xuyên bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình, diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và dư luận xã hội của các tầng lớp nhân dân; nhất là địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo phức tạp, nhạy cảm để phát hiện, phân tích, đánh giá, dự báo đúng, giải quyết kịp thời những vụ việc phức tạp, giữ vững an ninh nông thôn, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Đẩy mạnh tuyên truyền, vạch trần tính chất phản động, phản khoa học, mị dân của các thế lực thù địch, đặc biệt là âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động lưu vong, kiên quyết đấu tranh xóa bỏ tư tưởng “ly khai tự trị” trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số.

Năm là, tăng cường phối hợp với các lực lượng để làm tốt công tác vận động quần chúng, nâng cao hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, tích cực xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội, củng cố và tăng cường “thế trận lòng dân” vững chắc, tăng cường sức đề kháng và khả năng miễn dịch, làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Sáu là, tập trung củng cố hệ thống chính trị, phát huy kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI gắn với tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhằm nhanh chóng khắc phục những khuyết điểm, yếu kém, đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, quyết không để cho kẻ địch lợi dụng tuyên truyền kích động chống phá Đảng, Nhà nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ chủ chốt có phẩm chất, năng lực tốt, có uy tín cao, đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ. Các cấp ủy, cơ quan, đơn vị cần tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, không để lộ, lọt bí mật quân sự, an ninh, bí mật nhà nước, xây dựng đơn vị và địa bàn an toàn, chống địch mua chuộc, cài cắm, móc nối, gây dựng cơ sở trong nội bộ ta.

Trước những âm mưu thâm độc và quan điểm sai trái, thù địch, cuộc đấu tranh phản bác cần được coi trọng và tiến hành thường xuyên hơn nữa. Cần huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nhất là đội ngũ trí thức, nhà khoa học, nhà báo,  văn nghệ sĩ tâm huyết tham gia; nâng cao chất lượng, hiệu quả các bài viết có nội dung đấu tranh phản bác bảo đảm tính chiến đấu, tính thuyết phục; kết hợp hài hòa các hình thức đấu tranh phản bác trên báo chí công khai, trên mạng internet, các blog...; triệt để  sử dụng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền miệng để đấu tranh kịp thời, sắc bén ngay từ các địa bàn cơ sở.

 

ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

 

 

Nhận diện, đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch về đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, góp phần làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong bộ, củng cố niềm tin, sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng bộ về chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự đồng thuận trong xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.

1. Quá trình hoàn thiện tư duy lý luận của Đảng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Trong suốt quá trình hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta nhận thức ngày càng rõ và sát thực tế hơn về tính tất yếu, mục tiêu, bản chất, đặc trưng, cấu trúc, thể chế, cơ chế vận hành của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi bắt đầu đổi mới, Đảng ta quan niệm kinh tế hàng hóa có những mặt tích cực cần phát huy. Trong quá trình đổi mới, từ thực tiễn, Đảng nhận thức rõ hơn, kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường là phương thức, điều kiện tất yếu để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Mốc son lịch sử đánh dấu thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước là Đại hội VI của Đảng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, phải nắm vững quy luật khách quan. Mặt khác, thẳng thắn chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm chủ quan trong đánh giá tình hình, bối cảnh đất nước và lựa chọn, duy trì mô hình phát triển kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp quá lâu, không phù hợp.

Kế thừa và phát triển đường lối đổi mới, Đại hội VII của Đảng tiếp tục khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lj của Nhà nước.

Đến Đại hội VIII, Đảng ta đã có bước phát triển mới, thể hiện ở chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái

Đến Đại hội IX, lần đầu tiên Đảng chính  thức  khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Mục đích của nền kinh tế này là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với quan hệ sản  xuất  mới  phù  hợp  trên  cả  ba  mặt  sở  hữu,  quản    và phân phối.

Đại hội X của Đảng đã tiếp tục khẳng định đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường và đã có những tư tưởng, quan điểm mới. Đại hội nêu rõ: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lj của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Đại hội XII của Đảng tiếp tục kế thừa, thống nhất, hoàn thiện tư duy lý luận, nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”1.

Như vậy, tư duy về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng được hình thành, phát triển và ngày càng hoàn thiện hơn qua các kỳ đại hội. Quá trình đó chứng tỏ, Đảng nhận thức rõ được sự tồn tại khách quan của nền kinh tế thị trường, trên cơ sở đó, Đảng xây dựng nền tảng cơ sở lý luận vững chắc về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

2. Nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch với quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Nhận diện, đấu tranh phản bác các quan  điểm,  luận điệu sai trái, thù địch với quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, góp phần ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” trong nội bộ, củng cố sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng bộ về chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự đồng thuận trong xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác tư tưởng, lý  luận    thực  tiễn  hiện  nay.  Trong  đó,  cần  tập trung vào một số vấn đề sau đây:

Một là, đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu coi kinh tế thị trường là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản.

Cần khẳng định ngay rằng, việc đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản là hoàn toàn không có cơ sở khoa học và sai lầm; đồng thời, coi kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản là hoàn toàn không đúng; bởi kinh tế thị trường chỉ là một kiểu tổ chức kinh tế mà xã hội loài người sáng tạo ra, có thể tồn tại ở các chế độ xã hội khác nhau. Vì thế, việc đồng nhất một kiểu tổ chức kinh tế với một chế độ xã hội là thứ tư duy máy móc, phiến diện.

Kinh tế thị trường được thừa nhận là thành tựu chung của nền văn minh nhân loại, không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường không đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: Sản xuất hàng hóa là thành tựu của nền văn minh nhân loại, nó không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng. Văn kiện Hội nghị Trung ương 6 khóa X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã chỉ rõ: Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại được phát triển tới trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản, nhưng bản thân kinh tế thị trường không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản.

Sản xuất hàng hóa có mầm mống từ trong xã hội nô lệ, phát triển trong xã hội phong kiến và phát triển cao  trở thành nền kinh tế thị trường trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Bản chất của kinh tế thị trường và kinh tế hàng hoá là đều nhằm sản xuất ra sản phẩm để bán, đều nhằm mục đích giá trị và đều trao đổi thông qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường đều dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, làm cho những người sản xuất vừa độc lập, vừa phụ thuộc vào nhau. Trước chủ nghĩa tư bản kinh tế thị trường còn ở thời kỳ manh nha, thì trong chủ nghĩa tư bản nó đạt đến trình độ cao đến mức chi phối toàn bộ nền kinh tế và cuộc sống của con người trong xã hội đó. Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hoá, do đó kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hoá ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Chỉ có thể chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay tư bản là nhân tố giữ vai trò chủ đạo, chi phối trong nền kinh tế thị trường mới làm cho nền kinh tế thị trường đó mang đặc trưng tư bản, là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.

Lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã  hội  chủ nghĩa ở Việt Nam không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã  hội, mà là nắm bắt và vận dụng sáng tạo quy luật khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay, là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân trong quá trình xây dựng đất  nước. Trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự đúc rút kinh nghiệm phát triển nền kinh tế thị trường trên thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan điểm của Đảng ta về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Hai là, đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu xuyên tạc, cho rằng: không có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là một; đã lựa chọn kinh tế thị trường thì không có định hướng xã hội chủ nghĩa (!).

Sự khác biệt giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam về bản chất, đặc trưng và hình thức thể hiện; sự kết hợp giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa tập trung ở những nội dung cơ bản sau:

Về người làm chủ, nền kinh tế thị trường tư  bản  chủ nghĩa do giai cấp tư sản làm chủ; nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do nhân dân làm chủ, Nhà nước đại diện quản lý, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Về mục đích phát triển: phát  triển  kinh  tế  thị  trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là phát triển lực lượng  sản  xuất,  xây  dựng    sở  vật  chất  kỹ  thuật  cho  chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân lao động và mọi thành viên trong cộng đồng xã hội, gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới tiến bộ, phù  hợp  trên  cả  ba  mặt:  sở  hữu,  quản lý    phân  phối. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa có mục đích tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản, duy trì vai trò thống trị của giai cấp tư sản và sự bền vững của chế độ tư bản chủ nghĩa.

Về cơ sở kinh tế - xã hội, đó là sự khác biệt về chế độ sở hữu. Nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu, trong đó chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu là nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất giữ vai trò thống trị, các công ty tư bản độc quyền chi phối đến sự phát triển của nền kinh tế.

Về  thành  phần  kinh  tế    vai  trò  của  các  thành  phần kinh tế, được xác định qua sự khác biệt về thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo. Ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, về lâu dài kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; trái lại, trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, kinh tế tư bản tư nhân và các tổ chức độc quyền giữ vai trò chủ đạo.

Về chế độ quản lý kinh tế, ở Việt Nam, đó là sự quản lj, điều tiết của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nhà nước tư sản và các tổ chức độc quyền quản lý, điều tiết nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và các tổ chức độc quyền.

Về chính sách phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo tài sản và vốn.

Về tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, Nhà nước Việt Nam chủ động giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Công bằng xã hội không chỉ là phương tiện mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội mới. Đối với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, vấn đề công bằng xã hội chỉ được xem như là phương tiện nhằm đạt mục đích ngày càng nhiều giá trị thặng dư để duy trì và củng cố chế độ tư bản chủ nghĩa mà thôi.

Ba là, đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu cho rằng “đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chắp vá, không tưởng. Việt Nam hiện nay đang đứng ở ngã ba đường, không biết đi theo con đường nào. Nếu không hòa nhập vào thế giới, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì sẽ bị trả giá, tự giác thì đến đích nhanh hơn, không tự giác thì tất yếu cũng phải đi theo con đường đó, nhưng đến đích đau đớn hơn, chậm chạp hơn” (!). Trên cơ sở đó, chúng phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phê phán triệt để, bôi đen chủ nghĩa xã hội hiện thực, bác bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, công khai ca ngợi con đường tư bản chủ nghĩa.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một hình thức đặc thù của kinh tế thị trường, thể hiện sâu sắc mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Đặc trưng cơ bản nhất của kinh tế thị trường là sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, đa dạng các loại hình doanh nghiệp trong điều kiện phân công lao động xã hội ngày càng mở rộng, phát triển. Những đặc trưng này tự nó không mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Tính chất tư bản chủ nghĩa không phải là thuộc tính vốn có của kinh tế thị trường. Tính chất của một nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào tính chất của những bộ phận cấu thành của nó, đặc biệt là tính chất của Nhà nước và tính chất của thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường đó. Một nền kinh tế thị trường mang tính chất tư bản chủ nghĩa là do trong nền kinh tế đó, các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa (doanh nghiệp sử dụng và bóc lột lao động làm thuê để chiếm đoạt giá trị thặng dư) tạo nên thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo, chi phối nền kinh tế, điều tiết nền kinh tế, mang tính chất tư bản chủ nghĩa, là người đại diện cho quyền và lợi ích của tư sản. Khi các doanh nghiệp, thành phần kinh tế chi phối nền kinh tế là các doanh nghiệp tư sản và thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa, Nhà nước là nhà nước tư bản chủ nghĩa thì tất yếu, nền kinh tế thị trường đó là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.

Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, “cái gì tồn tại thì hợp lý, cái gì hợp lý thì tồn tại”. Nhìn lại hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là minh chứng sinh động về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đất nước đã vượt qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa - xã hội có bước phát triển; đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Bốn là, đấu tranh phản bác quan điểm,  luận  điệu  sai trái, thù địch lợi dụng các hiện tượng bên ngoài để đánh giá, phán xét, xuyên tạc bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Hơn 30 năm phát triển nền kinh tế thị trường, Đảng ta cũng chỉ ra những tồn tại, hạn chế cần tiếp tục khắc phục: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường còn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chất lượng còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện ba đột phá chiến lược. Kết quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn hạn chế, chưa tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ; môi trường đầu tư, kinh doanh không thật sự bảo đảm cạnh tranh  lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Giá  cả  một  số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự theo nguyên tắc thị trường. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, chưa thể hiện vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước. Hầu hết doanh nghiệp tư nhân quy mô còn nhỏ, thiếu liên kết, khả năng ứng phó với các rủi ro yếu, nhiều doanh nghiệp phải giải thể hoặc ngừng hoạt động. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động,  khai thác tài nguyên và  còn hạn chế  trong  chuyển  giao  công  nghệ    trình  độ  quản lý tiên tiến. Trình độ phát triển của các loại thị trường thấp, vận hành chưa thật sự đồng bộ, thông suốt, trong đó thị trường lao động và thị trường dịch vụ công có cơ cấu chưa hợp lý; thị trường tài chính - tiền tệ và thị trường bất động sản tiềm ẩn nhiều rủi ro; thị trường khoa học - công nghệ phát triển chậm. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; Nhà nước còn can thiệp trực tiếp, quá lớn trong nền kinh tế. Vẫn còn tình trạng bao cấp, xin - cho trong xây dựng và thực hiện một số cơ chế, chính sách. Hội nhập quốc tế chưa kết hợp và phát huy tốt nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước để phát triển. Các nỗ lực đổi mới kinh tế trong nước chưa thật sự đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Nhiều bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp thiếu chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch toàn diện, cụ thể, chuẩn bị các điều kiện và năng lực về mọi mặt để khắc phục khó khăn, thách thức, tận dụng cơ hội do hội nhập đem lại. Một số chương trình, dự án chạy theo thành tích, nhìn thấy lợi trước mắt mà xem nhẹ những tác động lâu dài về môi trường sinh thái; tình trạng mất vệ sinh an toàn thực phẩm; khiếu nại, khiếu kiện kéo dài về đất đai... gây bức xúc trong dư luận, nhân dân.

Dựa vào những hạn chế, tồn tại nói trên, các thế lực thù địch lợi dụng để suy diễn, diễn đạt dưới nhiều hình thức khác nhau, xuyên tạc, quy chụp bằng những luận điệu chính trị mang tính bản chất về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về dân chủ, nhân quyền...; làm cho những người không có nền tảng tư tưởng chính trị vững vàng dễ bị lầm tưởng, hồ nghi, thậm chí xét lại, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà suy thoái về tư tưởng chính trị.

Thực hiện đường lối đổi mới hơn 30 năm qua, có thể thấy việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề hoàn toàn mới chưa có tiền lệ trong lịch sử, phải vừa làm, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm, hoàn thiện thực tiễn là hoàn toàn khách quan, khoa học, biện chứng. Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế do công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết chưa theo kịp đòi hỏi của tình hình. Nhiều vấn đề lớn đặt ra trong quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn có ý kiến khác nhau, ảnh hưởng tới việc ban hành cơ chế, chính sách từ nhiều năm nhưng chưa có câu trả lời, như vấn đề sở hữu đất đai, vai trò của kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân... Nhận thức được vấn đề này, Đại hội XIII của Đảng đã có tổng kết, đánh giá, phát triển tư duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một cách sâu sắc, toàn diện và đầy đủ hơn.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

VẠCH TRẦN BẢN CHẤT QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH “MỘT ĐẢNG DUY NHẤT LÃNH ĐẠO THÌ KHÔNG CÓ DÂN CHỦ, SẼ ĐƯA ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC VÀO NGÕ CỤT”

 

294

 

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đó là nhận định không chỉ của Đảng ta, nhân dân ta mà còn được bạn bè quốc tế thừa nhận. Tuy nhiên hiện nay, các thế lực thù địch chống phá Việt Nam thường xuyên tuyên truyền luận điệu: “Ở quốc gia mà chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo như Việt Nam thì không có dân chủ, sẽ đưa đất nước, dân tộc đi vào ngõ cụt” (!). Trên mạng internet đã xuất hiện nhiều thông tin thù địch, trái chiều, các blog có nội dung xấu rêu rao tư tưởng dân chủ tư sản, bôi son, tô hồng về những thành tựu của các nước tư sản theo chế độ đa nguyên, đa đảng, hay trực tiếp nói xấu, bôi nhọ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Bản chất của hoạt động này là nhằm phủ nhận sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, kích động đa nguyên, đa đảng, từng bước chuyển hóa thể chế chính trị ở Việt Nam.

Thực tiễn lịch sử cho thấy, quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu khách quan, là quy luật không thể đảo lộn ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sự ra đời đó không chỉ là ý chí đơn thuần của các nhà hoạt động cách mạng mà là sản phẩm của lịch sử.

Trở lại dòng lịch sử dân tộc, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của các văn thân, sĩ phu yêu nước, phong trào cách mạng đã diễn ra trên khắp mọi miền đất nước, từ phong trào đấu tranh theo khuynh hướng phong kiến đến các phong trào theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, các phong trào cách mạng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đều thất bại. Vào những năm 20 của thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng đường lối lãnh đạo trầm trọng. Giữa lúc đó, người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc, bằng hoạt động tích cực của mình trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước,  tổ chức cho các thanh niên yêu nước học tập chính trị, quân sự tại các trường bồi dưỡng cán bộ của Trung Quốc và Liên Xô... Đó là những hoạt động đầu tiên cho công tác xây dựng Đảng để ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930.

Trong xã hội hiện đại, ứng với mỗi mô hình kinh tế, xã hội, tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có một mô hình tổ chức chính trị và dân chủ tương ứng, có thể là hệ thống chính trị một đảng hay hệ thống chính trị đa đảng cạnh tranh. Trong hệ thống đó, đảng là một tổ chức chính trị của một giai cấp, đại biểu lợi ích cho giai cấp đó. Đảng ra đời nhằm mục đích đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Đảng lãnh đạo giai cấp đấu tranh giành chính quyền bằng phương pháp cách mạng, bằng bạo lực cách mạng. Đảng chính trị bao giờ cũng mang bản chất giai cấp, không có đảng chính trị nào là phi giai cấp, siêu giai cấp... Đảng sẽ mất  nghĩa tồn tại khi sứ mệnh lịch sử của giai cấp đã hoàn thành, đây là vấn đề có tính nguyên tắc. V.I.Lênin viết: Cuộc đấu tranh của các chính đảng là biểu hiện hoàn chỉnh, đầy đủ và  rõ rệt nhất của các cuộc đấu tranh chính trị của các giai cấp.

Trên thế giới hiện nay đang tồn tại ba loại hệ thống chính trị cơ bản: hệ thống  chính trị một đảng    hệ thống chỉ có duy nhất một đảng chính trị cầm quyền chi  phối quyền lực chính trị - xã hội, tức là thực hiện chế độ một đảng hay nhất nguyên chính trị, ví dụ như Việt Nam, Cuba,...; hệ thống chính trị có nhiều đảng nhưng chỉ có một đảng duy nhất là đảng cầm quyền như Trung Quốc (Trung Quốc là nước duy nhất trên thế giới áp dụng hệ thống chính trị này và theo Hiến pháp Trung Quốc chỉ có Đảng Cộng sản Trung Quốc là Đảng cầm quyền); nhưng cũng có nước có thể có nhiều đảng phái chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau cùng tồn tại, đối lập, đấu tranh với nhau đòi chia sẻ vai trò lãnh đạo chính trị và chi phối đời sống chính trị - xã hội của quốc gia, đó là các nước thực hiện chế độ đa nguyên  chính  trị,  đa  đảng  đối  lập  như  ở Mỹ,  Anh,  Đức...  Ở cả hệ thống chính trị một đảng hay đa đảng thì nó đều chứa đựng những thuận lợi và thách thức, vấn đề là ở chỗ các chính đảng đó tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức thế nào để lãnh đạo nhà nước và xã hội.

Đối với Việt Nam, những năm đầu thế kỷ XX, hàng loạt cuộc khởi nghĩa do giai cấp nông dân, các sĩ phu yêu nước lãnh đạo lần lượt thất bại. Các đảng chính trị đại diện cho các giai cấp, tầng lớp xã hội ở nước ta lúc bấy giờ tranh đoạt vũ đài lịch sử dân tộc. Từ đảng của giai cấp nông dân như Nghĩa Hưng (năm 1907), đảng của giai cấp tư sản, địa chủ như Lập hiến (năm 1923)... tới đảng của tầng lớp thanh niên, sinh viên, trí thức, tiểu tư sản như: Việt Nam nghĩa đoàn, Đảng Thanh niên, An Nam độc lập Đảng (năm 1927), Việt Nam Quốc dân đảng (năm 1927)... rồi đảng của bọn tay sai thực dân Pháp và phát xít Nhật như: Đại Việt quốc gia xã hội đảng, Đại Việt quốc dân đảng; các đảng phản động như: Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách  mạng  Đồng  minh hội (Việt Cách)... Trong số ấy, chỉ một số đảng mong chấn hưng đất nước nhưng “lực bất tòng tâm”, một số có âm mưu, toan tính biến đất nước thành nơi thử nghiệm những mưu đồ chính trị của giai cấp, tầng lớp họ. Nhưng do không đủ sức lãnh đạo dân tộc, các đảng này hoặc tự phải diệt vong hoặc bị giải tán. Giai đoạn này, nước  ta  đã  hình  thành nhiều tổ chức đảng phái khác nhau, mà ta có thể hiểu một cách nôm na là “đa đảng”.

Chính trong bối cảnh ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, từng bước nhận được sự tín nhiệm, yêu mến của các tầng lớp nhân dân, từng bước lãnh đạo dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Qua sự “sàng lọc” khắc nghiệt của lịch sử những thập niên đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy nhất dẫn dắt đất nước đi đến tương lai hạnh phúc. Như vậy, cần khẳng định rằng, Việt Nam đã từng có thời kỳ lịch sử nhiều đảng cùng tham gia lãnh đạo cách mạng, nhưng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là cách mạng nhất, chân chính nhất, đủ bản lĩnh lãnh đạo cách mạng nước ta. Chế độ chính trị một đảng lãnh đạo là do nhân dân ta lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong quá trình lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến chống quân xâm lược và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp cách mạng nước ta đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân Việt Nam thực sự được làm chủ cuộc sống của mình, được sống trong “tự do, hạnh phúc”.

Phải chăng chế độ một đảng cầm quyền là mất dân chủ?

Đây là câu hỏi tốn nhiều giấy mực của các học giả cả vô sản lẫn tư sản. Nếu chỉ nhìn vào hiện tượng, thì đã có lúc, có nơi một số đảng cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu gây mất dân chủ trong nội bộ đảng và trong quá trình lãnh đạo đất nước dẫn tới sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước này vào những năm 90 của thế kỷ XX. Với cách nhìn khách quan, biện chứng và tinh thần học hỏi, Đảng ta đã thẳng thắn nhìn nhận ra điều này và cho đó là một bài học trong quá trình lãnh đạo đất nước, như V.I.Lênin đã khẳng định: Quan liêu và xa dân là nguy cơ của bất cứ một đảng cầm quyền nào, nhưng sẽ là sai lầm, nếu chỉ nhìn vào hiện tượng đơn lẻ mà suy ra bản chất của vấn đề.

Với tư cách là hình thức chế độ chính trị của đất nước, dân chủ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước, nên không bao giờ có một thứ dân chủ “thuần tuj”, dân chủ bao giờ cũng mang bản chất giai cấp sâu sắc. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội, tương ứng với nó là 5 hình thái dân chủ từ cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Mỗi hình thái dân chủ sau là những nấc thang phát triển cao hơn, dựa trên sự kế thừa của nền dân chủ trong xã hội trước đó. Quy luật ấy cũng phản ánh khát vọng nghìn đời của nhân loại muốn thoát khỏi mọi sự tha hóa để vươn đến tiến bộ và tự do cùng với việc nhận thức ra lôgíc vận động của xã hội loài người. Hướng đến chủ nghĩa xã hội là hướng đến một nền dân chủ tiến bộ và hoàn thiện. Cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh vì một chế độ dân chủ chân chính nhất. Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa khác nhau về bản chất và về trình độ với tư cách là những xã hội nối tiếp nhau trong nấc thang từ thấp lên cao của xã hội loài người.

Nền dân chủ vô sản gắn chặt với cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội, nên nó chỉ có thể thực hiện được bằng con đường thiết lập quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản đối với toàn thể xã hội thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. Chỉ giai cấp vô sản và đảng tiên phong của mình với cơ sở xã hội rộng lớn là quảng đại nhân dân lao động và mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng lao động, giải phóng xã hội và giải phóng con người mới có khả năng thiết lập được một nền chuyên chính vừa bảo đảm dân chủ cũng như các lợi ích căn bản khác của đông đảo quần chúng lao động, vừa triệt tiêu mọi khả năng phục hồi chế độ bóc lột và nô dịch.

Đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập là nét đặc trưng của thể chế chính trị tư sản trên thế giới hiện  nay.  Nói chung, ở các nước tư bản, về hình thức thì các đảng chính trị đều “tự do”, “bình đẳng” trong cuộc đấu tranh nghị trường và đều có khả năng trở thành đảng cầm quyền, nhưng trong thực tế thì chỉ có các đảng lớn, có thế lực, được sự hậu thuẫn của các tập đoàn tư bản độc quyền mới có khả năng chiến thắng. Mặt khác, chế độ đa đảng ở phương Tây, xét về thực chất, cũng là dựa trên cơ sở nhất nguyên chính trị, vì tất cả các đảng cánh hữu đều nhằm phục vụ chế độ tư bản. Đúng là cơ chế đa đảng đưa lại một số tác động tích cực nhất định cho các đảng tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo điều kiện cho họ có khả năng tránh nguy cơ chuyên quyền, độc đoán thông qua cọ xát, kiềm chế, đối trọng lẫn nhau. Tuy vậy, thể chế đa đảng này cũng dễ khuyến khích các lực lượng đối lập vì lợi ích cục bộ chỉ biết phản đối tất cả những gì của đảng cầm quyền, bất chấp phải - trái, đúng - sai. Hệ quả là làm xuất hiện một nền chính trị vì quyền lực và một công nghệ đấu đá chính trị trên những lợi ích chính đáng của đông đảo cử tri.

Tính giai cấp của nền dân chủ tư bản phương Tây được thể hiện thông qua vị trí của tiền bạc ngày càng trở thành yếu tố quyết định trong đời sống chính trị. Cái gọi là “nền dân chủ Mỹ” chỉ là nền dân chủ của nhà giàu. Tờ Thời báo Tài chính (Anh) ngày 25-11-2000 viết: “Cuộc bầu  cử  năm 2000 đã cho thấy rõ nền dân chủ Mỹ có thể bán cho những người trả giá cao nhất”. Có thể gọi đó là nền dân chủ đấu giá. Tờ Thế giới (Tây Ban Nha) cùng ngày đã ví thói mê tiền như là “căn bệnh ung thư của nền dân chủ Mỹ”. Một chính quyền được tạo lập bởi đồng tiền thì tất yếu phải hướng đến phục vụ những kẻ nhiều tiền, chứ không thể là một “chính quyền của tất cả mọi người” mà các lý luận gia của họ rêu rao. Như vậy, dân chủ hay không dân chủ không phụ thuộc vào số lượng các đảng chính trị, vào việc có áp dụng hay không áp dụng chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trong từng thời điểm cụ thể, nhà nước nói riêng và xã hội nói chung đều phải do một đảng lãnh đạo. Có hay không có dân chủ, dân chủ được thực hiện ở trình độ cao hay thấp, tất cả phụ thuộc vào bản chất của đảng cầm quyền chứ không phụ thuộc vào số lượng nhiều hay ít các đảng phái chính trị.

Ở nước ta, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là quy luật hình thành, phát triển, là tôn chỉ, mục đích hoạt động của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là người đại diện chân chính duy nhất cho lợi ích và nguyện vọng của nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống, quyền tự do, dân chủ và hạnh phúc. Đó là các quyền sử dụng tư liệu sản xuất, có công ăn việc làm, quyền học tập và hưởng thụ văn hóa, quyền tham gia quản lý nhà nước, giám sát cán bộ, đảng viên, công chức và cơ quan nhà nước, quyền đóng góp ý kiến vào các chủ trương, chính sách, pháp luật, bày tỏ ý kiến về các hiện tượng tích cực và tiêu cực trong đời sống xã hội... Vì vậy, có ai đó nói “một quốc gia chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo như Việt Nam thì không có dân chủ” là không có căn cứ, thậm chí là phản khoa học, vì thực tế ở Việt Nam hiện nay đang chứng minh điều ngược lại.

Sự thực đằng sau quan điểm trên là gì?

Sở dĩ ở trên chúng ta đề cập đến 2 dạng người, một là những cá nhân nhận thức ngây thơ về mặt chính trị, hay “não ngắn” nên có những phát ngôn ngông cuồng, thiếu căn cứ. Trường hợp thứ hai là những phần tử cơ hội chính trị, chống đối, thù địch với chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng sử dụng các kênh thông tin khác nhau để chống phá cách mạng nước ta, hạ thấp uy tín của Đảng nhằm tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Trong đó, chúng sử dụng các trang mạng xã hội để tập trung: đả phá hệ thống lý luận và nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền, phá hoại việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; bôi nhọ uy tín Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chia rẽ nội bộ Đảng, đặc biệt trong thời điểm diễn ra Đại hội Đảng các cấp và kiện toàn bộ máy nhân sự nhà nước ở Trung ương; kích động tư tưởng phân biệt giai cấp, hận thù chế độ trong các tầng lớp xã hội. Chúng lập ra các nhóm gọi là “Thư ngỏ 61”, “Kiến nghị 72” để tuyên truyền những thông tin kích động nhân dân đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp nhằm tạo cơ hội cho các nước tư bản phương Tây dễ dàng thực hiện mưu đồ chính trị của chúng. Đưa ra các tuyên bố về tôn giáo, nhân quyền ở Việt Nam trái với thực tế để cho rằng chế độ một đảng lãnh đạo như ở Việt Nam đang bóp nghẹt “dân chủ”, làm cho nhân dân bị áp bức, bóc lột, gây ra tình trạng quan liêu, tham nhũng, làm cho đất nước đi vào “ngõ cụt” (!). Đáng chú ý, sự câu kết, móc nối giữa các phần tử chống đối ở trong và ngoài nước ngày càng rõ nét, phát hiện nhiều đối tượng trong nước đã nhận tiền tài trợ  của cá nhân,  tổ chức quốc tế để tiến hành các hoạt động phá hoại tư tưởng, biểu tình, bạo động.

Tình hình thế giới và trong nước những năm tiếp theo chắc chắn sẽ có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là những biến động về kinh tế và an ninh chính trị ở các nước, do đó các thế lực thù địch vẫn tiếp tục tiến hành những hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và cách mạng nước ta nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, gây  mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ để thực hiện mưu đồ chính trị của chúng bằng các phương thức, thủ đoạn ngày càng xảo quyệt. Để làm tốt công tác bảo vệ Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước thì yêu cầu đặt ra đối với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó nòng cốt là lực lượng Công an nhân dân phải làm tốt công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch.

Rõ ràng, bằng nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách rêu rao tư tưởng sai trái, thù địch để chống phá cách mạng nước ta, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam để ngày càng phụ thuộc vào các nước tư bản phương Tây. Quan điểm “Một đảng duy nhất lãnh đạo thì không có dân chủ, sẽ đưa đất nước, dân tộc vào ngõ cụt” rõ ràng là đi ngược lại với thực tế và chính nghĩa, cần cương quyết đấu tranh, bác bỏ. Do đó, để làm tốt công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chống phá Đảng trong thời gian tới cần tập trung:

Một là, thường xuyên tích cực, chủ động, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng trong đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, thù địch. Coi trọng việc đề xuất xây dựng và thực hiện tốt cơ chế, quy chế phối hợp giữa công an với quân đội và các ban, bộ, ngành của Trung ương, cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các địa phương để phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

Hai là, thường xuyên coi trọng tổ chức xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên sâu trong đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch. Để phối hợp tốt với các lực lượng chức năng trong đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch cần phải có lực lượng nòng cốt, chuyên sâu.

Ba là, trong phối hợp đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hoạt động phối hợp đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị có chức năng đấu tranh trên cơ sở tuyệt đối trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng vào thực tiễn để xem xét, phân tích, đánh giá, vạch trần bản chất phản động, phản khoa học của những quan điểm sai trái, thù địch. Quán triệt và thực hiện nghiêm Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 17-4-2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa,

Bốn là, coi trọng phối hợp chặt chẽ trong công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn phục vụ hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước, không để các thế lực thù địch có kẽ hở tấn công, đồng thời kiên quyết đấu tranh trên mặt  trận  tư tưởng, lý luận,  đập  tan  những quan  điểm,  luận điệu sai trái, thù địch. Tổ chức tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm về đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa ở Việt Nam hiện nay... Thông qua nghiên cứu các quan điểm sai trái, thù địch của các thế lực thù địch để phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong quá trình lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước ta, đề xuất phương hướng giải quyết để tạo lòng tin trong nhân dân. Việc nghiên cứu nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phải được tiến hành thường xuyên, toàn diện, đồng bộ, chủ động, kịp thời, chính xác, nhất là những vấn đề nhạy cảm trên các lĩnh vực dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, vấn đề Biển Đông, âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng... cần có sự thông tin, trao đổi phối hợp thường xuyên của nhiều lực lượng chức năng.

Không thể phủ nhận vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị

 

Dương Bình

 

Xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các tổ chức chính trị – xã hội có vai trò quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị. Tuy nhiên, với tâm địa thâm thù chống phá cách mạng đến cùng, Đào Tăng Dực đã đưa ra nhiều luận điệu xuyên tạc, phủ nhận vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị thông qua bài viết “Mặt Trận Tổ Quốc: tuồng lường gạt nhân dân qua điều 9 Hiến pháp” đăng trên “Doithoaionline. com”.

Phủ nhận vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị là sự “thất bại” của Đào Tăng Dực và các thế lực thù địch trong chống phá cách mạng Việt Nam. Kêu gọi xóa bỏ Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thủ đoạn quen thuộc, cũ rích của Đào Tăng Dực và các thế lực thù địch, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, hướng lái Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, Đào Tăng Dực và các thế lực thù địch càng cuồng vọng kêu gào, phủ nhận… thì chúng lại càng chuốc lấy sự cay đắng, thất bại, vì rằng: Uy tín và vị thế của Đảng Cộng sản Vệt Nam ngày càng được nâng cao, vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được củng cố và giữ vững hơn. Vì thế, Đào Tăng Dực đã cố gắng loay hoay chuyển hướng sang phủ nhận vai trò, đòi xóa bỏ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội trong xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị hiện nay. Đào Tăng Dực đã hồ đồ quy kết rằng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: “thay vì đại diện cho xã hội dân sự, thì họ lại phản bội nhân dân bằng cách chọn lọc ứng cử viên toàn là đảng viên hầu chế độ đảng cử dân bầu”; là “tay sai đắc lực của Đảng, củng cố sự lãnh đạo toàn trị của Đảng Cộng sản Việt Nam”; là “tác nhân của nguyên tắc phản dân chủ”. Từ đó, Đào Tăng Dực “kêu gào” đòi “xóa bỏ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. Đây là những luận điệu hoàn toàn sai trái, cần đấu tranh loại bỏ.

Cần khẳng định, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không phải tự Mặt trận đặt ra mà do chính nhân dân và lịch sử thừa nhận. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã ghi nhận, thắng lợi trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ngày nay luôn có sự đóng góp to lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 gắn liền với sự nghiệp của Mặt trận Việt Minh. Thành tích của Mặt trận Việt Minh chính là sự kế tục sự nghiệp cách mạng đã được chuẩn bị từ trước của Hội Phản đế đồng minh (1930-1936) và của Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939). Tiếp theo Mặt trận Việt Minh là Mặt trận Liên Việt đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi. Kế tục Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời đã đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất nước nhà. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Những thành tích đó của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qua các thời kỳ được chính nhân dân và lịch sử ghi nhận.

Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không chỉ được khẳng định bởi sự ghi nhận của nhân dân, trong đường lối, chủ trương của Đảng, mà còn được thể chế hóa trong Hiến pháp và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Theo đó, trong nhiều Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam (Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII, XIII; Nghị quyết Trung ương 7, khoá IX) đều khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng. Thể chế hoá các quan điểm của Đảng, Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Hiến pháp năm 2013, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhiều văn bản pháp luật liên quan khác đã quy định đầy đủ về vị trí, vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị ở nước ta.

Vai trò và tầm quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị đã được khẳng định trong thực tế. Thông qua nhiều hình thức tổ chức và vận động quần chúng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã góp phần cùng với Đảng, Nhà nước giải quyết những khó khăn, bức xúc, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để các tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ tham gia xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị; khơi dậy và phát huy các giá trị đạo đức, văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước trong xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị.

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Song quần chúng nhân dân cần phải được tập hợp lại, đoàn kết lại và dẫn dắt bởi các tổ chức phù hợp để họ được bồi dưỡng, phát triển và cống hiến, vì lợi ích của chính bản thân họ và của cách mạng. Vì vậy, khẳng định sự ra đời, tồn tại, phát triển và vai trò to lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với cách mạng nước ta là tất yếu khách quan mà không thế lực nào có thể phủ nhận và bác bỏ./.

Chính sách quốc phòng của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp

 


Lũng Cú

 

Cố tình xuyên tạc, bịa đặt chủ trương, chính sách về quốc phòng của Việt Nam, một số kẻ xấu vẫn đang tìm mọi cách hướng lái dư luận, cổ xúy Việt Nam “chọn phe”, “liên thủ” hoặc “liên minh” quân sự với nước khác để “gia tăng sức mạnh bảo toàn chủ quyền lãnh thổ”… và kêu gọi bỏ chính sách “bốn không”. Mục đích của chúng nhằm phá vỡ nguyên tắc nền quốc phòng tự chủ của một quốc gia độc lập, dẫn đến sự lệ thuộc vào các lực lượng quân sự khác, gây nên những hệ lụy to lớn ảnh hưởng tới sức mạnh, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Thực tế cho thấy, chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay là sự nhất quán về đường lối, chủ trương và luật pháp về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc của Đảng và Nhà nước Việt Nam; là tư tưởng quốc phòng đúng đắn, được lựa chọn và xác lập phù hợp với bối cảnh quốc tế, thực tiễn đất nước. Nhờ đó, Việt Nam không chỉ bảo vệ được toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn phá vỡ thế bao vây, cấm vận, mở đường hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới. Việc đưa ra chính sách quốc phòng “bốn không” góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ trong thời bình, nỗ lực không để xảy ra xung đột, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, kiến tạo môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước.

Thực tiễn lịch sử chiến tranh và quân đội trên thế giới đã chứng minh, các khối liên minh quân sự đã và đang gây ra những căng thẳng, châm ngòi cho các cuộc chiến tranh, xung đột, tranh chấp, chủ nghĩa khủng bố kéo dài dai dẳng; các nước trong khối này luôn bị lôi kéo hoặc cuốn vào những cuộc xung đột, buộc phải chi phí, tiêu hao nguồn lực quốc gia cho quốc phòng, an ninh để tăng cường phòng bị và tham gia nhiều hoạt động quân sự của liên minh; hoặc liên tục bị xung đột, chiến tranh, chủ nghĩa khủng bố tàn phá… khiến cho đất nước không thể phát triển. Ví dụ như các cuộc chiến tranh và xung đột khắp Nam Âu đến Nam Á, Trung Đông và Bắc Phi mấy thập niên qua, điển hình như nội chiến ở Xy-ri, xung đột ở U-crai-na đã chứng minh rõ điều này.

Từ đó cho thấy, Việt Nam có đủ khả năng để thực hiện đường lối độc lập, tự chủ trong bảo vệ Tổ quốc, giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, mà không cần thực hiện liên minh quân sự. Đó chính là sức mạnh tổng hợp quốc gia, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước; sức mạnh của thực lực quân sự, quốc phòng Việt Nam đã không ngừng được xây dựng, lớn mạnh cả về lực lượng, tiềm lực, thế trận, khoa học – công nghệ, nghệ thuật chỉ huy, tác chiến, sự tập trung thống nhất về lãnh đạo và quản lý quốc phòng – an ninh quốc gia, vùng, miền chiến lược, địa phương và cơ sở; các lực lượng vũ trang, nhất là quân đội được xây dựng để tiến tới cách mạng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại… luôn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao bảo vệ Tổ quốc.

Cũng phải nói thêm rằng, mặc dù nhất quán thực hiện chính sách “bốn không”; song, tùy theo tình hình cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế.

Từ những vấn đề trên cho thấy, chính sách quốc phòng của Việt Nam về không thực hiện liên minh quân sự trong tình hình hiện nay không chỉ là đúng đắn mà còn là linh hoạt, mềm dẻo, hợp lý, hợp thời, nhằm phát huy sức mạnh của mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Cho nên, mọi luận điệu xuyên tạc về chính sách quốc phòng của Việt Nam thời gian qua là hoàn toàn sai trái, bịa đặt, cần lên án đấu tranh, bác bỏ kịp thời.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

SỰ NHẤT QUÁN VỀ TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA

 


Duy Vũ

Những năm qua, nhận thức của cán bộ và nhân dân ta về vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được nâng lên đáng kể, song, trong thực tế vẫn còn có bộ phận nhân dân nhận thức chưa rõ, chưa đầy đủ, thậm chí còn mơ hồ. Chính từ những hạn chế, yếu kém này mà các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng để ngụy biện, xuyên tạc, chống phá đường lối, chủ trương của Đảng ta nói chung và thể chế kinhh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nói riêng. 

Nhận thức sai lệch cho rằng việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sách lược trong một giai đoạn nhất định.

Thực tế có những nhận thức sai lệch cho rằng thể chế kinh tế thị trường về cơ bản và lâu dài không dung hợp với chủ nghĩa xã hội, cho nên việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã chủ nghĩa chỉ là sách lược ngắn hạn, chứ không phải là chiến lược ổn định, lâu dài.

Nhận thức sai lệch trên dẫn đến việc một số người cho rằng: thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay sẽ sớm bị loại bỏ để thay thế bằng một thể chế kinh tế khác, mà ở đó, kinh tế tư nhân sẽ bị xóa bỏ. Đó là nhận thức không đúng, từ đó một số thế lực thù địch lơi dụng nhằm chống phá ta. Chúng ngụy biện rằng nước ta thu hút đầu tư tư nhân trong và ngoài nước để rồi sau này sẽ tiến hành “quốc hữu hóa”, tịch thu, “rải thóc bẫy chim sẻ”, “vỗ béo để làm thịt”, làm cho một số người dân trong nước và nhà đầu tư nước ngoài lo lắng, không dám mạnh dạn đầu tư tài sản, công sức của mình vào tham gia phát triển nền kinh tế đất nước.

Đảng và Nhà nước ta chủ trương nhất quán thực hiện lâu dài thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không “quốc hữu hóa” kinh tế tư bản, tư nhân như các thế lực thù địch xuyên tạc, bịa đặt.

Thực tế trên đặt ra vấn đề phải tăng cường tuyên truyền sâu rộng hơn nữa trong cán bộ, nhân dân ta và với cộng đồng quốc tế rằng việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm đến mục tiêu xây dựng mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cùng với đó, phải chỉ rõ những nhận thức mơ hồ, lệch lạc để khắc phục và kiên quyết vạch trần, đấu tranh với các quan điểm xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, bất mãn trong vấn đề này.

Nhìn nhận, suy diễn theo kiểu cơ học về vai trò của thị trường và Nhà nước trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trong những năm qua, đã xuất hiện không ít những nhìn nhận, đánh giá phiến diện, một chiều về mối quan hệ giữa vai trò của thị trường và vai trò của Nhà nước trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là theo nguyên tắc “bập bênh”, nghĩa là bên này tăng lên thì bên kia giảm xuống và ngược lại. Không thấy được việc sử dụng đồng bộ vai trò của Nhà nước và vai trò của thị trường theo nguyên tắc bổ sung cho nhau, kết hợp mặt mạnh của Nhà nước và mặt mạnh của thị trường, đồng thời hạn chế mặt yếu của Nhà nước và mặt yếu của thị trường trong những điều kiện cụ thể.

Trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ các nguồn lực của xã hội, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sức sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường.

Về vấn đề trên, thực tế không những ở nước ta, mà trên thế giới, cũng có nhiều nhà kinh tế, học giả thường xuyên tranh luận với một đề tài có vài thế kỷ nay, rằng nên thực hiện vai trò của nhà nước và vai trò của thị trường trong thể chế kinh tế thị trường như thế nào. Với các quan điểm nhìn nhận phiến diện rằng nên “thị trường nhiều hơn, nhà nước ít hơn”, hay ngược lại “nhà nước nhiều hơn, thị trường ít hơn”…

Ngộ nhận về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ chủ yếu nằm ở chính sách xã hội và chính sách phân phối

          Thực tế, một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng vẫn còn hiểu chưa đầy đủ rằng trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chủ yếu nằm ở chính sách xã hội và chính sách phân phối, vì vậy đối với quá trình sản xuất kinh doanh, Nhà nước cần giảm tối đa sự can thiệp, để cơ chế thị trường phát huy tối đa vai trò tự động điều tiết nền kinh tế; Nhà nước chỉ cần tập trung vào hoàn thiện các chính sách xã hội và chính sách phân phối.

Chúng ta cần chỉ rõ rằng, tính định hướng xã hội chủ nghĩa không phải chỉ thể hiện ở phương diện chính sách xã hội, lại càng không phải chỉ là sự bao cấp xã hội, mà tính định hướng xã hội chủ nghĩa phải được thể hiện đồng bộ ở ba phương diện: xây dựng cơ chế phát triển để giải phóng triệt để sức sản xuất của tất cả các thành phần kinh tế; hướng tới mục tiêu từng bước nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, dân giàu, nước mạnh; thực hiện tốt các mục tiêu về phát triển con người, các chính sách xã hội, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là quan điểm nhất quán của Đảng ta; đồng thời là nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó cần đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa./.