Thứ Tư, 24 tháng 1, 2018

Thấy gì trong Thư ngỏ của Nguyễn Đình Thục


Được sự hà hơi, tiếp sức của các “quan thầy” nước ngoài móc nối với các phần tử phản động trong nước, Nguyễn Đình Thục gắn cho mình cái mác Linh mục trong những năm vừa qua đã hô hào, xuyên tạc, vu khống trắng trợn, sai sự thật tình hình thực tiễn; lôi kéo, đẩy những người giáo dân vô tội đến việc phạm pháp. Thế mà, ngày 01/01/2018, linh mục Nguyễn Đình Thục chính thức phát hành thư ngỏ dài 3 trang giấy khổ A4 được đánh máy cẩn thận  trong đó nêu lên chuỗi những hoạt động do linh mục trực tiếp chỉ đạo gây ra và cả những hành động gián tiếp kích động giáo dân, một số giáo dân cực đoan chống lại Nhà nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam. 
Toàn văn bức thư ngỏ do linh mục Nguyễn Đình Thục soạn thảo và công bố công khai kêu gọi sự giúp đỡ của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đã giành được trong suốt hơn 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bức thư ngỏ là bản cáo trạng tố cáo hành vi, tội ác của linh mục này đã làm cho giáo dân điêu đứng vì linh mục không những không tập trung động viên, khuyến khích, hướng dẫn bà con giáo dân phát triển kinh tế, xã hội, giáo dục, văn hóa nhất là văn hóa tôn giáo của mình mà còn xuyên tạc, lôi kéo bà con tham gia các cuộc tuần hành, chống đối chính quyền dẫn đến vi phạm pháp luật. Thay vì hướng dẫn bà con làm tròn nghi thức tôn giáo, phát triển kinh tế, chăm lo giáo dục ... linh mục Nguyễn Đình Thục đã kích động giáo dân thông qua những buổi giao giảng thánh Lễ để xuyên tạc, vu khống sự thật, chống lại chính quyền, chống lại quy định của Nhà nước, chống Đảng, chế độ và nhân dân Việt Nam, đi ngược lại với truyền thống yêu nước, đoàn kết toàn dân tộc của dân tộc Việt Nam. Điều đặc biệt, linh mục cố gắng tạo cớ để giáo dân hằn thù, gây hấn với người dân không theo tôn giáo ở địa bàn nhằm phá vỡ mối đại đoàn kết dân tộc.
Ngược thời gian, trong suốt năm 2017, linh mục Nguyễn Đình Thục đã cấu kết, bắt tay với những linh mục cực đoan trên địa bàn và thuộc giáo phận Vinh như Đặng Hữu Nam, Nguyễn Thái Hợp... để tạo dựng lực lượng quyết liệt chống phá chính quyền. Một năm, linh mục Nguyễn Đình Thục thực hiện nhiều hoạt động móc nối, cấu kết và chứa chấp các phần tử chống phá chính quyền nhân dân, các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia. Điển hình như vụ linh mục Nguyễn Đình Thục móc nối, cấu kết với phần tử Emyly, một số đối tượng cực đoan ở Lâm Đồng ... nhằm tạo dựng cơ sở hoạt động chống phá. Bao che, chứa chấp các những tên tội phạm phản Quốc như Nguyễn Văn Oai, Nguyễn Viết Dũng, Lê Đình Lượng... Khi cơ quan chức năng tiến hành bắt giữ Nguyễn Đình Thục tỏ ra hằn học kêu gào giáo dân tấn công chính quyền gây rối trật tự nhiều ngày liên tục.
Linh mục Nguyễn Đình Thục quản xứ giáo xứ Song Ngọc thuộc giáo phận Vinh đã không làm tròn vai trò chủ chăn của mình, thực hiện âm mưu, ý đồ đen tối trong việc dẫn dắt giáo dân chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa, nhà nước và nhân dân Việt Nam. Hành vi của linh mục Nguyễn Đình Thục đã tạo ra làn sóng phản đối và căm phẫn cực độ của những người dân địa phương, thậm chí kể cả người theo tôn giáo. Để bảo vệ cuộc sống bình yên của mình, người dân Sơn Hải đã phải liên kết tổ chức thành đội Cờ đỏ nhằm kiềm chế hành vi tác oai, tác quái phá vỡ cuộc sống bình an do linh mục Nguyễn Đình Thục gây ra. Hy vọng trong năm 2018, nhiều đội Cờ đỏ sẽ được thành lập và tiến hành các biện pháp cần thiết để bảo đảm an ninh trật tự nơi cư trú của người dân và chính quyền, cơ quan chức năng sớm phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi bất chấp pháp luật, đạo lý và giáo lý của các linh mục, giáo dân cực đoan.



Một sự bịa đặt, xuyên tác trắng trợn về Nhân quyền tại Việt Nam


Can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của nước khác là vi phạm Công ước Liên hợp quốc về quyền tự quyết của dân tộc và quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ấy vậy mà, hàng năm, các “Nghị sĩ” ở một số Nghị viện các nước vẫn đẩy mạnh xuyên tạc, bóp méo sự thật về nhân quyền, tôn giáo, tự do ngôn luận ở một số nước, trong đó có Việt Nam.
Ngày 14 tháng 12 năm 2017, tại thành phố Strasbourg miền Đông Bắc nước Pháp Quốc hội Châu Âu đã thông qua Nghị quyết về Tự do Ngôn luận tại Việt Nam. Nội dung của Nghị quyết không có gì mới ngoài việc vu cáo Nhà nước Việt Nam vi phạm nhân quyền, bưng bít thông tin, ngăn cản không cho báo chí hoạt động, giam cầm những “người tích cực đấu tranh cho nhân quyền”. Sự thật có đúng như vậy không? Quốc hội Châu Âu có thực sự khách quan hay họ đã bị lừa bịp bởi những âm mưu, thủ đoạn của những kẻ cơ hội chính trị xuyên tạc sự thật về nhân quyền ở Việt Nam?
Mỗi khi cơ quan tư pháp Việt Nam xử lý những người vi phạm pháp luật, thì các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước đều lu loa của cái gọi là: “Tình trạng nhân quyền tại Việt Nam không được thực hiện mà ngày càng xấu hơn. Với con số công dân Việt Nam bị giam, và bị kết án vì biểu tình ý kiến của họ ngày càng tăng”. Đây là sự xuyên tạc, vu cáo trắng trợn tình hình dân chủ nhân quyền ở Việt Nam. Cũng như mọi nước khác trên thế giới, Nhà nước Việt Nam không chấp nhận việc lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để có các hành động vi phạm pháp luật. Ở Việt Nam, không có đàn áp chính trị, không có ai bị bắt vì lý do bất đồng chính kiến và tự do tín ngưỡng mà chỉ có những người vi phạm pháp luật thì mới bị xử lý theo đúng các quy định pháp luật.
Thực tiễn đã chứng minh, dân tộc Việt Nam từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa thời đại: từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có vị thế uy tín ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; từ một nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, nay đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc biệt, đời sống của nhân dân đã từng bước được cải thiện và nâng cao; cùng với đó, hệ thống pháp luật ở Việt Nam luôn được điều chỉnh và hoàn thiện đáp ứng yêu cầu thực tiễn cũng như bảo đảm sự tương thích với pháp luật quốc tế.
Trong hợp tác quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền, đến nay nước ta đã tham gia hầu hết các công ước của Liên hợp quốc về quyền con người như: Công ước về Quyền Dân sự, Chính trị; Công ước về quyền Kinh tế, Văn hóa, Xã hội; Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc; Công ước về Quyền Trẻ em; Công ước về không áp dụng những hạn chế luật pháp đối với tội phạm chiến tranh và tội chống nhân loại…
Những đóng góp tích cực và hiệu quả của nước ta vào mục tiêu chung là thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, giữ vững các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế về nhân quyền, là sự minh chứng Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng, bảo đảm các quyền cơ bản của người dân không chỉ thể hiện ở việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, liên quan đến quyền con người mà được thực hiện trên tất cả các mặt như: Tự do ngôn luận, báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo; bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Đồng thời, cũng khẳng định cho sự nỗ lực, cố gắng quyết tâm chính trị cao của Đảng, Nhà nước ta trong thực hiện các chính sách phát triển kinh tế – xã hội, đem lại những điều tốt nhất cho nhân dân lao động. Những thành tựu về nhân quyền mà nước ta đã đạt được là rất to lớn. Sở dĩ có thể nói như vậy là bởi, nhân quyền, với ý nghĩa sâu xa, cuối cùng chính là việc con người được xã hội quan tâm, tạo điều kiện để có thể phát triển toàn diện có đời sống vật chất tinh thần ngày càng cao.
Việc Nghị viện châu Âu cho rằng: Việt Nam đã bỏ tù, tổ chức những phiên tòa không công bằng và ra những bản án nặng nề đối với một số phần tử phản động, thù địch được gắn cái mác “nhà báo”, “người hoạt động chính trị” và coi việc làm này là vi phạm nhân quyền, mà cụ thể là quyền tự do ngôn luận của người dân là phiến diện, không khách quan, vu cáo, xuyên tạc, bóp méo tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Việc xét xử và bắt giữ những người vi phạm pháp luật là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam. Quá trình xét xử cũng được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục của pháp luật Việt Nam, vì thế những nhận định cho rằng việc xét xử không công bằng là thiếu khách quan và không có căn cứ. Hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia phản ánh đặc điểm văn hóa, lịch sử, địa lý của từng quốc gia. Vì thế, nó được coi là chuẩn mực cho hành vi của mọi công dân của quốc gia đó.

Đây là nguyên tắc được công nhận và thực thi không chỉ ở Việt Nam mà tại bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Thời gian tới, Đảng và Nhà nước ta tiếp phát triển hơn nữa việc bảo vệ, thúc đẩy thực thi quyền con người, vừa tăng cường đối thoại và hợp tác quốc tế về nhân quyền, cung cấp thông tin rộng rãi về những việc chúng ta đã làm được để dư luận trong nước và thế giới hiểu rõ, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu chung của thế giới là bảo vệ, thúc đẩy quyền con người ngày càng tốt hơn, góp phần giữ vững môi trường hòa bình và an ninh quốc tế và độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Đập tan luận điệu sai trái của thế lực thù địch hòng phủ nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam



Kinh tế thị trường là sản phẩm của sự phát triển xã hội loài người, là trình độ phát triển cao của nền kinh tế hàng hóa, trong đó toàn bộ các yếu tố "đầu vào" và "đầu ra" của sản xuất đều được thông qua thị trường. Sự hiện diện của kinh tế thị trường tại các quốc gia cho thấy nó đã thể hiện có sức sống mãnh liệt và là bước phát triển mang tính quy luật trong lịch sử nhân loại. Từ những mầm mống phát sinh trong nền kinh tế phong kiến, trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa,… đã biến mọi yếu tố của sản xuất (tư liệu sản xuất, sức lao động,…) thành hàng hóa. Kinh tế thị trường luôn tồn tại và phát triển ngay cả khi một quốc gia nào đó không thừa nhận nó. Những động lực phát triển mang tính nội sinh đã giúp cho kinh tế thị trường trở thành tất yếu.
Đối với Việt Nam, xây dựng và phát triển đất nước theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được Đảng, Nhà nước, nhân dân ta lựa chọn và kiên định thực hiện trong nhiều năm qua. Tuy vậy, đã có người tỏ ra hoài nghi về tính đúng đắn của nó; hơn thế, họ còn đưa ra những luận điểm trái ngược, dưới những "chiêu thức" khác nhau, hòng phủ nhận mô hình này. Vì thế, tiếp tục khẳng định, làm rõ hơn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phản bác những quan điểm sai trái, thù địch là việc làm cần thiết hiện nay.
Khi lựa chọn mô hình phát triển đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ: "Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"1. Đảng ta còn khẳng định: đây là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội"2.
Nhưng có quan điểm ngược lại lập luận rằng: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự gán ghép cơ học 2 mảnh: kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa hay định hướng xã hội chủ nghĩa là ''tấm áo khoác ngoài" của kinh tế thị trường; rằng kinh tế thị trường không đi cùng với chủ nghĩa xã hội, các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học do C. Mác và Ph. Ăng-ghen sáng lập không "dung nạp" kinh tế thị trường. Hơn nữa, một nền kinh tế chịu sự tác động cùng một lúc 2 loại quy luật trái chiều nhau thì khó có thể tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, thậm chí còn tạo ra lực cản cho sự phát triển, v.v. và v.v. Chúng ta cần thấy rõ rằng, đó là sự ngụy biện trơ trẽn, hòng tạo dư luận hoài nghi, tiến tới phủ nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng ta biết, nhận thức và lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự nắm bắt và vận dụng xu thế khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường trên thế giới, Đảng ta đã đưa ra chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là sự thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trên thực tế, sự phát triển kinh tế thị trường là sản phẩm của lịch sử phát triển xã hội loài người, thành tựu của nền văn minh nhân loại và là giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới sự phát triển cao hơn. Phải thấy rằng, với sự lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã thực sự đánh dấu chấm hết đối với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Ngày nay, thể chế kinh tế thị trườnghầu như đã phủ kín bản đồ kinh tế thế giới và sự phân biệt về trình độ phát triển chỉ còn ở mức độ đậm nhạt khác nhau mà thôi. Trong bối cảnh ấy, hoàn toàn thấy, lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu và đó cũng là sự khẳng định đoạn tuyệt với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu.
Đồng thời, cũng cần thấy rằng, kinh tế thị trường không chỉ là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, là "công nghệ", "phương tiện" để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội. Nó gồm cả các yếu tố lực lượng sản xuất và một hệ thống quan hệ sản xuất, v.v. Do đó, không có và không thể có một nền kinh tế thị trường chung chung, trừu tượng, thuần túy tách rời hình thái kinh tế - xã hội, tách khỏi chế độ chính trị - xã hội của một nước. Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường trên thế giới đã cho chúng ta thấy sự đa dạng về mô hình kinh tế thị trường. Xét về đặc tính xã hội, thì có các mô hình kinh tế thị trường tiêu biểu, như: mô hình "kinh tế thị trường xã hội" ở Cộng hòa Liên bang Đức; "kinh tế thị trường hiệp đồng hay phối hợp" của Nhật Bản; "kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi" ở một số nước Bắc Âu; "kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa" ở Trung Quốc, v.v. Những mô hình kinh tế thị trường này vận hành theo các quy luật của nền kinh tế thị trường; song, trong quá trình phát triển đều hướng tới các mục tiêu xã hội và phát triển con người, v.v.
Như vậy có thể thấy rõ, kinh tế thị trường có khả năng thích ứng với các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, không phân biệt chế độ chính trị và trình độ phát triển của nền kinh tế. Những nước có nền kinh tế lạc hậu, với điểm xuất phát thấp như Việt Nam có thể phát triển kinh tế thị trường, sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội - "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Trong đó, cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ, đồng bộ; Nhà nước tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật của kinh tế thị trường. Theo đó, chúng ta nhận thức rõ được rằng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là 2 mảnh: "kinh tế thị trường" với "định hướng xã hội chủ nghĩa" ghép lại làm một và "định hướng xã hội chủ nghĩa" không phải là "tấm áo khoác ngoài" của kinh tế thị trường, mà nằm trong mục tiêu và nội dung hoạt động của kinh tế thị trường.
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do Việt Nam khởi xướng là mô hình kinh tế thị trường kiểu mới, nhằm khắc phục những hạn chế và tiêu cực của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nhưng kế thừa và phát huy được các yếu tố tích cực và hợp lý của nó. Tuy nhiên, đây là mô hình kinh tế thị trường mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường trên thế giới. Vì thế, không tránh khỏi những vướng mắc, bất cập cả trong nhận thức lý luận, cơ chế chính sách và hành động thực tiễn. Chẳng hạn như: Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa đủ rõ, nhất là về kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể, về cơ chế phân bổ nguồn lực, sở hữu đất đai, cơ chế giá một số hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu3; Nhận thức và luận giải về định hướng chủ nghĩa xã hội chưa đủ sức thuyết phục; Thực tế trong quá trình đổi mới vừa qua, chúng ta đã có lúc quá nhấn mạnh định hướng xã hội chủ nghĩa, coi nhẹ quy luật, bản chất của kinh tế thị trường và ngược lại. Chính điều này dẫn đến tình trạng: thể chế kinh tế thị trường ở nước ta chậm được hoàn thiện, "thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn hạn chế"; những quy định về gia nhập thị trường và rút lui khỏi thị trường của doanh nghiệp và quyền tự do kinh doanh,… chưa được tôn trọng đầy đủ; môi trường đầu tư, kinh doanh không thật sự đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường, trình độ phát triển các loại thị trường thấp, vận hành chưa đồng bộ, thông suốt, v.v. Nhà nước còn can thiệp trực tiếp, quá lớn vào nền kinh tế, vẫn còn tình trạng bao cấp, xin - cho trong xây dựng và thực thi một số cơ chế chính sách. Và "những yếu tố đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường chưa được chú ý đúng mức"4.
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện nhận thức mới về kinh tế thị trường định h­ướng xã hội chủ nghĩa. Đó là "nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"5.
Sự tiệm cận với nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa phải bao hàm các tiêu chuẩn, nội dung của kinh tế thị trường hiện đại, vừa phải đảm bảo các yếu tố đặc thù, riêng có - yếu tố Việt Nam - định hướng xã hội chủ nghĩa. Các yếu tố định hướng xã hội chủ nghĩa mang tính "nội sinh" trong quá trình phát triển kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, thể hiện ở những điểm chủ yếu sau: (1) Nền kinh tế thị trường định hư­ớng xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; (2) Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội; (3) Bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; thực hiện sự thống nhất giữa phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển; (4) Có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; (5) Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế thị trường vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện tiên quyết để thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.
Từ đây, có thể nói rằng, nội dung quan trọng nhất trong định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta là phát triển bền vững. Rõ ràng là trong đường lối phát triển của Việt Nam, khái niệm định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi mang "nội hàm" phát triển bền vững vì sự tiến bộ xã hội, sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân. Như vậy, kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là không mâu thuẫn nhau, mà thống nhất với nhau.
Hơn 30 năm qua, kể từ khi Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới và thực thi mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế - xã hội Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng kể, làm thay đổi rõ tình hình đất nước. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã trở thành nhân tố cơ bản đưa "Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế"6. Kinh tế tăng trưởng khá, với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hơn 7%/năm. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các lĩnh vực kinh tế đối ngoại: xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI và ODA), xuất khẩu lao động, du lịch,… được chú trọng phát triển và có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP. Văn hóa - xã hội có bước phát triển, bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân có nhiều thay đổi. Nổi bật là Việt Nam - một trong những quốc gia triển khai hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế gắn với xóa đói giảm nghèo - đã hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs). "Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên,… Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao"7.
Bên cạnh việc khẳng định những thành tựu đạt được, chúng ta không phủ nhận những hạn chế, khuyết điểm: "Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô có lúc thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới"8.
Từ một số cơ sở lý luận, thực tiễn được luận giả trên, khẳng định việc lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn khách quan, hợp quy luật, phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam. Những luận giả đó giúp chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, kiên định mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, cũng là cơ sở để chúng ta đấu tranh, bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch hòng phủ nhận mô hình kinh tế này.
--------------------
Tài liệu tham khảo:
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 86.
2 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 34.
3 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 101.
4 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 166.
5 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 102.
6, 7, 8 - Sđd, tr. 65-66, 66, 67.




Cảnh giác với luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch về vai trò lãnh đạo của Đảng Công sản Việt Nam


Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động đang ra sức công kích, chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Theo chúng, với Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013, thì quyền lực thực sự của đất nước không nằm nơi Quốc hội mà là của Đảng; và cho rằng, chế độ Đảng cử, Quốc hội bầu các chức vụ chủ chốt của quốc gia như vậy còn gì là dân chủ. Chúng đã trắng trợn xuyên tạc bản chất và công kích mô hình, tổ chức của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước; mưu toan phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội; thổi phồng hiện tượng một số cán bộ, đảng viên tham nhũng, thoái hóa, biến chất; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Cần khẳng định rằng, ở nước ta, Hiến pháp là sự kết tinh trí tuệ của toàn dân, toàn Đảng; là đạo luật gốc của quốc gia và mọi tổ chức, công dân Việt Nam phải chấp hành. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã hiến định vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng quy định rõ “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Thực tiễn Cách mạng Việt Nam đã chứng minh, từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam được tôi luyện, trưởng thành gắn liền với lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc. Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, Đảng giữ vai trò lãnh đạo các tầng lớp nhân dân hoàn thành mục tiêu đó của cách mạng Việt Nam. Khi giành được chính quyền, Đảng được trao sứ mệnh trở thành đảng cầm quyền, thực hiện quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên chứ không áp đặt, làm thay Nhà nước, Quốc hội. Quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước là do Quốc hội quyết định. Thông qua thực hiện chức năng của Quốc hội, quyền làm chủ của người dân luôn được đảm bảo và phát huy theo nguyên tắc quyền lực Nhà nước phải thuộc về nhân dân; những biểu hiện vi phạm quyền làm chủ của người dân đều được phát hiện và xử lý nghiêm.
Từ khi trở thành Đảng cầm quyền đến nay, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm, lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng, coi “tham nhũng” là một trong bốn nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Do đó, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được tiến hành thường xuyên, liên tục trong nhiều nhiệm kỳ, nhiều cuộc vận động bằng nhiều nội dung, biện pháp đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đặc biệt, trong những năm gần đây, với sự vào cuộc quyết liệt của các tổ chức đảng từ Trung ương đến địa phương, công tác phòng, chống tham nhũng đã đạt được những kết quả quan trọng: Bước đầu kiềm chế, ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí. Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp đã được phát hiện và tập trung chỉ đạo điều tra, xét xử nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật, được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh đồng tình ủng hộ. Xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng đồng thời là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài. Song, kết quả công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng thời gian gần đây đã góp phần thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Tuy nhiên, công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta vẫn còn có những hạn chế nhất định. Việc công khai, thẳng thắn thừa nhận về những khuyết điểm trong lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng thể hiện quyết tâm và trách nhiệm chính trị của Đảng cũng như hệ thống chính trị ở Việt Nam đối với vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Các thế lực thù địch, phản động đã suy diễn theo kiểu “mượn gió bẻ măng” để quy kết rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã “thực sự …mục nát rồi”. Với tâm địa xấu xa,các thế lực thù địch, phản động thông qua luận điệu xuyên tạc của mình hòng làm cho những ai nhẹ dạ cả tin phân tâm tư tưởng, hoài nghi, dao động, giảm sút niềm tin đối với Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi người hãy cảnh giác và đấu tranh kiên quyết với những luận điệu xuyên tạc sai trái trên./.

VẠCH TRẦN ÂM MƯU LỢI DỤNG VẤN ĐỀ THAM NHŨNG ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG NƯỚC TA


Tham nhũng là vấn đề không của riêng đất nước, quốc gia nào. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, các đối tượng xấu, thế lực thù địch núp danh nghĩa “dân chủ, nhân quyền” lợi dụng triệt để vấn đề tham nhũng ở nước ta để xuyên tạc, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Từ đó, tạo sự hồ nghi trong nhân dân về sự lãnh đạo của Đảng. Hơn lúc nào hết, việc nhận thức rõ những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch là vấn đề cấp bách.
Hiện nay, trên mạng Internet, các trang mạng xã hội, các đối tượng, phần tử xấu có tư tưởng thù địch thường xuyên rêu rao những nội dung đại loại như: “đang có cuộc thanh trừng, đấu đá nội bộ trong Đảng”, “cuộc chiến chống tham nhũng là cuộc đấu đá phe cánh”, rồi “tăng cường phòng, chống tham nhũng chỉ là chiêu trò mị dân”, “chống tham nhũng chỉ là hô khẩu hiệu”...Thông qua những bài viết cực đoan, suy diễn không đúng bản chất về vấn đề tham nhũng ở nước ta, số phần tử xấu này rắp tâm dựng lên một bức tranh toàn gam màu tối. Thông qua đó, phủ nhận những nỗ lực, sự quyết liệt trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng mà các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta đã và đang chỉ đạo.
Các đối tượng lợi dụng triệt để thông tin một vài vụ án tham nhũng có liên quan đến cán bộ, đảng viên đã bị đưa ra ánh sáng pháp luật nhằm suy diễn, xuyên tạc, bóp méo quan điểm rồi cho rằng tham nhũng là bản chất, là hệ quả của chế độ xã hội chủ nghĩa, của cơ chế lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Âm mưu thâm hiểm của chúng là xúi giục, kích động nhân dân ta đứng lên đòi thay đổi cương lĩnh, thể chế chính trị, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, chuyển xã hội ta sang một xã hội “đa nguyên, đa đảng”.
Ở nước ta, ngay từ thời điểm Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập (2-9-1945), Nhà nước và Chính phủ đã nhận ra quy luật tất yếu của sự hình thành tệ tham nhũng trong xã hội. Hàng loạt dấu hiệu, biểu hiện về tham ô, hối lộ, lạm dụng chức vụ quyền hạn… đã được chỉ ra. Thực tiễn cho thấy, thời gian qua, đã có nhiều vụ án về tham nhũng nghiêm trọng bị cơ quan chức năng điều tra, xử lý. Qua đó cho thấy, công tác phòng, chống tham nhũng trong những năm qua luôn được Đảng, Nhà nước, Chính phủ ta coi trọng và đã cho những kết quả khả quan; góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội, củng cố thêm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với sự nghiệp lãnh đạo của Đảng. Qua thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã đúc kết và “vạch mặt” những biểu hiện cũng như đề ra các biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng. Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XII) cũng đã khẳng định: “Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn câu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực” là một trong 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Như vậy, có thể thấy rằng, Đảng và Nhà nước ta không phủ nhận tệ tham nhũng đã và đang tồn tại gây ra nhiều hậu quả cho xã hội. Và để ngăn chặn tệ tham nhũng, Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã, đang và sẽ tiếp tục triển khai nhiều biện pháp quyết liệt đấu tranh, đẩy lùi tệ tham nhũng, củng cố niềm tin ở nhân dân, không để các thế lực thù địch lợi dụng nhằm thực hiện âm mưu, chiến lược “Diễn biến hòa bình”./.




NHẬN DIỆN MƯU ĐỒ ĐÒI PHI CHÍNH TRỊ HÓA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) nêu rõ một trong 9 biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” là: “Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi “phi chính trị hóa” Quân đội và Công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ Quân đội với Công an; chia rẽ nhân dân với Quân đội và Công an”. Đây là âm mưu nguy hiểm mà các thế lực thù địch đang tìm cách tuyên truyền, cổ súy, tác động vào tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Một số biểu hiện cụ thể về âm mưu, thủ đoạn đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang sau đây:
- Xác định phi chính trị hóa lực lượng vũ trang cùng với phá vỡ nền tảng chính trị và chống phá về kinh tế là 3 lĩnh vực cơ bản để hướng lái, chuyển hóa cách mạng Việt Nam.
- Tập trung phá hoại nền tảng tư tưởng cách mạng của lực lượng vũ trang bằng những luận cứ tưởng chừng như rất khách quan, khoa học.
- Tập trung cổ súy cho luận điệu “lực lượng vũ trang phi giai cấp”; “Quân đội chuyên nghiệp, Quân đội nhà nghề”.
- Tấn công gây tâm lý hoang mang, dao động, mất phương hướng trong đội ngũ cán bộ, chiến sỹ của lực lượng vũ trang.
- Tập trung phá hoại các nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng Quân đội, Công an, xóa bỏ công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội và Công an Việt Nam.
- Bôi nhọ và xuyên tạc lịch sử, truyền bá lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền và các giá trị dân chủ phương Tây.
Để thực hiện những mưu đồ phi chính trị hóa lực lượng vũ trang, các thế lực thù địch đang tập trung vào các hướng tấn công sau đây:
Thứ nhất, lợi dụng xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế để đẩy mạnh tuyên truyền các luận điệu đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang. Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sẽ mang lại những thời cơ lớn để phát triển đất nước, nhưng chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch lợi dụng quá trình này để xâm nhập vào nội địa, nội bộ ta tiến hành các hoạt động phá hoại, tạo dựng các “nhân tố” trong nội bộ, đặc biệt là nội bộ lực lượng vũ trang nhằm tác động “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, hình thành ngọn cờ thực hiện âm mưu phi chính trị hóa Quân đội, Công an. Thông qua hoạt động ký kết các thỏa thuận hợp tác song phương, đa phương, các gói viện trợ, các định chế quốc tế, các tổ chức phi chính phủ để tác động, hướng lái chính sách, pháp luật về an ninh, quốc phòng; đòi chúng ta phải thay đổi mô hình tổ chức của lực lượng Công an, Quân đội theo “tiêu chí quốc tế”, thực chất là phục vụ cho mục tiêu phi chính trị hóa Công an, Quân đội.
Thứ hai, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ để thực hiện âm mưu phi chính trị hóa lực lượng Công an, Quân đội. Chúng coi đây là một phương thức chủ yếu để phục vụ cho âm mưu chống phá cách mạng của Việt Nam, tuyên truyền và thực hiện cái gọi là phi chính trị hóa lực lượng vũ trang. Đặc biệt chúng sử dụng Internet, mạng xã hội, blog cá nhân, các phương tiện thông tin đại chúng để thường xuyên chuyển tải các quan điểm, cổ súy cho phi chính trị hóa lực lượng vũ trang. Thông qua mạng Internet, mạng xã hội, blog cá nhân, các đối tượng chống đối ở nước ngoài đã tìm kiếm, móc nối, liên kết được với các đối tượng chống đối, cơ hội chính trị, các nhà “hoạt động dân chủ”, số nhân sĩ trí thức có biểu hiện bất đồng chính kiến để tuyên truyền, hình thành phong trào dân chủ nhằm gây sức ép buộc Đảng phải thực hiện phi chính trị hóa Công an, Quân đội.

Thứ ba, đẩy mạnh sự liên kết ngày càng chặt chẽ, mức độ ngày càng sâu sắc và phạm vi ngày càng rộng giữa các đối tượng bên ngoài và bên trong. Đặc biệt xuất hiện ngày càng nhiều cái gọi là “Tuyên ngôn”, “Tuyên bố”, “Kiến nghị”, “Thư ngỏ” gửi các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng để kêu gọi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang. Tác giả của các văn bản trên nhiều người là những nhân sĩ, trí thức nổi tiếng, thậm chí có quá trình cống hiến nhất định cho cách mạng và có uy tín trong một bộ phận nhân dân.

Cảnh giác trước các luận điệu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam của các thế lực thù địch hiện nay


Phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay là một trong những nội dung chính của hoạt động “diễn biến hòa bình”, của hoạt động tuyên truyền phá hoại của các thế lực thù địch những năm qua. Các thế lực thù địch tung ra nhiều luận điệu tuyên truyền nhằm kích động quần chúng loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, như phê phán Đảng ta không chịu đổi mới về chính trị, “không chịu thực hiện đa nguyên chính trị, giữ độc quyền lãnh đạo, hạn chế dân chủ. Chúng cho rằng: “Độc tài, đảng trị là cái gốc sai chính quả chính quyền Việt Nam hiện đại” và Đảng chỉ nên giữ vai trò lãnh đạo chính trị, và không nên và không thể lãnh đạo toàn diện tuyệt đối”. Chúng thống kê, tổng hợp lại toàn bộ những sai lầm, thiếu sót về cả đường lối lẫn chỉ đạo thực tiễn của Đảng ta trong quá khứ, đặc biệt là ở lĩnh vực kinh tế và quản lý xã hội để chứng minh cho sự chấm dứt vai trò lịch sử của Đảng, gạt Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi tiến trình phát triển của dân tộc. Chúng khai thác lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm trong chỉ đạo thực hiện đường lối, chính sách của những cán bộ, đảng viên tham nhũng, tha hóa, tạo nên sự phân hóa sâu sắc trong Đảng, làm suy yếu sức mạnh đoàn kết trong Đảng và giữa đảng với quần chúng nhân dân. Theo quan điểm của các thế lực thù địch, muốn chiến thắng đối phương phải phá vỡ sự gắn bó trong tổ chức Đảng Cộng sản và giữa đảng với nhân dân. Chúng khuyến khích cải tổ, cải cách, đổi mới triệt để, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để làm suy yếu, đi đến phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Gần đây, chúng tung ra một số luận điệu vu khống, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo cao cấp ở các thời kỳ nhằm đề cao người này, hạ thấp người kia để chia rẽ nội bộ, làm mất lòng tin của đảng viên, cán bộ nhân dân. Chúng phủ định đường lối, chính sách của Đảng ta, với luận điệu “kinh tế thị trường sẽ từng bước làm thay đổi bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa còn non trẻ, ốm yếu ở Việt Nam… sẽ tới một ngày Chính phủ Việt Nam chỉ còn là Cộng sản trên danh nghĩa…



Cảnh giác trước các luận điệu phủ nhận tư tưởng của V.I.Lênin về bảo vệ lợi ích quốc gia


Sau khi trở thành người lãnh đạo Đảng và Nhà nước Xôviết, một trong những nhiệm vụ cấp bách đầu tiên được V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích Nga đề ra là quyết tâm bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa - bảo vệ quốc gia Nga với tính cách là Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn  nước Nga Xôviết sau Cách mạng Tháng Mười gặp nhiều khó khăn, do chế độ cũ Nga hoàng trong nhiều năm đã thúc đẩy nước Nga vào cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đầy tốn kém, khiến cho nền kinh tế đất nước lâm vào tình  trạng tiêu điều, kiệt quệ. Bên cạnh đó, trước sự ra đời của Nhà nước Nga Xôviết, các thế lực phản cách mạng, những phần tử cơ hội ở trong nước cấu kết chặt chẽ với 14 nước đế quốc tìm cách xóa bỏ mọi thành quả cách mạng. Vì vậy để bảo vệ lợi ích của quốc gia, dân tộc theo V.I.Lênin, trước hết phải bảo vệ vững chắc nền độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ.
V.I.Lênin cho rằng, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của một quốc gia; là lợi ích sống còn, vấn đề nóng bỏng của mỗi quốc gia, dân tộc trong điều kiện cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra quyết liệt giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. V.I.Lênin chủ trương phải nhanh chóng thành lập một quân đội cách mạng để làm nòng cốt bảo vệ lợi ích sống còn của quốc gia, dân tộc và chỉ rõ: “Muốn bảo vệ chính quyền công nông… chúng ta phải có Hồng quân vững mạnh… Có Hồng quân mạnh, chúng ta sẽ vô địch”. Ngày 15/01/1918, Hội đồng dân ủy do V.I.Lênin đứng đầu đã thông qua sắc lệnh thành lập Hồng quân công nông - một quân đội chính quy kiểu mới đầu tiên của giai cấp vô sản thế giới. Sự ra đời của Hồng quân công nông có ý nghĩa hết sức quan trọng, là kết quả của quá trình tư duy lý luận và tư duy chính trị nghiêm túc, sáng tạo của V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích. Từ một lực lượng lúc mới thành lập khoảng 30 vạn người, đến cuối năm 1918, Hồng quân đã phát triển lên 1 triệu người với nhiều binh chủng như bộ binh, kỵ binh, pháo binh, bộ đội thiết giáp, công binh và không quân. Do có sự chủ động chuẩn bị về lực lượng, cho nên trong thời kỳ 1918 - 1920, Hồng quân nhân dân Liên Xô đã tiến hành cuộc chiến tranh chống thù trong giặc ngoài và giành những thắng lợi có ý nghĩa quan trọng, không những bảo vệ được thành quả cách mạng và chính quyền Xôviết non trẻ, mà còn tạo cho cách mạng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển.
Trong quan điểm bảo vệ lợi ích quốc gia, V.I.Lênin nhấn mạnh đến việc tất yếu phải bảo vệ độc lập về chính trị và kinh tế. Bởi vì, có độc lập về chính trị mới giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa – con đường phát triển hợp quy luật của nhân loại được C.Mác và Ph.Ăngghen vạch ra trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Độc lập về kinh tế là tiền đề để giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của quốc gia. Giữa độc lập về chính trị và độc lập về kinh tế tuy là hai nhân tố khác nhau, nhưng có mối quan hệ biện chứng, để làm tiền đề và điều kiện cho nhau trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia.
Từ đặc điểm của một quốc gia đa dân tộc, sắc tộc, V.I.Lênin cho rằng, việc bảo vệ lợi ích quốc gia không thể tách rời bảo vệ quyền bình đẳng, quyền từ quyết dân tộc. Đây là lợi ích thiết thân của mỗi quốc gia để bảo đảm cho mỗi quốc gia tồn tại với tư cách là một thành viên độc lập trong cộng đồng quốc tế. Vì vậy trong di sản lý luận đặc sắc của mình, Người đã công bố Cương lĩnh dân tộc với những quan điểm về quyền bình đẳng, quyền tự quyết dân tộc và đoàn kết giữa các dân tộc. V.I.Lênin khẳng định quan điểm: “Căn cứ vào lợi ích của sự nhất trí và liên minh anh em của công nhân và tất cả những người lao động, của quần chúng bị bóc lột trong cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội…Chính phủ xã hội chủ nghĩa của nước Nga, tức là Hội đồng bộ trưởng dân ủy, xác nhận một lần nữa rằng tất cả các dân tộc đã bị chế độ Nga hoàng và giai cấp tư sản Đại Nga áp bức, đều có quyền tự quyết”[1]. Đây là một quan điểm hết sức quan trọng của V.I.Lênin, qua đó khẳng định rõ các dân tộc dù lớn hay nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp, đều có quyền bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đặc biệt là quyền tự quyết dân tộc, thực chất là quyền tự quyết về chính trị, tự quyết định chiều hướng phát triển và vận mệnh của dân tộc mình, không một quốc gia, dân tộc nào được áp đặt quan điểm, vi phạm độc lập chủ quyền của nước khác. Theo quan điểm của V.I.Lênin, tất cả các dân tộc có quyền tự nguyện liên hiệp với nhau trên cơ sở bình đẳng dân tộc, nhằm đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột và giải phóng GCCN và phong trào công nhân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp của GCCN.
Tư tưởng bảo vệ lợi ích quốc gia của V.I.Lênin còn được biểu hiện ở quan điểm bảo vệ những giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Trong bức thư gửi N.I.Bukhain ngày 11/10/1920, V.I.Lênin nếu rõ: “nền văn hóa mới=chủ nghĩa cộng sản”. Thực tiễn nhân loại cho thấy những giá trị truyền thống, văn hóa của một dân tộc là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần do nhân dân sáng tạo ra trong quá trình tồn tại và phát triển của một quốc gia. Đó còn biểu hiện cốt cách của dân tộc, mang đậm dấu ấn và bản sắc riêng để phân biết với các dân tộc khác. Vì vậy, việc bảo vệ lợi ích quốc gia phải luôn gắn chặt với bảo vệ, bảo tồn và phát triển truyền thống, văn hóa và bản sắc văn hóa và bản sắc văn hóa của quốc gia đó trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Việc bảo vệ lợi ích quốc gia theo tư tưởng của V.I.Lênin còn phải chú trọng đến vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường của đất nước. Người cho rằng, đây là vấn đề hệ trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển trường tồn của quốc gia, dân tộc. Khi nói đến lợi ích quốc gia được bao hàm tất cả các yếu tố bảo đảm cho quốc gia đó được ổn định phát triển bền vững như: hòa bình độc lập, tự chủ và quyền lợi của cộng đồng người sinh sống. Cho nên, việc bảo vệ tài nguyên, môi trường của đất nước chính là điều kiện bảo đảm cho sự hài hòa, bền vững, lâu dài và tiến lên xây dựng một xã hội độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, văn minh; đồng thời trên cơ sở đó giải quyết một cách hài hòa lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia và lợi ích nhân loại.
Những tư tưởng của V.I.Lênin về bảo vệ lợi ích quốc gia có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc không chỉ đối với nước Nga Xôviết, với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam. Thấm nhuần vận dụng sáng tạo những tư tưởng, quan điểm của V.I.Lênin về bảo vệ lợi ích quốc gia vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945, lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, mở ra một định hướng phát triển mới cho dân tộc Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Quá trình cách mạng đó ở Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu và nôi dung của thời đại do Cách mạng Tháng Mười mở ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu không có Cách mạng Tháng Mười vĩ đại thì nhân dân Việt Nam không thể hoàn thành cuộc Cách mạng Tháng Tám của mình”. Ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười đối với cách mạng Việt Nam là vô cùng to lớn; là biểu hiện sinh động tư tưởng của V.I.Lênin về bảo vệ lợi ích quốc gia trên đất nước Việt Nam độc lập có chủ quyền và quyền tự quyết dân tộc.
Ngày nay, sự tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô các nước Đông Âu, chủ nghĩa xã hội trên thế giới đang trải quan một thời kỳ đầy khó khăn, thử thách. Chủ nghĩa chống cộng và chủ nghĩa cơ hội, xét lại hiện đại đang tìm mọi cách để phủ nhận những thành quả của Cách mạng Tháng Mười Nga và cơ sở tư tưởng của cách mạng đó là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời, các thế lực thù địch cũng tìm mọi cách xóa bỏ hệ tư tưởng Mác – Lênin, trong đó có tư tưởng, quan điểm của V.I.Lênin về bảo vệ lợi ích quốc gia.
Cách mạng phải luôn biết tự bảo vệ. Nguyên lý này của V.I.Lênin càng đặc biệt quan trọng trong những thời điểm bước ngoặt của lịch sử cách mạng. Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin vào công cuộc bảo vệ lợi ích quốc gia trong điều kiện mới đòi hỏi Đảng ta trước hết phải vững tay chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi đúng hướng, lấy kim chỉ nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng; lấy mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội làm định hướng xây dựng và phát triển đất nước.
Bảo vệ lợi ích quốc gia trong tình hình mới đòi hỏi Đảng ta phải biết tự bảo vệ về chính trị tư tưởng và tổ chức, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu "diễn biến hòa bình", thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch. Từ kinh nghiệm xương máu ở Liên Xô những năm 90 của thế kỷ XX cho thấy, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, bảo vệ lợi ích quốc gia, thì vấn đề căn bản, sâu xa nhất là Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Không gừng đổi mới là bản chất của chủ nghĩa xã hội, là quy luật tồn tại, phát triển đồng thời là nguyên lý “tự bảo vệ” của Đảng. Chính V.I.Lênin là tấm gương sáng về tinh thần đổi mới, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn và tư duy lý luận.
Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội thế giới khủng khoảng, lâm vào thoái trào, thì Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới thắng lợi. Với đường lối đúng đắn của Đảng, Việt Nam không chỉ giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà chế độ xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của Đảng cũng không ngừng được củng cố. Kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển; quốc phòng, an ninh được tăng cường; trật tự an toàn xã hội được giữ vững; lòng tin của mọi tầng lớp nhân dân ngày càng tăng lên… là cơ sở bảo đảm cho công cuộc đổi mới giành thắng lợi. Một trong những nguyên nhân thành công của sự nghiệp đổi mới trong hơn 30 năm qua là Đảng ta đã nhận thức đúng đắn bài học bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là Tổ quốc theo tư tưởng của V.I.Lênin; xác định rõ bảo vệ lợi ích quốc gia trên hai phương diện: tự nhiên – xã hội. Mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ lợi ích quốc gia là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội, duy trì trật tự, kỷ cương an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
Đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và thách thức, nguy cơ đan xen. Trong tình hình mới, Đảng ta chủ trương bảo vệ lợi ích quốc gia bằng sức mạnh tổng hợp của cả quốc gia về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng an ninh và đối ngoại kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII nêu rõ: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vừng môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Quan điểm đó của Đảng là biểu hiện sinh động sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng của V.I.Lênin về bảo vệ lợi ích quốc gia phù hợp với điều kiện mới của cách mạng. Đó cũng chính là quan điểm, định hướng chỉ đạo của Đảng ta về giải quyết hài hòa lợi ích nhân loại; không tuyệt đối hóa lợi ích quốc gia mà xâm phạm đến lơi ích của các nước khác và nhân loại. Trong bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào cũng kiên định, kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia, không dao động, bi quan, đổi hướng, thay đổi mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.



[1] V.I.Lênin, toàn tập, tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2006, tr. 

THỦ ĐOẠN MỚI TRONG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH” – VẤN ĐỀ RÚT RA


          Xuất hiện vào khoảng những năm 20 của thế kỷ trước, trải qua gần thế kỷ “diễn biến hoà bình” đã được đẩy lên thành chiến lược “diễn biến hoà bình” để từng bước hiện thực hoá mục đích làm chệch hướng tiến đến xoá bỏ CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Đặc biệt sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở đông Âu, bằng sức mạnh “mềm” của chiến lược“diễn biến hoà bình” đang ngay càng chứng tỏ sự nguy hại của nó đối với các nước XHCN còn lại trong đó có cách mạng Việt Nam. Sẽ là ảo tưởng nếu ai đó trong chúng ta ngộ nhận rằng: Trong thời kỳ hội nhập kinh tế - quốc tế, đang tạo ra không gian mở “biên giới mềm”, sự đan cài về lợi ích giữa quốc gia không phân biệt chế độ chính trị thì sẽ làm tiêu tan mưu đồ, dã tâm xoá bỏ các nước XHCN còn lại của các thế lực thù địch. Mà hơn thế nữa chúng còn lợi dụng chính sự giao lưu hội nhập ấy, kết hợp với sự phát triển nhanh của hệ thống truyền thông, các trang mạng xã hội để đẩy mạnh hơn, quyết liệt hơn sự chống phá cách mạng Việt Nam, nhằm hiện thực hoá con bài chiến lược “diễn biến hoà bình” trong điều kiện mới với nhiều chiêu thức, thủ đoạn mới. Vì vậy, cần nhận diện, cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn mới trong chiến lược “diễn biến hoà bình” mà các thế lực thù địch đang tiến hành là vấn đề cần thiết nhằm ngăn chặn làm thất bại chiến lược “diễn biến hoà bình” của chúng trong tình hình hiện nay.
          Bản chất của chiến lược DBHB là cuộc chiến tranh thầm lặng “chiến thằng không cần vũ lực”, song vô cùng quyết liệt, một cuộc chiến tranh không bằng “vũ khí, phương tiện chiến tranh” mà thông qua các phương thức tác động “mềm” đánh vào nhận thức con người thông qua kích thích thúc đẩy nhu cầu lợi ích vật chất, tâm lý tinh thần cá nhân rất khôn ngoan và xảo quyệt. Nhất là trong thời kỳ Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện đường lối chiến lược phát triển kinh tế theo xu hướng thị trường, định hướng XHCN. Mục đích của chiến lược DBHB mà các thế lực thù địch hướng đến là nhằm tiến công chống phá nền tảng chính trị tinh thần, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta; kết hợp lợi dụng khoét sâu mâu thuẫn trong nội bộ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong toàn xã hội; tiên đến phá vỡ trật tự sự thống nhất về tư tưởng, ý chí trong toàn Đảng và nhân dân ta; tất yếu dẫn đến nội bộ suy yếu mất đoàn kết, nguyên nhân sinh ra “tự diễn biến, tự chuyển hoá” về tư tưởng chính trị và nhận thức lối sống, đạo đức trong đội ngũ cán bộ đảng viên. Chiến lược DBHB, qua nghiên cứu thấy rằng được các thế lực thù địch chủ yếu áp dụng đối với những nước mà chúng tã từng tiến hành cuộc chiến tranh quân sự hay gây bạo loạn lật đổ nhưng không đạt được mục đích, buộc chúng chuyển sang chiêu bài tiến công tổng lực theo kiểu “Bất chiến tự nhiên thành”, nói khác là “không đánh mà thằng” để buộc đối phương phải thay đổi chế độ chính trị hoặc từ bỏ chế độ hiện hành theo ý đồ mà chúng đã định.
          Nhiều năm qua, chiến lược DBHB được chúng tiến hành tại Việt Nam, trong quá trình thực hiện các thế lực thù địch đã đưa ra nhiều thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt, tuy chưa đạt được mục đích của chúng, song cũng đã có một số cán bộ, đảng viên bị sập bẫy trước danh lợi cá nhân, mua chuộc của chúng. Mục tiêu nhất quán chúng xác định đối với cách mạng nước ta là: Xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và chế độ XHCN, làm chệch hướng con đường lên CHXH, lái cách mạng nước ta theo quỹ đạo của CNTB và lệ thuộc hoàn toàn vào chúng. Để đạt cho được mục đích ấy, trong nhiều năm qua chúng không từ bỏ bất kỳ một thủ đoạn nào, bằng các hình thức, thủ pháp hết sức tinh vi thường xuyên thay đổi thích ứng với từng thời kỳ cách mạng và đối tượng mà chúng hướng đến, thực hiện chống phá cách mạng nước ta một cách toàn diện trên tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.



QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”


“Diễn biến hoà bình” (DBHB) là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nhằm lật đổ chế độ chính trị - xã hội của các nước tiến bộ, trước hết là các nước XHCN và các nước không tuân theo sự lãnh đạo của chúng từ bên trong bằng biện pháp phi quân sự. Bản chất của chiến lược DBHB là: Chống phá CNXH, chống độc lập dân tộc. Thực chất đây là cuộc đấu tranh gia cấp và đấu tranh dân tộc trong giai đoạn mới Mục tiêu của chiến lược DBHB mà các thế lực thù địch tiến hành ở Việt Nam là làm chuyển hoá chế độ XHCN ở nước ta theo con đường TBCN. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là phải làm thất bại âm mưu thủ đoạn trong chiến lược DBHB của kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam. Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường hoà bình để đẩy mạnh sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc. Hiện nay CNĐQ cho rằng sự  ra đời của CNXH là nguy cơ, là hiểm hoạ đối với chúng. Do vậy khi CNXH mới được hình thành trên cơ sở lí luận thì chúng đã kiên quyết chống phá và khi CNXH được thiết lập ở Liên Xô và các nước Đông Âu thì chúng càng điên cuồng chống phá. Nhưng sau nhiều năm chống phá CNXH và phong trào cách mạng thế giới chúng đã  rút ra bài học là không thể dùng sức mạnh quân sự đơn thuần để chiến thắng mà cần sử dụng các biện pháp tổng lực: Chống phá về kinh tế, chính trị, văn hoá, văn nghệ, quân sự, ngoại giao và bằng chiến lược DBHB thì mới có thể chiến thắng CNXH. Vì vậy, từ giữa thế kỷ XX, chiến lược DBHB bắt đầu hình thành. Ban đầu DBHB chỉ được sử dụng như một biện pháp hỗ trợ cho các chiến lược “ngăn chặn, phản ứng linh hoạt” của CNĐQ để chống phá CNXH và phong trào cách mạng thế giới. Gần đây DBHB đã trở thành chiến lược cơ bản của CNĐQ và các thế lực phản động âm mưu lật đổ chế độ chính trị - xã hội các nước CNXH. Chiến lược DBHB của CNĐQ là nhân tố trực tiếp làm sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu. Đảng ta xác định chiến lược DBHB là một trong bốn nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng ta. Vì vậy, chống chiến lược DBHB, bạo loạn lật đổ là nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Nội dung chính của chiến lược DBHB, là kẻ thù sử dụng mọi thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, đối ngoại, an ninh,v.v.. để phá hoại, làm suy yếu từ bên trong các nước XHCN. Kích động mâu thuẫn xã hội, tạo ra các lực lượng chính trị đối lập núp dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, sắc tộc, khuyến khích tư nhân hoá về kinh tế, đa nguyên về chính trị, làm mơ hồ giai cấp và đấu tranh giai cấp trong nhân dân lao động. Đặc biệt, chúng coi trọng khích lệ lối sống tư sản và từng bước làm phai nhạt mục tiêu, lí tưởng XHCN ở một bộ cán bộ, đảng viên. Triệt để khai thác và lợi dụng những khó khăn, sai sót của Đảng, Nhà nước ta trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo nên sức ép, từng bước chuyển hoá và thay đổi đường lối chính trị, chế độ xã hội theo quỹ đạo CNTB.
Chiến lược DBHB đã ra đời, phát triển cùng với sự điều chỉnh phương thức, thủ đoạn chiến lược của CNĐQ và các thế lực phản động quốc tế để chống phá các nước XHCN, được hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn.
Giai đoạn từ 1945 - 1980: Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trước sự lớn mạnh của Liên Xô sự ra đời của một loạt nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cách mạng thế giới phát triển nhanh chóng... chủ nghĩa đế quốc thực hiện chiến lược toàn cầu: Ngăn chặn" sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Chiến lược này do Tổng thống Mỹ Tru man khởi xướng ngày 12 tháng 3 năm 1947, trong đó coi trọng dùng thủ đoạn quân sự đe doạ, bao vây, can thiệp vũ trang, cùng với tiến hành chiến tranh để "ngăn chặn " ảnh hưởng của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Trước đó ngày 22 tháng 12 năm 1946, Ken-man đại diện lâm thời của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tại  Liên Xô trình nên chính phủ Mĩ một bức điện 8000 từ về kế hoạch chống Liên Xô toàn diện hơn bao gồm: Bao vây quân sự, phong toả kinh tế; lật đổ chính trị; thậm chí dùng vũ lực can thiệp. Cũng trong thời gian này, giám đốc CIA (cơ quan tình báo Mĩ ) tuyên bố: Mục tiêu là phải reo rắc ở Liên Xô sự hỗn loạn và phải bắt đầu bằng chiến tranh tâm lí  thay giá trị của Liên Xô bằng đồ rởm và tìm  mọi cách ủng hộ và nâng đỡ đám gọi là “nghệ sĩ” để họ truyền bá bạo lực, đồi trụy, chủ nghĩa vô liêm sỉ, phản bội vào Liên Xô. Tóm lại, mọi thứ vô đạo đức. Từ đó chiến tranh tâm lí chống Liên Xô được nâng lên hàng  quốc sách ở Mĩ, gọi là chiến tranh tâm lí tổng lực. Tháng 4 năm 1948, Quốc hội Mĩ chính thức phê chuẩn kế hoạch Mác San, tăng viện trợ để khích lệ lực lượng dân chủ, cài cắm gián điệp vào các đảng cộng sản để phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa và ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Tây Âu, hướng họ phụ thuộc vào Mĩ. Trong hai năm 1949 - 1950 Mĩ đã chi 50 triệu đô la cho hoạt động chiến tranh tâm lí chống Liên Xô . Năm 1949 Mĩ lập Uỷ ban châu Âu tự do có đài phát thanh riêng. Tháng 7 năm 1947, khi đã trở về Oa-sinh-tơn giữ chức Phó giám đốc học viện quốc phòng, chuyên trách về đối ngoại, Ken- nan lại trình bầy những biện pháp bổ xung cho chiến lược "ngăn chặn": bên cạnh việc tăng cường vũ lực và sẵn sàng sử dụng vũ lực, cần tăng cường viện trợ cho các nước xung quang Liên Xô. Như vậy, cho đến đầu thập kỷ 50, với chủ nghĩa Tru-man ý tưởng "diễn biến hoà bình " đã được bổ xung cho chiến lược tiến công quân sự của Mĩ chống Liên Xô. Từ năm 1953, Ai-Xen-Hao nhận chức tổng thống và 1956 lại trúng cử nhiệm kỳ II đến năm 1961, chính phú Mĩ đã đề ra chiến lược quân sự "trả đũa ồ ạt" Ai-Xen-Hao dựa vào sức mạnh của răn đe vũ khí hạt nhân để thực hiện "ngăn chặn" chủ nghĩa cộng sản. Mĩ đã đưa quân đi khắp thế giới, can thiệp vào nội bộ chính trị các nước trong thế giới thứ ba. Trong đó chúng coi chiến trường Việt Nam là mục tiêu chính để phá hoại CNXH và phong trào đáu tranh giải phóng dân tộc (GPDT).
Song song với chiến lược trả đũa ồ ạt, học thuyết “Ngăn chặn phi vũ trang” của Ken-man được tán dương và hưởng ứng, bổ xung bởi các học giả của tập đoàn thống trị Mĩ, xuất hiện ý tưởng  “hoà bình giải phóng” của AlenDalet. Như vậy, ý tưởng “diễn biến hoà bình” được bổ xung và trở thành biện pháp của chiến lược “Ngăn chặn” của đế quốc Mĩ. Đến tháng 01/1961 Ken-nơ-đi thay Aixenhao và đã đưa ra chiến lược "phản ứng linh hoạt" cùng chiến lược "hoà bình", thực hiện chính sách "mũi tên và cành Ôliu"..Từ đây, "diễn biến hoà bình" đã bước đầu trở thành chiến lược cơ bản  của chủ nghĩa đế quốc và luôn đi cùng sức mạnh quân sự. Tháng 12/1963 Kennơ đi bị ám sát, phó tổng thống Giôn xơn thay thế, kiêm nhiệm tới năm 1969, Giôn xơn thúc đẩy chậy đưa vũ trang, triệt để dùng sức mạnh quân sự đi kèm với những hoạt động phá hoại bằng chính trị mà điển hình là: các vụ bạo loạn ở CHDC Đức (1953), Ba lan, Hungary (1956) Tiệp khắc (1968). Do lực lượng các nước XHCN trong đó có Liên bang Xô viết lớn mạnh, chúng lấy chiến lược “phản ứng linh hoạt” thay cho chiến lược “trả đũa ồ ạt” và tìm kiếm những biện pháp mới đi song song cùng các hoạt động quân sự hòng chống phá hệ thống XHCN. Từ năm 1961 Mĩ tiến hành “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh Cục bộ” chúng đã dưa 50.000 quân Mĩ vào Miền Nam, bị quân và dân ta đánh cho thất bại thảm. hại. Tháng 3/1968 Giôn iXơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bon Miền  Bắc Việt Nam, Phải tiến hành đàm phán tại hội nghị Pari, “chiến lược phản ứng linh hoạt” bị phá sản.
Từ năm 1968 đến năm 1972 Nic xơn trúng cử tổng thống trong bối cảnh so sánh lực lượng Mĩ - Xô đã thay đổi nhất là lực lượng hạt nhân chiến lược đang ở thế cân bằng, thất bại trong chiến trường Trung đông, Việt Nam. Nicxơn thực hiện chiến lược quân sự “răn đe thực tế” mà mục đích cơ bản là ngăn chặn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng XHCN đang diễn ra trên toàn thế giới.
          Cũng trong thời gian này Mĩ thực hiện chính sách ngoại giao "cây gậy và củ cà rốt " tuy vẫn coi trọng răn đe vũ khí hạt nhân nhưng đã chủ trương tăng cường tiếp xúc, hoà hoãn với các nước xã hội chủ nghĩa, tiến hành thẩm thấu tư tưởng văn hoá, gieo rắc hạt giống chống phá từ bên trong... thúc đẩy tiến trình, “diễn biến hoà bình" đối với các nước xã hội chủ nghĩa. Chính Nícxơn đã nêu ra chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa là dùng đối thoại thay cho đối đầu. Đàm phán trên thế mạnh là thủ đoạn của Nícxơn để thực hiện "diễn biến hoà bình". Đến tháng 12 năm 1957, Tổng thống Aixenhao đã tuyên bố "Mĩ sẽ giành thắng lợi bằng hoà bình" và mục đích của chiến lược để làm suy yếu và lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa.

+ Giai đoạn từ năm 1980 đến nay: Bước vào thập kỷ 80, chủ nghĩa Tư bản đạt được ổn định và có bước phát triển. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng, thực hiện đường lối cải tổ, cải cách sai lầm, càng dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Lợi dụng cơ hội đó, chủ nghĩa đế quốc hoàn chỉnh chiến lược " diễn biến hoà bình " và ráo riết thực hiện. Nhằm làm sụp đổ Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông âu cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác. Có thể lấy năm 1988, Ních-Xơn xuất bản cuốn sách "1999, chiến thắng không cần chiến tranh" làm mốc cho sự hoàn chỉnh chiến lược "diễn biến hoà bình"

NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG - LÝ LUẬN NHẰM BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC


                              
Với cách nhìn tổng thể và khái quát, có thể thấy, văn hóa vừa thể hiện ở bình diện rộng, vừa thể hiện ở chiều sâu, tầm cao các giá trị mang ý nghĩa sáng tạo và nhân văn mà con người đạt được - những giá trị không chỉ có ý nghĩa đối với một dân tộc riêng biệt, mà còn có ý nghĩa phổ quát trong phạm vi đời sống văn hóa toàn nhân loại. Hội nhập quốc tế hiện nay đang làm cho đời sống văn hóa của đất nước không bị bó khuôn trong những giá trị văn hóa theo hệ tiêu chí chân, thiện, mỹ truyền thống của dân tộc, mà có nhiều văn hóa phẩm của các dân tộc khác đang và sẽ thâm nhập vào mọi phương diện của đời sống xã hội, lan tỏa và thấm sâu vào mọi tế bào của xã hội. Đó là xu thế khách quan. Tuy nhiên, sự thâm nhập ấy luôn luôn hàm chứa cả những khả năng thẩm lậu của các phản giá trị nếu chúng ta không kiểm soát, ngăn chặn được.
Trong bối cảnh hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc không những không dịu đi như nhiều người lầm tưởng, mà ngày càng diễn ra gay go, quyết liệt, phức tạp và mang nhiều sắc thái mới, trong đó lĩnh vực văn hóa đang là một mũi nhọn cực kỳ quan trọng. Do vậy, muốn phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tạo sức mạnh nội sinh của nền văn hóa, chúng ta cần chủ động định hướng sự thâm nhập những tinh hoa văn hóa từ bên ngoài, nhằm vừa làm giàu cho nền văn hóa Việt Nam, vừa chủ động phá những cạm bẫy "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch về lĩnh vực văn hóa..
Thời gian gần đây, do xu hướng toàn cầu hóa và sự phát triển của cuộc cách mạng 4.0 không ít người ra sức ca ngợi các lý thuyết phát triển của giới nghiên cứu phương Tây, đến mức coi đó là hình mẫu lý tưởng để áp dụng vào nước ta. Họ không thấy được hầu như tất cả các lý thuyết đó, kể cả những lý thuyết về kết hợp văn hóa và phát triển, đều chỉ nhấn mạnh vào các yếu tố kỹ thuật của sự tăng trưởng kinh tế mà không chú ý đến nhân tố xã hội, nhân tố con người. Một số người, kể cả những nhà văn hóa, đưa ra quan niệm văn hóa là lĩnh vực phi sản xuất, đứng ngoài kinh tế, chỉ là "cái bóng phản chiếu", là kết quả "thăng hoa" của kinh tế; đời sống vật chất có dư dật thì mới nói đến việc mở mang văn hóa. Bên cạnh đó vẫn còn không ít người vẫn coi văn hóa đơn thuần là sản phẩm thuộc hệ giá trị tinh thần, cho nên nếu có chấp nhận văn hóa như là động lực phát triển kinh tế thì cũng chỉ là sự tác động trở lại của "tính thứ hai" đến "tính thứ nhất", dù thừa nhận đó là sự tác động rất tích cực, năng động.
Để tiếp thu một cách chọn lọc những hạt nhân hợp lý của các lý thuyết phát triển đương đại, cần có cái nhìn phê phán trên cơ sở khoa học. Chỉ có đứng vững trên lập trường thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng, chúng ta mới có công cụ nhận thức vĩ đại để xây dựng lý luận khoa học về triết học văn hóa, xã hội học văn hóa, nhân học văn hóa, đạo đức học văn hóa..., cũng như phát triển thực tiễn đúng hướng về văn hóa chính trị, văn hóa kinh tế, văn hóa tổ chức xã hội, văn hóa nghệ thuật, văn hóa ứng xử, giao tiếp, văn hóa quân sự... Chính vì vậy, để phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay, cuộc đấu tranh trên mặt trận lý luận văn hóa, nhất là đấu tranh chống những quan điểm lệch lạc, phản động, cần đứng vững trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta về văn hóa và xây dựng nền văn hóa.
Trên nền tảng tư tưởng ấy, cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận cần tập trung khẳng định, quần chúng nhân dân không chỉ là người hưởng thụ thành quả văn hóa mà còn là chủ thể tích cực của quá trình sáng tạo văn hóa. Không thể phủ nhận trong di sản văn hóa dân tộc Việt Nam, có không ít giá trị dân tộc ta đã tiếp biến được từ các nền văn hóa khác trong quá trình giao lưu văn hóa. Nhưng bản sắc văn hóa độc đáo mang hồn dân tộc - cái "bộ gien" di truyền về mặt văn hóa của dòng giống "con Lạc, cháu Hồng" mà các thế hệ hôm nay có được - là do chính bàn tay, khối óc của tổ tiên chúng ta sáng tạo nên. Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay, phải hết sức coi trọng việc khơi dậy niềm tự hào và ý thức kế thừa những di sản văn hóa quý báu ấy - sự kế thừa hết sức sáng tạo. Kế thừa văn hóa phải gắn với đổi mới văn hóa và phát triển văn hóa thì mới làm cho nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thể hiện đầy đủ bản chất sáng tạo và nhân văn của văn hóa.
Đấu tranh tư tưởng - lý luận trên lĩnh vực văn hóa cần tập trung nâng cao nhận thức, hiểu biết của nhân dân về truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là những thành tựu kỳ diệu của khoa học và công nghệ hiện đại. Chỉ khi có nhận thức đúng, các tầng lớp nhân dân mới chủ động, tích cực tham gia xây dựng nền văn hóa và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội. Và đến lượt nó, thực hiện tốt các nội dung, yêu cầu về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc một cách khoa học mới có thể góp phần nâng cao hiệu quả khắc phục tệ nạn xã hội, chống lại sự suy thoái về đạo đức, lối sống, phê phán tư tưởng sùng ngoại và khuynh hướng lai căng văn hóa, đấu tranh không khoan nhượng với nhận thức, hành vi phủ nhận giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, phủ nhận thành quả cách mạng Việt Nam.
Đấu tranh tư tưởng - lý luận phải bênh vực cho quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế: văn hóa nằm ngay trong kinh tế và kinh tế nằm trong văn hóa. Văn hóa không phải là sự phản ánh thụ động, là sản phẩm tự phát của kinh tế. Bởi vậy, không nên cho rằng, chỉ cần phát triển kinh tế thì văn hóa tự khắc phát triển theo. Có những nước kinh tế phát triển cao mà văn hóa, đạo đức, lối sống lại suy đồi. Trái lại, có nước trình độ phát triển kinh tế chưa cao nhưng ngay từ đầu đã coi trọng mở mang văn hóa, giáo dục để "làm kế sâu rễ bền gốc" cho sự phát triển. Bản thân sự phát triển kinh tế cũng không phải chỉ do các yếu tố kinh tế đơn thuần như lao động, vốn, công nghệ và tài nguyên thiên nhiên mang lại, mà ngày càng phụ thuộc vào tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người, từ sự hiểu biết đến đạo đức, lối sống, thị hiếu, trình độ thẩm mỹ... của mỗi cá nhân và cộng đồng xã hội.
Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, lý luận văn hóa phải trở thành vũ khí sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống lại chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng. Hơn lúc nào hết, lý luận văn hóa của chúng ta hiện nay phải tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận nhằm phê phán các quan điểm và hành động phản văn hóa như: hoài nghi và phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng; dao động mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thoái hóa về chính trị - tư tưởng, sa đọa về đạo đức, lối sống; sùng bái nước ngoài, coi thường các giá trị văn hóa dân tộc...
Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận trên lĩnh vực văn hóa cần tập trung khẳng định, bảo vệ và phát triển nền tảng lý luận ở nước ta là thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về những vấn đề văn hóa và xây dựng văn hóa. Nội dung của toàn bộ hệ thống lý luận về văn hóa của chúng ta trước hết phải thể hiện chức năng khẳng định các chân lý, các giá trị văn hóa của nhân loại và của từng dân tộc. Song, việc chuyển tải các chân lý và các giá trị đó đến con người nhằm tích cực góp phần làm sáng tỏ những vấn đề có tính nguyên tắc trong nhận thức và trong thái độ ứng xử đối với văn hóa phải thông qua vai trò đặc biệt quan trọng của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mặt khác, việc tiến hành đấu tranh thắng lợi nhằm bảo vệ nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống quan điểm của Đảng ta về văn hóa và xây dựng văn hóa sẽ làm cho quá trình phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay luôn được định hướng đúng đắn, khoa học, chống được những lực cản cả hữu hình và vô hình, không bị rơi vào hữu khuynh hoặc "tả" khuynh./.





HÃY GÌN GIỮ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ THIÊNG LIÊNG VÀ CAO ĐẸP CỦA LẬP, TỰ DO



“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[1]. Âm hưởng thiêng liêng, hào hùng đó trong Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình, khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 2-9-1945, cách đây 77 năm, nhưng vẫn in đậm trong tâm khảm mỗi người dân Việt Nam, vẫn khơi dậy niềm tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc, vẫn thúc giục mọi người dân Việt Nam hãy luôn trân trọng, bảo vệ, gìn giữ những giá trị độc lập, tự do mà vì nó, bao thế hệ đã ngã xuống.
Vì độc lập, vì tự do, cả dân tộc Việt Nam đã trường kỳ kháng chiến để làm nên Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, ghi thêm một trang vàng vào lịch sử oai hùng của dân tộc, góp phần làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân trên thế giới.
Vì độc lập, vì tự do, chúng ta đã “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “tất cả cho tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”, để trên đất nước ta sạch bóng quân xâm lược. Việt Nam trên tuyến đầu chống đế quốc đã lay động lòng người yêu chuộng hòa bình, chính nghĩa trên toàn thế giới, khơi dậy những phong trào phản đối chiến tranh ở Việt Nam, “không được đụng đến Việt Nam”. Việt Nam được coi là lương tâm của thời đại. Một “Điện Biên Phủ trên không” đầy thuyết phục đã dẫn đến Hiệp định Pa-ri được ký kết. Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 đã làm cho “Bắc, Nam sum họp một nhà”, chấm dứt cảnh “ngày Bắc, đêm Nam”, hoàn thành “ham muốn tột bậc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: đất nước ta được độc lập, nhân dân ta được tự do...
Là người Việt Nam yêu nước, không ai có thể phủ nhận được: nhân dân Việt Nam, hơn ai hết, thiết tha với độc lập, tự do, với quyền được hưởng độc lập, tự do và thấu hiểu giá trị của tự do, độc lập dân tộc. Là người Việt Nam yêu nước, không ai không tự hào với truyền thống giữ nước của dân tộc; không ai không mong muốn đất nước Việt Nam được hòa bình, ổn định, ngày càng giàu mạnh hơn, có vị thế bình đẳng trên thế giới, đóng góp xứng đáng vào công việc của cộng đồng quốc tế.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, với những thành tựu to lớn và quan trọng đã đạt được trong công cuộc đổi mới hơn 30 năm qua, đất nước Việt Nam đang đứng trước những cơ hội mới và cả những thách thức mới trong việc bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc. Thách thức mới đó là:
Chúng ta đang bị đặt trong một phép so sánh: mức sống của người dân, trình độ phát triển kinh tế của các nước tư bản phát triển cao hơn hẳn mức sống và trình độ phát triển kinh tế của nước ta. Mặc dù sự so sánh đó là không công bằng (bởi các nước tư bản đã trải qua quá trình phát triển nhiều trăm năm, và, có nhiều nước đã từ lâu không biết đến sự tàn phá của chiến tranh, trong khi chúng ta mới chỉ được sống trong hòa bình khoảng 3 thập kỷ), nhưng nó lại tạo ra những sức ép không nhỏ trong xã hội.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự hội nhập ngày càng sâu, rộng của nước ta vào nền kinh tế khu vực, thế giới đặt ra nhiều vấn đề mới trong việc bảo vệ chủ quyền dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ mục tiêu và con đường phát triển mà chúng ta đã lựa chọn. Chúng ta phải giải quyết hài hòa lợi ích dân tộc với lợi ích khu vực, cộng đồng quốc tế; lợi ích quốc gia với các nguyên tắc, luật lệ của các tổ chức quốc tế mà chúng ta là thành viên; phải đảm bảo sự đồng thuận trong xã hội để phát triển đất nước...
Những yếu kém, bất cập trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội; những khó khăn, lúng túng trong quá trình phát triển; tình trạng quan liêu, tham nhũng gây bức xúc, bất bình trong nhân dân đang là cơ hội thuận lợi mà các thế lực thù địch thổi phồng, đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm làm cho chúng ta “tự diễn biến”, từ đó “không đánh mà thắng”. Thua trên chiến trường, nhưng các thế lực thù địch không từ bỏ dã tâm, tiếp tục cuộc “chiến tranh không khói súng”, với nhiều âm mưu, thủ đoạn vô cùng tinh vi và xảo quyệt để chống phá cách mạng nước ta, chống phá chế độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà dân tộc Việt Nam đã lựa chọn. Mục tiêu của chủ nghĩa đế quốc đối với các nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa không bao giờ thay đổi.
Tuy nhiên, bên cạnh những thách thức, chúng ta cũng có nhiều cơ hội mới, vận hội mới. Hiện nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với hơn 220 nước quốc gia và vùng lãnh thổ, có quan hệ thương mại với hơn 500 tổ chức kinh tế và tổ chức phi chính phủ.
Với đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển”, “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”, Việt Nam ngày càng có nhiều bạn bè trên thế giới. Nhiều người đã đến Việt Nam và họ đã phải thay đổi cách suy nghĩ, có sự nhìn nhận khách quan, đầy thiện cảm và tin tưởng vào sự đổi mới của đất nước thân thiện và hiếu khách này. Michael Marine - nguyên Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam - trước khi mãn nhiệm về nước đã nói: “Nếu nói về Việt Nam với người Mỹ hay những người nước ngoài khác, tôi sẽ trả lời đơn giản: Hãy đến và nhìn Việt Nam bằng chính con mắt của bạn. Đừng nghĩ rằng bạn đã biết về Việt Nam, đặc biệt với người Mỹ. Vẫn nhiều người nhìn Việt Nam như một đất nước của chiến tranh hơn 30 năm trước. Họ sẽ có sự ngạc nhiên dễ chịu khi đến Việt Nam. Tôi cũng khuyên các doanh nghiệp Mỹ hãy đến với Việt Nam, tìm kiếm cơ hội kinh doanh và làm ăn ở Việt Nam”.
Thành tựu mà nhân dân Việt Nam đạt được trong lĩnh vực phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, ổn định về chính trị, xã hội..., cùng với việc trở thành thành viên của nhiều tổ chức kinh tế, các diễn hợp tác quan trọng của khu vực và quốc tế... đang tạo nên sức hút đối với các luồng đầu tư, góp phần thúc đẩy công cuộc phát triển đất nước. Nội lực của đất nước được củng cố; sự quan tâm, tin tưởng và hợp tác của cộng đồng quốc tế tăng lên, đang tạo ra những điều kiện thuận lợi để chúng ta bảo vệ độc lập, tự do trong một thế giới tùy thuộc vào nhau, hòa bình, đối thoại và hợp tác là xu thế chủ đạo, nhưng cũng tiềm ẩn không ít những bất ổn, biến động khó lường.

Dù cho bối cảnh quốc tế ngày nay có nhiều biến động, nhưng độc lập, tự do luôn là những giá trị thiêng liêng và cao đẹp mà các dân tộc và loài người tiến bộ vươn tới. Bởi “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[2]. Các thế hệ người dân Việt Nam yêu nước, vì lẽ đó, luôn mang trong mình ý chí quật cường và quyết tâm sắt đá bảo vệ độc lập và tự do cho dân tộc: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Phấn đấu cho một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” là tâm nguyện của tất cả những người dân Việt Nam yêu nước./.

Củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng


Thực tiễn lịch sử ra đời, phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ niềm tin của nhân dân với Đảng - nhân tố quan trọng hàng đầu tạo sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, là cơ sở cội nguồn sức mạnh của Đảng, sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Song thực tế hiện nay, niềm tin của nhân dân với Đảng có sự giảm sút. Điều này có nguyên nhân từ cả các yếu tố khách quan và chủ quan. Hiện nay, các thế lực thù địch tìm mọi cách chống phá Đảng ta về mọi mặt, tạo sự mơ hồ, hoài nghi, dao động trong quần chúng nhân dân và làm cho niềm tin của nhân dân với Đảng bị giảm sút.
Bên cạnh đó, sự nghiệp đổi đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đặt ra khá nhiều những vấn đề lý luận, thực tiễn hết sức phức tạp mà việc luận giải, làm rõ cũng không phải một sớm, một chiều. Cùng với nó là tính tiền phong, gương mẫu của không ít đảng viên, cán bộ chưa được phát huy hiệu quả; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chạy chức, chạy quyền trong một bộ phận đảng viên, cán bộ chưa được ngăn chặn, đẩy lùi; bệnh khoa trương, thành tích và những tiêu cực trong quản lý đất đai, quản lý kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục... chậm được khắc phục; vấn đề an ninh trật tự, an toàn giao thông, an toàn thực phẩm, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội còn nhiều nhức nhối; đời sống, việc làm của người dân, nhất là các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn... Tất cả những điều đó đang hàng ngày, hàng giờ tác động đến tâm tư, tình cảm của người dân, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Đây chính là mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch, phản động thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đối với Đảng và đối với cách mạng Việt Nam.
"Tự diễn biến", "tự chuyển hóa" tuy cấp độ khác nhau nhưng chúng đều là kết quả của chiến lược "diễn biến hòa bình" và để lại hậu quả khó lường, trong đó "tự diễn biến" chính là tiền đề, điều kiện cho "tự chuyển hóa". Bởi vậy, để phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" một cách hiệu quả đòi hỏi phải triệt tiêu và vô hiệu hóa các yếu tố tác động, làm nảy sinh và thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Theo đó, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng không chỉ là yêu cầu mà còn là biện pháp hết sức quan trọng. Thực hiện biện pháp này cần quán triệt, triển khai đồng bộ, quyết liệt nhiều nội dung, song cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau;
Thứ nhất, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các nội dung của Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XII) của Đảng. Trong đó, chú trọng làm tốt việc rút kinh nghiệm sau một năm triển khai thực hiện Nghị quyết, chỉ rõ những việc đã làm được, chưa làm được, nguyên nhân và biện pháp thực hiện tiếp theo. Cần phải thẳng thắn nhìn nhận, đánh giá đúng mức độ chuyển biến của những hạn chế, yếu kém so với yêu cầu đặt ra ở mức nào và điều quan trọng hơn là kết quả sau một năm thực hiện Nghị quyết ở từng cấp ủy, tổ chức đảng đã thực sự góp phần giải quyết và tháo gỡ được những bức xúc trong quần chúng nhân dân hay chưa?
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong Đảng, trong nhân dân, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm và tinh thần "hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân" đối với mỗi đảng viên, cán bộ. Điều quan trọng là việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, không dừng lại ở các quy định, việc làm mang tính hình thức, chiếu lệ mà thực sự trở thành nhu cầu đối với nâng cao nhận thức, rèn luyện phẩm chất đạo đức, năng lực của mọi đảng viên, cán bộ và nhân dân.
Thứ ba, quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực tiễn cho thấy, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng trước hết là niềm tin vào mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng. Bởi vậy, quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, cán bộ hiện nay là việc làm vô cùng quan trọng và cấp bách. Theo đó, làm tốt quản lý đảng viên, cán bộ từ quản lý về tư tưởng, đạo đức, lối sống đến quá trình đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng... Trong đó, cần đổi mới cơ chế, quy trình và thực sự phát huy có hiệu quả dân chủ trong Đảng, trong nhân dân đối với công tác cán bộ để những người có đức, có tài được trọng dụng. Kiên quyết loại bỏ những đảng viên, cán bộ thoái hóa, biến chất, cơ hội, thực dụng, thiếu trách nhiệm, năng lực yếu kém ra khỏi hàng ngũ của Đảng và các cơ quan Nhà nước.
Thứ tư, làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, kịp thời định hướng nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trước các vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn. Một trong những thủ đoạn hết sức tinh vi khó nhận biết của "diễn biến hòa bình" chính là chúng lợi dụng việc thiếu công khai, minh bạch và thông tin chưa kịp thời của các cơ quan Đảng, Nhà nước về chủ trương, chính sách cũng như các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn quá trình lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước để xuyên tạc, bóp méo sự thật, gây hoang mang, hoài nghi, dao động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Bởi vậy, để mỗi cán bộ, đảng viên và người dân có nhận thức đúng về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, góp phần làm vô hiệu hóa các thủ đoạn của chiến lược "diễn biến hòa bình" nhất là ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" là vấn đề đặt ra không chỉ với các cơ quan thông tấn, báo chí mà cả với các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở./.