Chủ Nhật, 20 tháng 8, 2017

VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI TRONG HIẾN PHÁP


Trong Hiến pháp năm 2013, tại Điều 4 khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, hiện nay vẫn có một số ý kiến đề nghị bỏ Điều 4 trong Hiến pháp, vì cho rằng, làm như vậy là Đảng Cộng sản Việt Nam “tự áp đặt quyền lãnh đạo của mình đối với nhà nước và xã hội”, là “trái với quyền làm chủ của nhân dân, quyền con người, quyền công dân và là ngược với bản chất của nhà nước pháp quyền”, rằng “chủ thể lãnh đạo hãy để cho dân bầu chọn trong các cuộc bầu cử tự do, dân chủ, định kỳ…., việc đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, kể cả của các đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh hiện nay của đất nước”. Về thực chất, những ý kiến đó chỉ là sự áp đặt chủ quan mà không dựa trên cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn. Vấn đề đặt ra không phải chuyện thích để hay là bỏ Điều 4 trong Hiến pháp; không phải là để cho nhân dân tự do muốn lựa chọn chủ thể lãnh đạo của đất nước là tổ chức, lực lượng nào cũng được; không phải chuyện Đảng Cộng sản Việt Nam bỗng dưng tự rút khỏi vũ đài chính trị, tự từ bỏ vai trò cầm quyền của mình để trở thành một lực lượng đối lập, cạnh tranh chính trị với các đảng phái chính trị khác cho hợp xu thế lịch sử. Vấn đề đặt ra ở đây là phải lý giải cho rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

* Về mặt lý luận, theo quan điểm của học thuyết Mác - Lênin về chính đảng của giai cấp công nhân; tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng đã khẳng định rõ cơ sở lý luận về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân và của cả dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò, sứ mệnh lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động lật đổ chế độ thực dân, phong kiến; xây dựng một xã hội mới, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Khi chưa giành được chính quyền, Đảng trực tiếp lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động đứng lên làm cách mạng; khi cách mạng thành công, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, Đảng trở thành đảng cầm quyền, trực tiếp lãnh đạo Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị, lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

* Về mặt thực tiễn,Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng được giai cấp công nhân, nhân dân, dân tộc tin cậy trao cho sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam.Nhìn lại lịch sử dân tộc ta cho thấy,vào những năm cuối của thế kỷ XIX và những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, mặc dù phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp, phong trào yêu nước của nhân dân ta diễn ra sôi nổi, rộng khắp nhưng do chưa có một đường lối đúng đắn nên đều bị thất bại. Tình hình đó đòi hỏi phải có một tổ chức, một lực lượng chính trị có lý luận cách mạng soi đường, có đường lối cách mạng đúng đắn để lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc. Và chính trong bối cảnh đó Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 03-02-1930 đã mở ra bước ngoặt quyết định trong quá trình phát triển của dân tộc ta, chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối và tổ chức lãnh đạo phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc nhiệt tình hưởng ứng, ủng hộ, tin theo và lựa chọn là lãnh tụ chính trị của mình. Đó là sự lựa chọn hoàn toàn chính xác, đúng đắn, phù hợp với xu thế vận động tất yếu của lịch sử và đặc điểm của dân tộc Việt Nam.

Thực tiễn hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc; tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau ngày giải phóng miền Nam (4-1975) đến nay, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; đánh thắng 2 cuộc chiến tranh xâm lược ở hai đầu đất nước, bảo vệ  độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc; thực hiện trọn vẹn nhiệm vụ quốc tế cao cả đối với nhân dân Campuchia anh em; lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới, thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, kéo dài, tiếp tục phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, trong những năm kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ, Đảng luôn trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân, của toàn dân tộc; đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã anh dũng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng, trong hoàn cảnh nào vẫn một lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng, vì cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do cho dân tộc, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Chính vì vậy mà nhân dân ta, dân tộc ta thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là lãnh tụ chính trị của mình mà không lựa chọn các đảng phái chính trị khác, và một lòng ủng hộ Đảng, bảo vệ Đảng, chịu sự lãnh đạo của Đảng, mang hết sức người, sức của phấn đấu vì mục tiêu của Đảng.

Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay càng khẳng định rõ, Đảng ta không tranh giành quyền lãnh đạo với các đảng phái, các tổ  chức chính trị nào khác, do đó việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là hoàn toàn hợp hiến, đúng đắn và cần thiết. Điều đó hoàn toàn khác với chế độ tư bản. Bởi lẽ, trong chế độ tư bản, thực hiện chế độ đa đảng, mặc dù đảng tư sản là đảng cầm quyền nhưng các đảng phái chính trị trong xã hội tư bản vẫn phải cạnh tranh quyết liệt với nhau để giành ưu thế trong nhà nước tư sản, thông qua nhà nước để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với nhà nước và xã hội, để bảo vệ lợi ích của đảng mình, giai cấp mình. Điều đó lý giải vì sao trong hiến pháp tư sản không có một điều riêng về sự lãnh đạo của một đảng chính trị đối với nhà nước và xã hội. Do vậy, trong chế độ tư bản, khi đã thực hiện chế độ đa đảng thì về mặt pháp lý buộc phải thừa nhận nhà nước tư sản là chủ thể lãnh đạo xã hội, còn thực chất các đảng phái của giai cấp tư sản vẫn thay nhau cầm quyền.

Thế nhưng, trong nhiều năm qua, các học giả tư sản, các phần tử cơ hội về chính trị, các thế lực phản động trong nước và nước ngoài luôn đòi bỏ Điều 4 trong Hiến pháp, không thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, thực chất là họ muốn đưa nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, thực hiện chế độ đa đảng như các nước tư bản. Các quan điểm đó hoàn toàn trái với khát vọng và mong muốn của nhân dân ta, dân tộc ta, đã và đang phấn đấu vì một chế độ xã hội tốt đẹp, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013 khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, nhưng Đảng không phải là một tổ chức siêu quyền lực, đứng trên Nhà nước, nhân dân, xã hội mà thể hiện rõ vị trí, vai trò, mối quan hệ của Đảng trong hệ thống chính trị của đất nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước, chăm lo xây dựng Nhà nước vững mạnh, tôn trọng vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước đối với hệ thống chính trị và xã hội mà Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận  trong hệ thống chính trị. Nhà nước có trách nhiệm quán triệt, cụ thể hóa quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng thành Hiếp pháp, pháp luật, đến lượt mình, mọi tổ chức và đảng viên của Đảng đều phải chấp hành, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đảng lãnh đạo xã hội, lãnh đạo nhân dân nhưng vì lợi ích của nhân dân, phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Đó là những vấn đề rất cơ bản, cốt tử được khẳng định ở Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013, qua đó phản ánh rõ bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam - một Đảng Cộng sản chân chính, thể hiện rõ bản chất ưu việt của chế độ xã hội nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân.



Xuyên tạc lịch sử là một tội ác!


Hơn 40 năm qua, không chỉ có các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà văn hóa... mà cả nhân loại tiến bộ đều có cái nhìn khách quan về giá trị, ý nghĩa lớn lao của ngày chiến thắng 30-4.
Ấy vậy mà ngày hôm nay, với mục đích thiếu trong sáng và động cơ chính trị đen tối vẫn có những kẻ mang danh là người Việt Nam như linh mục Đặng Hữu Nam-kẻ ở thế hệ sau được may mắn sống trong hòa bình, hạnh phúc nhờ công ơn xương máu của thế hệ cha ông đi trước, mà lại táng tận lương tâm, buông những lời lẽ vô ơn, vô văn hóa, phỉ báng ngày toàn thắng của dân tộc Việt Nam và kích động một số giáo dân nhẹ dạ cùng thực hiện hành động sai trái. Xúc phạm đến ngày 30-4-1975 là xúc phạm đến khát vọng, danh dự và nhân phẩm của dân tộc Việt Nam, là xúc phạm đến xương máu, xúc phạm sự hy sinh thầm lặng của hàng triệu người Việt Nam cho ngày toàn thắng.
Để hiểu được niềm hạnh phúc to lớn của dân tộc có được từ sau chiến thắng 30-4-1975, ta hãy thử nhìn lại xem, trước ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước thì đất nước ta như thế nào?
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, đất nước ta thật đau đớn khi bị chia cắt bởi Vĩ tuyến 17. Ở miền Bắc, nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở miền Nam, đất nước ta bị giày xéo bởi đế giày của thực dân Pháp, rồi đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai. Cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước theo điều khoản trong Hiệp định Giơ-ne-vơ đã không bao giờ được thực hiện bởi mưu đồ thâm hiểm của đế quốc Mỹ và tay sai muốn chia cắt Việt Nam, mặc dù Đảng và Nhà nước ta ở miền Bắc đã nhiều lần bày tỏ thiện chí. Người dân miền Nam buộc phải sống dưới ách thống trị của chính quyền ngụy Sài Gòn do Mỹ dựng lên. Nhân dân miền Nam đã nổi dậy để chống lại ách thống trị ấy, để cùng với nhân dân cả nước thống nhất nước nhà.
Thời ấy, cuộc sống của người dân miền Nam bị kìm kẹp, tù túng, ngột ngạt, đau khổ trong những “khu trù mật”, “ấp chiến lược” do Mỹ và chính quyền ngụy Sài Gòn tạo ra. Chính quyền ngụy Ngô Đình Diệm sử dụng những hình phạt tàn ác của thời trung cổ là chặt đầu bằng máy chém, lê máy chém đi khắp miền Nam để tàn sát đồng bào, những người mà chúng cho là cộng sản. Chính quyền ngụy Sài Gòn còn đàn áp Phật giáo, cấm treo cờ Phật giáo dịp lễ Phật đản, đến mức hòa thượng Thích Quảng Đức đã phải tự thiêu để phản đối và kéo theo phong trào biểu tình phản đối của nhân dân khắp miền Nam. Không ai có thể quên tiếng kêu khóc của những phụ nữ hiền lành, trẻ em vô tội bị lính Mỹ thảm sát ở miền Nam, trong đó điển hình là vụ thảm sát tại thôn Mỹ Lai (thuộc làng Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi)...
Không chỉ tàn sát dân thường ở miền Nam, quân đội Mỹ thời ấy còn leo thang chiến tranh ra miền Bắc, ném bom hòng hủy diệt các thành phố, xí nghiệp, làng mạc, gây ra tang thương, mất mát, rải hàng chục triệu lít chất độc da cam để lại di chứng đến tận ngày nay cho đất nước và con người Việt Nam... Liệu dân tộc ta có thể hưởng hòa bình, hưởng cuộc sống yên vui trước dã tâm xâm lược của đế quốc Mỹ?
Những bức ảnh chiến tranh do các phóng viên các nước phương Tây, trong đó có chính phóng viên của Mỹ chụp là những bằng chứng đanh thép tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ và tay sai: Một người cha bế xác một em bé nhìn lên một chiếc xe trở đầy lính ngụy với vẻ mặt đầy ai oán; một bà mẹ ôm mấy con nhỏ bơi qua sông để trốn bom Mỹ; bé gái 9 tuổi Phan Thị Kim Phúc với thân thể cháy sém, không còn quần áo, chạy trốn bom na-pan trên con đường ở Trảng Bàng, Tây Ninh ngày 8-6-1972... đã trở thành những hình ảnh ám ảnh người dân Mỹ về tội ác do giới cầm quyền của họ gây nên và đã tạo thành những cuộc biểu tình phản đối chiến tranh trên khắp nước Mỹ.  
Một xã hội miền Nam Việt Nam trước giải phóng như vậy có phải là xã hội có tự do, dân chủ, có vì con người, có hạnh phúc hay không? 
Còn tiềm lực kinh tế miền Nam lúc bấy giờ ra sao? Trong cuốn "Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt Nam" (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2005), giáo sư Trần Văn Thọ cho biết, tính chung giai đoạn 1955-1975, kinh tế tại miền Nam chỉ phát triển trung bình 3,9%/năm (bình quân đầu người tăng 0,8%/năm), trong khi cũng giai đoạn ấy, kinh tế tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa phát triển bình quân 6%/năm (GDP đầu người tăng khoảng 3%/năm).
Trước giải phóng, các ngành sản xuất của miền Nam rất yếu kém. Công nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng từ 8% đến 10% GDP, thậm chí có những năm giảm chỉ còn 6%. Nông-lâm-ngư nghiệp luôn chiếm tỷ trọng khoảng 30% GDP. Còn tỷ trọng của khu vực dịch vụ là khoảng 45% đến 60%. Công nghiệp miền Nam đến hơn 90% là công nghiệp nhẹ được hình thành và phát triển gắn với chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Các doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, chỉ khoảng 1% cơ sở có quy mô từ 10 công nhân trở lên, còn 99% là dưới 10 công nhân. Sản xuất công nghiệp phụ thuộc vào nước ngoài về trang thiết bị thay thế và nguyên liệu, có giai đoạn, 100% nguyên liệu phải nhập khẩu. Vì thế, có giai đoạn, chính quyền đã bỏ chính sách nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất mà hướng thẳng tới việc nhập hàng tiêu dùng.
Ngân sách của chính quyền Việt Nam cộng hòa luôn ở trong tình trạng thâm hụt mà nguyên nhân chính là các khoản chi cho quân sự luôn lớn hơn chi cho dân sự. Mức thâm hụt ngân sách thường ở mức 30% đến 40%, trong đó cao nhất là năm 1965 với 41%. Lạm phát giai đoạn 1965-1970 thường hơn 30%, cao nhất là năm 1966 lên tới 61%. Trong cơ cấu chi ngân sách, chi tiêu quân sự luôn chiếm tỷ trọng lớn, cao nhất là 66% (vào năm 1968 và năm 1969). Chi tiêu dân sự có tới 80% là chi trả lương cho đội ngũ công chức trong chính phủ. Vì thế, phần đầu tư cho phát triển ở mức rất thấp và gần như không có bất cứ khoản nào cho an sinh xã hội, hỗ trợ người nghèo.
Trả lời phỏng vấn đài BBC, chuyên gia kinh tế là một Việt kiều Mỹ-ông Bùi Kiến Thành đánh giá, kinh tế dưới chế độ Sài Gòn là "nền kinh tế phát triển ảo", "không vững chắc", "không dựa vào cơ sở kinh tế mà chỉ dựa vào chiến tranh là chính". Không những thế, ông Bùi Kiến Thành nhận định đây là nền kinh tế "chưa trong sáng", "bị nhũng nhiễu bởi nhóm lợi ích"-những cụm từ chỉ tình trạng tham nhũng tràn lan của chính quyền Việt Nam cộng hòa. (4)
Như vậy có thể thấy, thứ kinh tế của chính quyền ngụy Sài Gòn là thứ kinh tế lệ thuộc hoàn toàn vào hàng trợ cấp của Mỹ, thứ kinh tế phục vụ chiến tranh. Nó chỉ tạo ra sự phồn hoa giả tạo ở Sài Gòn, một lối sống tiêu dùng xa hoa, hưởng thụ của giới quan chức nhờ hàng nhập khẩu từ Mỹ, còn người nghèo thì bị bỏ mặc. Sài Gòn được coi là “Hòn ngọc Viễn Đông” bởi thời bấy giờ các nước trong khu vực đều còn nghèo.
Một xã hội mà nền kinh tế yếu kém, lệ thuộc vào ngoại bang; một xã hội mà người dân không được hưởng những quyền cơ bản về tín ngưỡng; một xã hội mà con người không có “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (cụm từ trích "Tuyên ngôn Độc lập" của Hoa Kỳ năm 1776) như xã hội miền Nam Việt Nam trước giải phóng thì liệu có thể tiếp tục tồn tại? Ai dám bảo rằng, chính thể ngụy Sài Gòn-là tay sai của đế quốc, đưa quân đội nước ngoài vào giày xéo đất nước mình, giết hại đồng bào mình là một chính thể tốt đẹp? 
Thế còn cuộc sống trên đất nước ta ngày nay thì sao? Chúng ta đã dần hàn gắn vết thương chiến tranh, từ nền kinh tế của một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế nước ta đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, lên mức của một quốc gia thu nhập trung bình; đời sống của người dân đã ngày càng tốt hơn trước. Có một thực tế là trong một số cuộc thăm dò quốc tế về chỉ số hạnh phúc, Việt Nam luôn xếp thứ hạng cao. Ví dụ như năm 2016 vừa qua, Việt Nam đứng thứ 5 thế giới, cao nhất châu Á trong Chỉ số hành tinh hạnh phúc (Happy Planet Index, viết tắt HPI) do Tổ chức nghiên cứu kinh tế-xã hội New Economics Foundation (Anh) công bố. Chỉ số hành tinh hạnh phúc dựa vào các số liệu chọn lọc từ các quốc gia, các tổ chức quốc tế và các số liệu do chính New Economics Foundation điều tra, nói lên mối quan hệ giữa tuổi thọ, cảm giác thoải mái và những hành vi tác động đến môi trường. Nó có thể xem là chỉ số nói lên cuộc sống thoải mái của con người trong xã hội và tự nhiên, vượt ngoài cả các yếu tố vật chất.
Ngày nay, từ các chính trị gia, các trí thức, học giả, các cựu quân nhân Mỹ đều nhận ra sai lầm của việc phát động cuộc chiến tranh Việt Nam, nhận ra những cơ hội hòa bình từ thiện chí của Việt Nam đã bị phía Mỹ cố tình bỏ lỡ. Dưới sức ép của dư luận quốc tế, với những tiếng nói của lương tri, lương tâm, những người đã gây đau khổ cho nhân dân Việt Nam đã nhận ra tội lỗi của mình và tìm cách để hỗ trợ hàn gắn phần nào vết thương chiến tranh. Việt Nam và Hoa Kỳ đã chủ động khép lại quá khứ để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn, với những chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao, với hợp tác về kinh tế rất hiệu quả, những dự án phát triển... Vừa qua, Tổng thống Mỹ Đô-nan Trăm (Donald Trump) đã mời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sang thăm chính thức Hoa Kỳ vào thời gian tới. Đồng thời, Chủ tịch nước Trần Đại Quang cũng mời Tổng thống Hoa Kỳ Đô-nan Trăm sang thăm Việt Nam, dự Hội nghị Cấp cao APEC trong năm 2017 này.
Không ai có thể đảo ngược được quá khứ. Và cũng không ai có thể bóp méo, xuyên tạc được sự thật lịch sử. Thành quả hòa bình, thống nhất và hạnh phúc ngày hôm nay là thành quả của cả dân tộc Việt Nam. Vì vậy, có thể khẳng định ngày 30-4-1975 là ngày hạnh phúc của dân tộc Việt Nam, là ngày mở ra kỷ nguyên hạnh phúc của dân tộc Việt Nam./.


BỘ MẶT THẬT CỦA NHỮNG KẺ ĐỘI LỐT TÔN GIÁO


          Hoàng Đức Bình bị cơ quan CSĐT bắt ngày 15/5/2017, sau đó 2 ngày (tức 17/5/2017), đồng môn thân tín của hắn: Bạch Hồng Quyền (tên phản động đang bị Cơ quan công an truy nã ráo riết trong thời gian qua) cho ra lò “bản tường trình” (chủ yếu là khóc lóc, kêu ca) việc tài khoản ngân hàng của hắn bị “khóa do có lệnh cấm”, chẳng biết vô tình hay cố ý, tên này để lộ ra việc: “… mới có người bạn của anh Hoàng Bình chuyển một số tiền khá lớn nhờ anh Bình giúp cho người dân đi khiếu kiện Formosa… cũng bị ngân hàng khóa”.
Chính điều này đã thêm phần khẳng định cáo buộc của Cơ quan điều tra về  hành vi nhận các khoản tiền “bồi dưỡng, thù lao” từ các cá nhân, tổ chức phản động bên ngoài của trục liên minh ma quỷ Thục - Nam - Quyền - Bình là chính xác và có cơ sở.
Về khoản “bồi dưỡng” cả tình lẫn tiền, sẽ là thiếu sót nếu chúng ta không nhắc tới nữ Việt kiều Emily Page - Le, một cô ả tóc vàng lai căng và dục đãng, là thành viên của tổ chức phản động Việt tân nhưng ả ta lại nổi như cồn với biệt danh “điếu cày thiên hạ”, chuyên phục vụ tình ái cho mấy ông tây lông tại Mỹ. Vừa chân ướt chân ráo từ Mỹ về Việt Nam, cô ả đã vội vàng cặp kè, hú hí ngay với hai cha xứ phản động Đặng Hữu Nam và Nguyễn Đình Thục, thể hiện trình độ “cáo già” khi khích lệ, động viên hai tên phản động đội lốt linh mục này bằng những tệp phong bì dày cộm từ “bển” gửi về và không quên cho ra những bức ảnh “ngầm gửi” thông điệp cho lớp đàn em “ngu học, khát sữa” của Nam và Thục rằng: “hãy cố gắng chống cộng quyết liệt, cực đoan hơn nữa rồi tiền cũng sẽ tự động chảy về túi chúng”.  Để rồi khi bị dư luận bóc mẽ, cô ả không ngại ngần lên mạng live stream “kêu khóc, thanh minh” này nọ rằng: “tôi và cha Thục đường hoàng, tử tế!... tôi chuyển tiền công khai chứ không giấu diếm!... Cha chỉ nhận tiền để chuyển lại cho các giáo dân chứ không tiêu xài cho cá nhân mình…!”.
Xin thưa, ả càng ngoác mồm kêu ca thì lại càng chứng tỏ câu nói “có tật giật mình” là đúng. Ít nhất là trong mối quan hệ nhập nhoèm giữa ả ta và Thục!
Từ lý lịch đen của cô ả này khiến chúng ta phải đánh giá lại nhân phẩm và tư cách mục vụ của ông Nguyễn Đình Thục, khi hầu hết các bức ảnh hoạt động của cô ả này đều có bóng dáng của Thục, từ nhận tiền đến ngồi chung mâm, thậm chí là chung một chiếc ghế ngồi (trong xe riêng) khi Hoàng Đức Bình bị lực lượng chức năng bắt giữ. Có thể khẳng định rằng, Nguyễn Đình Thục giờ đây đã vượt quá xa giới hạn đơn thuần của một vị linh mục quản xứ, làm biến dạng hoàn toàn những giáo lý, giáo điều mà Đức Kito đã dày công, xây dựng. Thục đang lợi dụng đức tin của rất, rất nhiều giáo dân để phục vụ mưu đồ lấn làn chính trị, Thục liệu đã nhìn thấy giáo dân của hắn đang ngày một yếu mòn và chưa bao giờ ranh giới phạm pháp lại trở nên mong manh đến như vậy!
Bản thân Hoàng Đức Bình, Bạch Hồng Quyền cũng chỉ là một công cụ, một con tốt thí của các cá nhân, tổ chức phản động ngoại bang không hơn không kém, sau những tội lỗi đã gây nên, chúng được gì? Một ít tiền đổ về tài khoản đê tiêu xài? Một ít lăng xê của mấy trang mạng phản động hết đát và cũ rích từ hải ngoại? Một giật tít câu view, câu like từ mấy tên zân chủ giả cầy trong nước?... tất cả là quá ít nếu phải đánh đổi sự tự do và quyền công dân của mình. Kẻ tù tội đã có pháp luật trừng trị, nhưng còn một kẻ sống theo kiểu “chó chui gầm chạn” như Bạch Hồng Quyền, nay đây mai đó, trốn chui, trốn lủi trong ngóc ngách nhà thờ mà vẫn đăng đàn tỏ vẻ hống hách, thách thức pháp luật, đòi kêu gọi tẩy chay ngân hàng đã phong tỏa, cắt đứt nguồn sống của hắn thì đúng thật là chẳng ai có thể lý giải nổi. Hắn kêu gọi ai? Ai còn đứng về hắn ngoài mấy tên phản động chung hội chung thuyền? Tương lại hai đứa con thơ dại của hắn sẽ như thế nào khi có một người cha đốn mạt, ngu xuẩn như vậy?
Khi vị Giám mục GP Nguyễn Thái Hợp công khai đi lại với một loạt các thành viên trong tổ chức khủng bố Việt tân hải ngoại, thì những linh mục dưới trướng như Đặng Hữu Nam, Nguyễn Đình Thục (Nghệ An), Nguyễn Công Bình (Hà Tĩnh), Nguyễn Duy Tân (Đông Nai)… càng được nước làm càn là điều dễ hiểu, thậm chí gần đây linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong (Hà Nội) còn trắng trợn mượn giáo đường để tuyên truyền, xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ Bác Hồ, chà đạp lên hình ảnh thiêng liêng, cao quý nhất của dân tộc đúng vào ngày sinh nhật Bác.
Sau những gì đã thể hiện, Chính quyền dường như vẫn đang nhẹ tay và chờ đợi một sự sám hối, thay đối từ linh mục Nguyễn Đình Thục, còn nếu hắn vẫn ngang nhiên bất chấp, vẫn cố tình dựa hơi “bề trên” để làm loạn thì chưa ai dám chắc rằng hắn có còn được an toàn trong ngôi nhà mà hắn cho là bất khả xâm phạm nơi giáo xứ, bởi dư luận đã hết sức bức xúc và phẫn nộ trước những hành vi của linh mục Thục và nhiều lần yêu cầu chính quyền phải xử lý mạnh tay, nghiêm minh với con người này.
Quốc có quốc pháp, Gia có gia phong, mọi công dân đều phải tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải lên án và nghiêm trị, kể cả là linh mục./.




TỪ VỤ VIỆC CỦA NGUYỄN ĐÌNH THỤC, ĐẶNG HỮU NAM VÀ BÀI HỌC CHO NHỮNG KẺ ĐỘI LỐT TÔN GIÁO, MƯỢN DANH CHÚA ĐỂ HẠI DÂN, HẠI NƯỚC


Dư luận nhân dân cả nước ta, kể cả đồng bào có đạo, những ngày vừa qua rất bất bình trước việc ông Nguyễn Đình Thục - linh mục quản xứ Song Ngọc, xã Song Ngọc và ông Đặng Hữu Nam - linh mục quản xứ Phú Yên, xã An Hòa, huyện Quỳnh Lưu thường xuyên có những hành động lợi dụng chiêu bài đòi hỏi “quyền lợi” và “công lý” cho người dân, luôn gây ra những hành động cực đoan, trực tiếp xúi giục, kích động giáo dân có những hành vi vi phạm pháp luật, đẩy một số giáo dân vào vòng lao lý.
Đằng sau những lời rao giảng tại nhà thờ và trên mạng xã hội của ông Nguyễn Đình Thục và Đặng Hữu Nam là cả một âm mưu đen tối. Cụ thể là kích động giáo dân giáo xứ Song Ngọc, giáo xứ Phú Yên và một số giáo xứ lân cận vào tận Kỳ Anh, Hà Tĩnh đi khiếu kiện Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa, đòi bồi thường cho nhân dân do sự cố môi trường biển xảy ra năm 2016; song thực chất để thực hiện các hành vi gây rối, chống đối chính quyền. Những hành động của ông Thục, ông Nam là vi phạm cả pháp luật và giáo lý, giáo luật Ki-tô.
Việc làm vi phạm pháp luật của ông Thục, ông Nam là: Kích động người dân có những hành động khởi kiện trái pháp luật, không theo quy định của luật pháp; kích động người dân biểu tình kéo dài và có những hành vi cản trở giao thông, gây mất an ninh trật tự, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của giáo dân, gây thiệt hại về kinh tế cho nhân dân địa phương; kích động giáo dân chống đối người thi hành pháp luật, đập phá phương tiện, tấn công các lực lượng chức năng; giao giảng chống phá chế độ và trực tiếp “Cầu nguyện cho chế độ cộng sản mau mất đi”; tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng phản động Việt Tân đi theo để chống đối chính quyền, trong đó có các đối tượng đang bị truy nã là Bạch Hồng Quyền và đối tượng chống phá cộm cán là Hoàng Đức Bình – với chức danh tự xưng là “Phó Chủ tịch Phong trào Lao động Việt” (một tổ chức phản động do chúng lập ra) của tổ chức phản động Việt Tân.
Linh mục Thục và Linh mục Nam không thực hành các tín điều mà Đức Chúa Giêsu và các Thánh đã căn dặn; không truyền dạy thấu đáo những điều kính Chúa yêu nước đến giáo dân. Trái lại, các ông đã biến nhà thờ thành nơi cổ vũ cho những việc làm phàm tục, luôn dành nhiều thời gian trong buổi lễ để bôi xấu chế độ, bôi bẩn tâm hồn trong sạch của giáo dân, nhuốm mầu hận thù trong con trẻ, kích động bạo lực và chống đối chính quyền trong thanh niên, giới trẻ, chia cắt tình nghĩa lương - giáo, gây mẫu thuẫn trong xã hội, bất bình an trong lòng dân.
Người đứng đầu một giáo xứ không lo chăm lo, coi sóc linh hồn và sự bằng an trong giáo dân, không lo truyền dạy những lời hay lẽ phải của Chúa, lời răn dạy của các Thánh,… mà lại can dự vào chính trị, vào việc đời, thì là sao có thể xứng đáng làm “Cha” để chăn dắt phần hồn của các con chiên. Những điều hay lẽ phải mà Đức Chúa Giêsu và các Tông đồ đã khắc ghi tại tập 27, chương X của Giáo luật rằng: “Không biến mình thành một lực lượng chính trị vì như thế là sai với bản chất và sứ mạng của Giáo hội”, của Kitô giáo, tại sao các ông “linh mục” đó không tự răn lấy mình và không truyền dạy cho giáo dân để làm sáng danh Chúa. Các ông sợ điều gì? Phải chăng các ông sợ “vạch áo thầy tu cho con chiên thấy Quỷ sứ”, và thấy bản chất của kẻ đội lốt, lợi dụng tôn giáo để phá hoại chính tôn giáo và phá hoại chính quyền và đời sống nhân dân?!
Làm trái việc Đạo, làm hại đến việc Đời, ấy là bản chất của xấu xa và sự tha hóa trong tâm hồn của những con người ý thức đen tối của ông Thục, ông Nam. Các ông nên nhớ, kẻ phản Chúa không chỉ là Judas, mà còn là những kẻ làm trái với tư tưởng, mong muốn của Chúa, phá hoại niềm tin nơi Chúa của chính giáo dân. Chưa nói đến sự bất bình trong xã hội và luật pháp, thì sự bất tin theo những xằng bậy ở mỗi giáo dân đối với ông Thục và ông Nam cũng đã quá lắm rồi. Hãy dừng ngay những hành vi trái đạo, trái đời của các ông lại, khi còn chưa muộn.

Giáo dân các nơi cả nước đã không còn tin ở các ông, giáo xứ nhiều nơi cũng như Giáo hội Công giáo Việt Nam đã thấy xấu hổ vì những hành vi làm ô nhục “Nước Chúa” của các ông Thục, ông Nam. Giáo dân đã thực sự tin Chúa, chứ không tin những kẻ đội lốt tôn giáo như các ông./.

Nguyễn Đình Thục kết cục của sự lừa bịp

                         

          Trong thời gian vừa qua trên các trang mang lan chuyền những hình ảnh linh mục Nguyễn Đình Thục (tức linh mục Nguyễn Đình Thục, quản xứ Song Ngọc, xã Quỳnh Ngọc, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) cùng một số phần tử phản động lợi dụng sự cố ô nhiễm môi trường biển miền Trung do Formosa gây ra, đã kêu gọi, kích động số giáo dân quá khích đến gây rối, ra sức xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo sự thật, đổi trắng thay đen làm cho một số người “nhẹ dạ cả tin” trong bà con giáo dân lầm tưởng rằng việc làm đó là đi theo tiếng gọi của Chúa, mang phúc lộc cho các con chiên ngoan đạo để rồi nghe lời xúi giục kích động của họ tham gia tụ tập, biểu tình, gây rối vi phạm pháp luật. Đó là việc làm hoàn toàn sai trái của linh mục Nguyễn Đình Thục.                                                                                              Ngay trong thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam, ngày 1-5-1980, đã khẳng định đường hướng mục vụ là: “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”. Thư mục vụ đề ra nhiệm vụ cụ thể: “Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng Tổ quốc” và “Xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả Đức Tin phù hợp hơn với truyền thống dân tộc”. Đặc biệt, thư mục vụ còn viết: “Lòng yêu nước của chúng ta phải thiết thực, nghĩa là chúng ta phải ý thức những vấn đề hiện tại của quê hương, phải hiểu biết đường lối, chính sách và pháp luật của Nhà nước, và tích cực cùng đồng bào toàn quốc góp phần bảo vệ xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, tự do và hạnh phúc”.                         Hành vi kích động giáo dân nổi dậy, tụ tập đông người, kích động … là hành vi đi ngược lại với hình thức và phương pháp hoạt động của Hội đồng Giám mục Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng pháp luật Việt Nam. Những điều nêu trên cho thấy, linh mục Nguyễn Đình Thục đã mượn danh nghĩa đấng tối cao của thiên chúa để chà đạp lên giáo lí, đức tin của Chúa, đồng thời chà đạp lên niềm tin tôn giáo trong sáng của những con chiên và chính điều đó báo hiệu vở kịch của linh mục Nguyễn Đình Thục đã đến hồi kết. Giáo dân những người một thời đã tin và nghe theo lời xúi giục kích động của linh mục, nay đã đứng lên vạch trần bộ mặt thâm độc nham hiểm, nhân danh chúa để lừa bịp con chiên, nhân danh chúa để đi ngược giáo lý các đường hướng hành động của thiên chúa. Biểu hiện cụ thể như; tối ngày 01.6.2017, đông đảo bà con nhân dân các xã Sơn Hải, Quỳnh Ngọc, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An tiếp tục tập trung tại nhiều địa điểm nhằm lên án, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật của linh mục Nguyễn Đình Thục trong thời gian qua.                                              Cha ông ta xưa có câu "nói phải củ cải cũng nghe", linh mục Nguyễn Đình Thục dù có mươn danh nghĩa gì đi chăng nữa, các giáo dân có coi ông là vị linh mục quyền uy đi chăng nữa. Nhưng một khi Ông không làm tròn một linh mục, đi ngược những giáo lý, đường hướng  mục vụ  “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào” thì  trước sau nhân dân sẽ  đứng lên phản đối và vạch trần bộ mặt thâm độc nham hiểm của Ông, đó là điều tất yếu không cần phải bàn cãi./.                                                                                                           

Tăng cường, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân – Cội nguồn sức mạnh Việt Nam trong giai đoạn hiện nay



Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn tám thập niên qua đã chứng minh mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhân dân Việt Nam là mối quan hệ gắn bó trong một chỉnh thể thống nhất. Sự thống nhất đó là nhân tố cơ bản làm nên những thắng lợi vĩ đại, huy hoàng của dân tộc ta trong cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến chống xâm lược; làm nên những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Đó là thực tế không thể phủ nhận.
Quá trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định sức mạnh “dời non, lấp biển” của sự thống nhất “ý Đảng và lòng dân”; giữa lý tưởng của Đảng với khát vọng “không có gì quý hơn độc lập tự do” của Nhân Dân Việt Nam; sức mạnh của sự thống nhất giữa ý Đảng và lòng dân trong mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thực tế lịch sử cách mạng nước ta cho thấy, mệnh đề “Đảng với nhân dân là một” không phải là câu khẩu hiệu mà là bản chất mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân Dân. Bản chất mối quan hệ này thể hiện tập trung ở chỗ: lý do ra đời, tồn tại và mục tiêu hoạt động của Đảng là vì Nhân dân, vì độc lập, tự do và hạnh phúc của Nhân Dân; nguồn sức mạnh bất tận và vô địch của Đảng là từ Nhân dân, ở trong Nhân dân; Đảng là của Dân, vì Dân, Đảng quan tâm chăm lo đến Dân; Dân một lòng, một dạ theo Đảng, chiến đấu dưới ngọn cờ của Đảng. Điều đó đã được biểu hiện cụ thể sinh động trong thực tiễn cách mạng Việt Nam suốt hơn tám thập niên qua, là nhân tố cơ bản, sức mạnh chủ yếu và động lực quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong mối quan hệ đó Đảng là người tổ chức, lãnh đạo Nhân dân, còn Nhân dân là lực lượng tiến hành cách mạng. Sự lãnh đạo của Đảng kết hợp với tính tích cực, sáng tạo của Nhân dân tạo ra cho cách mạng một sức mạnh vô cùng to lớn. Sức mạnh vô địch của Đảng là ở mối liên hệ với Nhân dân, sức mạnh dời non lấp biển của Nhân dân bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng. Nói cách khác, liên hệ mật thiết với Nhân dân là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng Cộng sản, là nguồn gốc sức mạnh của Đảng, bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp cánh mạng do Đảng lãnh đạo. Củng cố mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân là vấn đề thuộc về bản chất của Đảng Cộng sản - Đảng ra đời và tồn tại vì sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và đấu tranh cho lợi ích của toàn thể Nhân dân lao động. Đó cũng là nguyên tắc bất di bất dịch của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng.
Vấn đề củng cố và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân càng trở nên cấp bách và quan trọng trong giai đoạn hiện nay khi Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây vừa là vấn đề quyết định sự sống còn của Đảng, vừa là bảo đảm quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của hệ thống chính trị của xã hội. Bất kỳ một sự làm suy yếu nào mối liên hệ giữa Đảng và Nhân dân cũng đều làm yếu sức mạnh của hệ thống chính trị, làm chậm sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh hiện nay./.

                                                              

NGUYỄN TRỌNG DÂN XUYÊN TẠC VỀ VỤ NỔ Ở FORMOSA HÀ TĨNH



Trước vụ nổ ở nhà máy Formosa vào ngày 30/5/2017, Nguyễn Trọng Dân – tên phản quốc đã có bài viết trên trang mạng internet “danlambao” thổi phồng sự việc, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, kích động người dân. Theo thông tin ban đầu từ Zing.vn, đây là vụ nổ lò luyện vôi của nhà máy và ít gây nghiêm trọng. Tuy nhiên, Nguyễn Trọng Dân đã thổi phồng sự việc, cho rằng: “sự cố nổ này là đại thảm họa cho toàn bộ người dân Hà Tĩnh, không chừa một ai nếu các lượng khí độc tung tóe ra từ vụ nổ quá cao”. Tiếp theo, hắn đã có những lời lẽ xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước, chính quyền sẽ che dấu thông tin về sự thiệt hại giống như việc che dấu thông tin sau sự cố môi trường biển để bảo kê cho Formosa. Như vậy, có thể thấy những lời lẽ của Nguyễn Trọng Dân đưa ra là những luận điệu xuyên tạc, thiếu căn cứ với mục đích làm cho người dân mất lòng tin vào Đảng, Nhà nước, chính quyền và nghe theo sự xúi giục của kẻ thù. Bằng những đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và những việc làm cụ thể của Bộ Tài nguyên và Môi trường, của chính quyền các cấp để khắc phục hậu quả môi trường, ổn định đời sống cho người dân ven biển, chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, chính quyền. Vì vậy, mỗi người dân cần hết sức tỉnh táo, nhìn nhận rõ bộ mặt thật của kẻ phản quốc, không nghe theo sự xúi giục của chúng.

NHỮNG CHIÊU TRÒ MẠO DANH CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


Thời gian gần đây, các thế lực thù địch và đối tượng xấu tăng cường sử dụng những thủ đoạn tinh vi để chống phá, chia rẽ nội bộ, chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân ta bằng những chiêu trò cũ rích như mạo danh cán bộ có uy tín, nhất là một số cán bộ lão thành có nhiều đóng góp cho Cách mạng và người nổi tiếng.
Những đơn thư tố cáo theo kiểu “cáo mượn oai hùm”, “ném đá giấu tay” để bịa đặt, vu khống các lãnh tụ, tiền bối và hạ thấp danh dự, uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội và lực lượng vũ trang, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, phá hoại quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng.

Hiện tượng này đã không còn mới và dư luận xã hội cũng đã quen thuộc đến mức ít bận tâm nhưng chúng ta vẫn cần phải khái quát, nhận diện và cảnh giác cao độ trước những chiêu trò mạo danh, chia rẽ nội bộ này để góp phần đấu tranh giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng./.

ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” NHẰM TÍCH CỰC NGĂN CHẶN VĂN HÓA XẤU, ĐỘC CỦA KẺ THÙ


                                       
Hiện nay kẻ thù sử dụng phương thức tác chiến “diễn biến hòa bình” là kiểu chiến tranh không còn mới, nên mỗi chúng ta đều dễ dàng nhận thấy bản chất, hành vi, mục đích của kẻ địch đang ra sức chống phá Cách mạng Việt Nam, hòng xóa bỏ vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng, làm giảm sút lòng tin, ý chí của nhân dân với Đảng, phi chính trị hóa quân đội. Bên cạnh đó, trong quá trình xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh, tích cực ở các đơn vị cơ sở còn phải chịu sự tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ của điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nếu lãnh đạo, chỉ huy các cấp không thật sự quan tâm đến vấn đề này thì sẽ gặp phải không ít khó khăn trong việc định hướng giá trị sống, giáo dục nhân cách, rèn luyện thói quen, hành vi tốt cho cán bộ, chiễn sĩ.
Cái khó khăn hiện nay khi tham gia xây dựng môi trường văn hóa quân sự tích cực, lành mạnh là việc các chủ thể khó phân định, nhận biết, phát hiện kẻ thù của văn hóa khi đối tác và đối tượng đan xen với nhau, trong đối tượng có đối tác và trong đối tác có đối tượng và hơn thế, việc đối phó với kẻ thù khi khát vọng của chúng ta và nhân loại tiến bộ là giữ vững hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Với “diến biến hòa bình” quân đội là một trong những trọng điểm tiến công, kẻ địch muốn tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, tối thiểu là biến quân đội thành lực lượng “trung lập”, án binh bất động trước các sự kiện biến nguy của chế độ. Vì vậy, từng cán bộ, chiến sĩ đơn vị cần nhận thức sâu sắc, đầy đủ vấn đề này, thường xuyên nêu cao cảnh giác và đấu tranh bền bỉ, hiệu quả với “diễn biến hòa bình”.
Xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh, tích cực cần phải đi đôi với tiến hành cuộc đấu tranh kiên quyết, kiên trì với những biểu hiện vô văn hóa, phi văn hóa, phản văn hóa ngay trong nội bộ từng đơn vị, cả bên ngoài xã hội. Muốn vậy, cần phải tăng cường công tác giáo dục nâng cao trình độ hiểu biết cho cán bộ, chiến sĩ về tác hại của tệ nạn xã hội và văn hóa xấu độc, trên cơ sở đó từng bước xây dựng tính tự giác, tích cực cho mọi người trong việc chủ động ngăn chặn các hiện tượng, sản phẩm văn hóa xấu độc thẩm lậu vào đơn vị.
Lãnh đạo, chỉ huy đơn vị cần thường xuyên tổ chức các cuộc kiểm tra, thu giữ và xử lý nghiêm các trường hợp sử dụng các ấn phẩm văn hóa độc hại. Hình thành được dư luận tập thể quân nhân tích cực để kịp thời lên án, phê phán các tệ nạn xã hội, những hành vi, thói quen xấu tồn tại trong đơn vị: việc sử dụng rượu, chè bê tha; hút, chích ma túy, chơi cờ bạc, số đề, mại dâm, Games online,… Cùng với đó là các biểu hiện của sự khủng hoảng, tổn thương tâm lý ở một bộ phận cán bộ, chiến sĩ trẻ hiện nay đang dẫn tới các hành vi tiêu cực: hiện tượng tự tử, tự thương, tự sát, tự kỷ,...Thực trạng trên đã để lại những hậu quả nghiêm trọng cho gia đình, người thân và đơn vị.
 Quản lý, giáo dục, xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh, tích cực là một lĩnh vực khó khăn, phức tạp, lâu dài. Các chủ thể tham gia hoạt động này cần phải được nhận thức đầy đủ, phát huy trách nhiệm và phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các cấp, nhất là cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chức năng, đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý, duy trì các hoạt động văn hóa và toàn thể cán bộ, chiến sỹ. Có như vậy, mới đạt được hiệu quả mong muốn, góp phần xây dựng môi trường văn hóa quân đội tốt đẹp, lành mạnh ./.


ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH BẢO VỆ CƯƠNG LĨNH, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG


                                     
Đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn chính trị, chống phá Cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam của các thế lực thù địch, đồng thời có giải pháp ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa” trong nội bộ, củng cố sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận toàn dân trong xã hội là nhiệm vụ hết sức quan trọng của toàn Đảng, toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay.
1. Âm mưu, thủ đoạn và mục tiêu chống phá
Gần đây, các thế lực thù địch đã và đang liên tục chống phá cách mạng nước ta hết sức tinh vi và quyết liệt. Mũi nhọn quan trọng và thâm độc nhất là tiến công vào nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam; đồng thời phủ định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chế độ XHCN và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam… Cùng với đó, các phần tử cơ hội về chính trị và chống đối đã thành lập các tổ chức, nhóm, hội bí mật phát tán các tài liệu bất hợp pháp, tung tin đồn nhảm, xuyên tạc tình hình, truyền bá những quan điểm sai trái chống đối Đảng, chính quyền các cấp. Một số người ở nước ngoài đưa ra luận điệu bịa đặt, chống đối Đảng, Nhà nước Việt Nam, xuyên tạc sự thật, nói xấu lãnh tụ, bôi nhọ danh nhân và anh hùng dân tộc. Họ đòi Đảng từ bỏ quyền lãnh đạo, đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; bác bỏ con đường XHCN, đòi đa nguyên, đa đảng...
Theo thống kê, hiện nay ở bên ngoài có tới hơn 50 đài phát thanh và truyền hình có chương trình Việt ngữ, trang mạng in-tơ-nét, hàng trăm tờ báo, tạp chí, hơn 40 nhà xuất bản tập trung tuyên truyền chống phá ta. Hằng năm, có hơn 3.000 tài liệu chiến tranh tâm lý phá hoại tư tưởng, hàng chục nghìn thư ân xá quốc tế xâm nhập, tán phát qua con đường bưu điện quốc tế cùng rất nhiều ấn phẩm độc hại được đưa vào nước ta bằng nhiều con đường khác nhau. Một số đối tượng cơ hội chính trị, phần tử bất mãn, cực đoan, quá khích đang sống, làm việc thụ hưởng thành quả cách mạng do Đảng và nhân dân mang lại, nhưng lại lén lút cộng tác với những phần tử bất mãn, phản động nước ngoài để mưu cầu lợi ích cá nhân, bằng việc tiếp nhận, tán phát tài liệu có nội dung xấu, nói xấu chế độ, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam...
Những năm gần đây, các thế lực thù địch thường xuyên xuyên tạc chính sách về tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, phủ nhận thành tựu công cuộc đổi mới, lợi dụng những yếu kém để vu cáo chính quyền... kích động những người dân thiếu hiểu biết, dân tộc thiểu số vào các mục đích sai trái, âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, đồng bào miền xuôi và miền ngược, giữa người Kinh với đồng bào tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Bằng thủ đoạn chống phá tạo sự chuyển hóa từ bên trong và bên trên, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động đã thành công trong việc xóa bỏ chế độ XHCN ở Liên Xô (trước đây) và một số nước Đông Âu. Thực tế cho thấy, một nguyên nhân không nhỏ dẫn đến tình trạng đó còn là do sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… sự xa rời mục tiêu lý tưởng của Đảng, sự vô nguyên tắc, mất dân chủ, xem thường luật pháp Nhà nước; hiện tượng chia bè, kéo cánh, quan liêu, trục lợi, tranh quyền tranh chức, đi ngược lại đường lối, chủ trương của Đảng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; sự thiếu tu dưỡng, học tập, rèn luyện hoặc tôn sùng lối sống thực dụng, thích hưởng thụ, thu vén cá nhân hơn là cống hiến... Một khi tư tưởng chính trị chệch hướng, thì sẽ làm cho bộ máy Đảng và Nhà nước bị chia rẽ, dẫn đến nguy cơ tự sụp đổ của chế độ chính trị.

2. Không để bất kỳ thế lực nào có thể phá hoại đất nước

Nhân dân Việt Nam đã đi qua hai cuộc chiến tranh để bảo vệ và giải phóng, thống nhất đất nước mình nên càng thấu hiểu thế nào là tự do độc lập, thế nào là toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ở Việt Nam do Đảng Cộng sản khởi xướng và lãnh đạo suốt 30 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Vị thế của đất nước Việt Nam ngày càng được nâng cao, đời sống của hơn 90 triệu người dân Việt Nam ngày càng được cải thiện. Đảng ta, nhân dân ta luôn mong muốn một không khí hòa bình để xây dựng một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, nhưng các thế lực thù địch không để chúng ta yên. Vì vậy, việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, vạch trần các âm mưu, thủ đoạn các thế lực thù địch là một nhiệm vụ tất yếu, cần phải làm thật tốt. Để thực hiện được điều đó, cần nhận rõ các dạng quan điểm sai trái, những luận điệu thù địch để có những đối sách phù hợp. Tập trung xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, làm tốt công tác tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và toàn dân bằng cách tuyên truyền, tổ chức, giáo dục hướng tới sự thống nhất tư tưởng và thống nhất hành động trong toàn xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực - một thứ giặc nội xâm nguy hại để giữ vững niềm tin của nhân dân, bảo vệ pháp luật, bảo vệ Đảng, chế độ XHCN.
Hơn 87 năm qua, Đảng ta luôn coi trọng công tác đấu tranh chống những quan điểm sai trái, những luận điệu thù địch chống phá cách mạng. Đây là nhiệm vụ đặc biệt, cần có sự phối hợp đồng bộ, chỉ đạo chặt chẽ, huy động năng lực và trí tuệ của đội ngũ cán bộ trong toàn hệ thống chính trị nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh trong nhận thức tình cảm, tư tưởng của nhân dân.
Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cũng chính là sự khẳng định lập trường của Đảng và Nhà nước ta trước những biến động phức tạp trên thế giới và trong nước, từ đó củng cố nhận thức chính trị, giữ vững thế trận lòng dân, đưa sự nghiệp cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn. Cùng với đó là phối hợp làm tốt công tác vận động quần chúng, tăng cường và nâng cao hiệu quả đầu tư, thực hiện tốt phong trào chung sức xây dựng nông thôn mới, tích cực xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bồi đắp sự đồng thuận xã hội trong cộng đồng dân tộc, củng cố và tăng cường thế trận lòng dân vững chắc. Góp phần bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ lực lượng vũ trang và nhân dân, tăng cường sức đề kháng làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa quân đội”... của các thế lực thù địch.


ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN INTERNET TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

                                     
 Ở nước ta cũng như trên thế giới, internet, các trang mạng xã hội phát triển mạnh. Do đặc thù của internet là tốc độ truyền thông tin nhanh, diện tham chiếu rộng, thông tin gần như tức thì, tính “tự do” tương đối của những chủ thể thông tin, khả năng “gây nhiễu” lại khá rộng... nên những quan điểm sai trái trên internet có khả năng ảnh hưởng nhanh, rộng đến nhiều đối tượng. Trong thời gian qua, không ít thông tin trên mạng đã gây hoài nghi, hoang mang trong xã hội, nhất là một bộ phận trí thức và thanh niên, sinh viên-đối tượng thường xuyên tiếp cận với phương tiện này.
1. Nâng cao nhận thức và tinh thần chủ động đấu tranh trong tình hình mới
Quy mô, phạm vi ảnh hưởng của thông tin trên mạng internet rộng lớn hơn nhiều so với các phương tiện thông tin thông thường khác. Với internet, mọi người có khả năng và điều kiện rất thuận lợi trong việc tiếp cận trực tiếp với các nguồn thông tin. Thông tin trên mạng internet ngày càng phong phú, đa dạng đáp ứng ngày càng cao nhu cầu thông tin của công chúng trong nước và trên thế giới; tạo cơ hội thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ giao lưu, hội nhập quốc tế, tăng cường sự hợp tác và hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và bạn bè trên thế giới.
Trong những năm qua, internet góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đem lại lợi ích thiết thực cho người dân. Theo số liệu từ bản báo cáo Online and upcoming: The Internet’s impact on aspiring countries(1) của Công ty tư vấn quản lý toàn cầu McKinsey & Company, internet đã đóng góp 0,9% vào GDP của Việt Nam trong năm 2010 và dự báo sẽ sớm tiệm cận mức trung bình của khu vực (2%) và còn có thể đạt tới 2,5% trong tương lai(2). Hơn nữa, ý nghĩa giá trị vô hình mà internet mang lại còn lớn hơn rất nhiều so với những con số định lượng...
Tuy nhiên, internet đang được các thế lực phản động sử dụng để truyền bá, phát tán và gieo rắc các quan điểm sai trái, thù địch, thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình đối với CNXH. Chúng ra sức khai thác tất cả các vấn đề của đời sống kinh tế - xã hội nước ta, trong đó đặc biệt chú ý đến những thông tin về đời sống chính trị. Đây là những thông tin có ảnh hưởng rộng lớn, mạnh mẽ đến từng cá nhân trong xã hội, đặc biệt là ở những khu vực đô thị mật độ dân số đông, trình độ văn hóa cao. Điều này chủ yếu xuất phát từ những lý do cơ bản: Một là, thông tin chính trị chiếm vị trí quan trọng nhất trong sự quan tâm của nhân dân. Nguyên nhân của điều này xuất phát từ tâm lý truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta về ý thức chính trị - xã hội. Mặt khác, các thông tin chính trị bao giờ cũng có những mối liên quan trực tiếp, gần gũi với lợi ích của mỗi thành viên trong xã hội. Hai là, thông tin chính trị được khai thác trên internet được tái truyền thông mở rộng trong xã hội theo các con đường khác nhau như truyền miệng, khuếch tán tiếp trên mạng hoặc chuyển tiếp dưới dạng văn bản in ấn. Vì thế thông tin chính trị trên mạng có sức lan tỏa mạnh trong xã hội. Ba là, những thông tin chính trị trên internet tồn tại và được bảo toàn như một kho dữ liệu mở cửa cho mọi đối tượng ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Việc tiếp cận kho thông tin này ngày càng dễ dàng, thuận tiện hơn.
Trước tình hình đó, nâng cao nhận thức và tinh thần chủ động đấu tranh trên mặt trận truyền thông là nhiệm vụ cấp bách, nhằm tạo dựng hình ảnh trung thực về một Việt Nam gần gũi, thân thiện trong bạn bè quốc tế, giúp cho cộng đồng quốc tế hiểu hơn và tin tưởng hơn vào Việt Nam, giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn, vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Tuyên truyền những thành quả mà nhân dân ta đạt được trong nhiều năm qua là cơ sở thực tế vững chắc trong đấu tranh chống các luận điệu thù địch, sai trái. Qua 30 năm đổi mới, Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc. Trên nhiều phương diện, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Năm 2010, Việt Nam đã chính thức ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào ngưỡng của một nước có thu nhập trung bình. Đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình phấn đấu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Từ một quốc gia thường xuyên thiếu lương thực, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia hàng đầu xuất khẩu gạo, nhiều loại hàng hóa xuất khẩu khác của Việt Nam cũng đứng ở vị trí hàng đầu về sản lượng xuất khẩu trên thế giới. Nước ta đã cụ thể hóa tinh thần trách nhiệm với cộng đồng quốc tế bằng những hành động cụ thể, thiết thực, đóng góp vào hòa bình, hợp tác và phát triển giữa các nước trên thế giới. Việt Nam thực hiện Mục tiêu thiên niên kỷ (MDG) của Liên hợp quốc về đích sớm nhiều mục tiêu. Nước ta đã đạt được nhiều tiến bộ quan trọng về các vấn đề phát huy dân chủ, về an sinh xã hội.
 Hiệu ứng mà những kết quả đó mang lại sẽ được nâng cao hơn nếu khi nó lan tỏa rộng rãi đến với dư luận thế giới. Nhưng trước sự cách trở của không gian và ngôn ngữ, trước sự chống phá của các thế lực thù địch, nếu như chúng ta không tích cực, chủ động cung cấp thông tin thì vô hình trung sẽ tạo nên khoảng trống cho sự tồn tại của các luận điệu bịa đặt, xuyên tạc. Cung cấp thông tin một cách kịp thời, thường xuyên, chính xác, đầy đủ là sự phản bác có hiệu quả nhất đối với những luận điệu xuyên tạc, chống phá và cũng là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện yêu cầu “cần thoát khỏi thế “chống đỡ” để chuyển mạnh sang thế “tấn công” các thế lực thù địch.
2. Thường xuyên nâng cao cảnh giác, ngăn chặn mọi âm mưu, luận điệu xuyên tạc trên internet của các thế lực thù địch
Trong thời đại “thế giới phẳng”, “cuộc sống số”, thông tin đang dần trở thành nhu cầu thiết yếu của mọi cá nhân, tổ chức. Thông tin được khai thác trên internet có nội dung ngày càng đa dạng, phong phú, nhiều chiều. Các phương tiện tiếp nhận thông tin ngày càng hiện đại, tinh vi. Khó có thể cấm đoán công dân khai thác thông tin trong một xã hội thông tin hiện đại. Do vậy, tất yếu chúng ta phải có những giải pháp tối ưu giảm thiểu tác động của nó đến nhận thức của những chủ tiếp cận thông tin. Để làm tốt công tác này, cần chú trọng tới một số nội dung:
-  Các cấp ủy đảng chú trọng giáo dục cán bộ, đảng viên nâng cao bản lĩnh chính trị, trang bị phương pháp xem xét, tiếp cận thông tin một cách đúng đắn, khoa học.
- Nâng cao cảnh giác, đấu tranh với những nhận thức không đúng, ngộ nhận, mơ hồ trước các nguồn thông tin ngược chiều với quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Trong thời gian vừa qua, trên một số trang thông tin điện tử như “Dân làm báo”, “Quan làm báo”, “Biển Đông”... và một số trang mạng khác, các thế lực thù địch cùng các phần tử cơ hội thoái hóa biến chất trong nước liên tục đăng tải những thông tin vu khống, bịa đặt, xuyên tạc, không đúng sự thật nhằm bôi đen bộ máy lãnh đạo của đất nước, kích động chống Đảng và Nhà nước ta. Đây là mưu đồ nhằm gây hoài nghi và tạo nên những dư luận xấu trong xã hội, phương hại lòng tin của nhân dân đối với Đảng, ngăn cản mục đích tốt đẹp của chúng ta trong việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Bởi vậy, cần nâng cao ý thức tự giác, kỷ luật trong quá trình tiếp xúc, xử lý thông tin. Chấp hành tốt các quy định về quyền thông tin, phạm vi thông tin, tham gia tích cực đấu tranh chống truyền thông tin xấu, thông tin thất thiệt.
Đối với các cơ quan hữu quan và cơ quan chuyên trách cần có sự phân loại thông tin và điều chỉnh những cách thức đấu tranh, hạn chế, bài trừ cho phù hợp:
- Đối với nguồn tin do các thế lực phản động tự khai thác, đăng tải trên internet và trên các trang báo mạng quốc tế đặt máy chủ ở nước ngoài, ta khó có thể tác động trực tiếp bằng luật pháp hay các công cụ quản lý. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng vẫn có thể hạn chế bằng cách kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ những thông tin đó xuất phát từ nguồn nào, khi cần có thể dùng biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn một cách kịp thời, hiệu quả. Nhưng quan trọng và căn bản vẫn là tạo sức đề kháng cho mỗi cư dân mạng để có thể chống đỡ tác động từ thông tin, quan điểm sai trái, thù địch. Muốn vậy cần tăng cường thông tin chính thống để thỏa mãn nhu cầu thông tin cho nhân dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và đông đảo bạn bè quốc tế.
- Đối với nguồn tin được cung cấp có chủ đích trong nước và nguồn tin từ báo chí của ta, chúng ta có khả năng chủ động giảm thiểu để dẫn tới khắc phục một cách căn bản bằng các giải pháp như giáo dục và thực hiện nghiêm luật và các quy định về giữ bí mật, hướng dẫn nghiệp vụ các cơ quan, tổ chức, cho đội ngũ nhà báo thường xuyên tác nghiệp trên internet
Các bộ, các ngành chức năng phối hợp tổ chức tốt công tác nắm tình hình dư luận xã hội, các luồng tư tưởng, tâm lý, chủ động cập nhật thông tin về đường lối chính trị, kinh tế, chính sách đối ngoại của các nước; âm mưu, ý đồ của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng nước ta... Từ đó, tham mưu cho Đảng, Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh công tác đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, nhất là trên các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định trong nước, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triền kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.
Ngoài ra, tăng cường hợp tác văn hóa thông tin với các nước, tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế nhưng cần đấu tranh để giữ thế chủ động; đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh quốc gia, đồng thời không làm tổn hại đến quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và các nước khác.
3. Đẩy mạnh hoạt động của các cơ quan báo chí, truyền thông trên internet
Báo chí truyền thông là công cụ sắc bén và là lực lượng đi đầu trong công tác đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên
internet. Hiện nay nước ta có 62 báo điện tử, 1024 trang tin điện tử tổng hợp chung (trong đó có 300 trang của các cơ quan báo chí); tổng số trang mạng xã hội 191 trang; tổng số blog trên 2 triệu...
Thông qua internet, các cơ quan báo chí, truyền thông phải tích cực khẳng định những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam của cách mạng Việt Nam và tính đúng đắn con đường đi lên CNXH của nước ta; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết để hoàn thành mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; đồng thời làm rõ cơ sở khoa học của đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về đoàn kết dân tộc, dân chủ, nhân quyền, về hệ thống chính trị - Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Internet đang trở thành phương tiện hiện đại và phương thức mang lại hiệu quả cao cho các cơ quan báo chí, truyền thông trong việc tuyên truyền, phổ biến và góp phần đưa các nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống; chỉ rõ những thành tựu, hạn chế cũng như những bài học kinh nghiệm đổi mới và hội nhập quốc tế.
Tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh này đòi lực lượng làm công tác thông tin đại chúng - những “chiến sỹ xung kích” trên mặt trận tư tưởng văn hóa phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ nghiệp vụ cao, ngòi bút sắc bén. Hiệu quả của cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch còn phụ thuộc rất nhiều vào tài trí của đội ngũ những người tác nghiệp trên internet. Tài trí thể hiện ở chỗ vạch trần được bản chất, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, góp phần tích cực triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế của Việt Nam. Muốn vậy, lực lượng này cần được thường xuyên trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn, bồi dưỡng nghiệp vụ, trước hết là được trang bị đầy đủ, vững chắc lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình tác nghiệp, thông tin trước khi được đưa ra và đăng tải trên internet, những người làm báo mạng cần phải trung thực, cách tiếp cận sự kiện, cách nêu vấn đề cần phải đứng trên lợi ích lâu dài của đất nước, dân tộc; thông tin mang tính chất xây dựng, nói cái xấu để khắc phục, nêu cái tốt để khuyến khích phát triển.
Nhanh chóng tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, bảo đảm phát huy tính hiệu quả của các phương tiện thông tin đại chúng. Đổi mới nhanh trang thiết bị kỹ thuật thông tin để có thể hoà nhập vào trình độ kỹ thuật thông tin thế giới, nhằm phát huy được hiệu quả của các phương tiện thông tin đại chúng. Sóng phát thanh, truyền hình không những cần mở rộng diện phủ sóng, tăng tần suất mà còn phải được hòa vào mạng internet để độc giả trong và ngoài nước tiếp cận thông tin một cách nhanh nhất, chính xác và đầy đủ nhất. Các ấn phẩm báo chí điện tử phải không ngừng đổi mới về hình thức và nội dung, nâng cao chất lượng nhằm tăng tính hấp dẫn, thu hút đông đảo người quan tâm và góp phần trao đổi thông tin với các tổ chức, các quốc gia trên thế giới.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ cũng như internet càng ngày càng phát triển, cần xây dựng hệ thống báo chí truyền thông phong phú, đa dạng, đảm bảo đủ sức mạnh và khả năng để đáp ứng một cách tích cực các nhu cầu thông tin ngày càng tăng. Các cơ quan báo chí truyền thông cần tiếp tục mở thêm các trang báo điện tử mới theo hướng tăng về số lượng, với nhiều địa chỉ để tạo ra nhiều kênh tiếp xúc khác nhau, đồng thời khác phải không ngừng hoàn thiện những trang đã có, nâng cao chất lượng, tăng tính hấp dẫn nhằm thu hút lượng truy cập. Các báo điện tử, trang tin điện tử chú trọng đổi mới, xây dựng giao diện riêng cho điện thoại di động, tạo điều kiện cho số đông cư dân mạng, nhất là giới trẻ thường xuyên truy cập internet qua mạng di động có thể dễ dàng khai thác, tìm kiếm thông tin chính thống.
Bên cạnh đó, cần xây dựng những kênh thông tin trên mạng vừa tin cậy đối với Đảng và Nhà nước, vừa thân thiện với cộng đồng mạng để thực hành công tác thông tin, tuyên truyền một cách nhanh nhạy, hiệu quả, đồng thời là kênh trực tuyến trao đổi, tranh luận, giải thích với những người có ý kiến, quan điểm khác biệt, hoặc phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, chống đối chế độ. Cần đầu tư kinh phí thích đáng cho các cơ quan chức năng thực hiện các dự án sản xuất các phần mềm, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại để ngăn chặn các website, báo điện tử , blog, thư điện tử độc hại trên internet và trên mạng điện thoại di động. Cũng trong điều kiện đó, truyền thông đại chúng mới có đủ khả năng và sức mạnh tham gia vào hoạt động giao lưu quốc tế, có khả năng tiếp nhận, xử lý và khuếch tán vào dòng thông tin truyền thông quốc tế một lượng đủ lớn, đủ mạnh để tạo ra một tiếng nói công bằng, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân các nước, góp phần vào cuộc đấu tranh của các nước đang phát triển về một “trật tự thông tin quốc tế mới”; qua đó phát huy và bảo vệ những lợi ích kinh tế, định hướng chính trị, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá dân tộc.

CẦN VẠCH TRẦN CÁI GỌI LÀ "DÂN CHỦ", "NHÂN QUYỀN" CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


Trong những ngày vừa qua, trên các trang mạng xã hội, các thế lực thù địch đã và đang tăng cường chống phá Đảng và Nhà nước ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và quyết liệt. Núp dưới chiêu bài "dân chủ, nhân quyền”, họ tự xưng mình là những người có "sứ mệnh" đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền Việt Nam. Vậy thực chất quan điểm chính trị của họ là gì? Họ thường xuyên đăng tải những thông tin sai trái, thù địch, bịa đặt những vấn đề "dân chủ, nhân quyền" nhằm nói xấu chế độ ở Việt Nam.
Như chúng ta đã biết, trong thời đại hiện nay của thế giới hiện đại, dân chủ, nhân quyền được xem là giá trị chung của nhân loại. Không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa các dân tộc trên thế giới đều có đóng góp nhất định vào giá trị chung đó. Thực tiễn đời sống chính trị quốc tế cho thấy, không có mô hình "chuẩn" về dân chủ, nhân quyền, mà chỉ có những mô hình cụ thể dựa trên những giá trị phổ quát được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người.
 Thế nhưng, trên mạng xã hội hiện nay, có một số tổ chức, cá nhân tự nhận mình là "nhà dân chủ", sùng bái mô hình dân chủ, nhân quyền của phương Tây, coi đó là "chuẩn", là "mặc định". Từ đó, họ ra sức xuyên tạc, vu cáo, phủ nhận chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, nhằm hướng sự phát triển của đất nước ta theo mô hình dân chủ, nhân quyền của phương Tây.
 Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, một trong những thành tựu đó là Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và phát huy quyền tự do, dân chủ của nhân dân trong tiến trình phát triển của đất nước, điều này đã được ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền của người dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, giáo dục, tôn giáo, tự do tín ngưỡng...Đặc biệt là trong các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an ninh lương thực, an sinh xã hội, thực hiện tốt các Mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (MDGs).
Hiện nay, các thế lực thù địch không chỉ phủ nhận chế độ dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, các thế lực thù địch - những kẻ thường xuyên lợi dụng "dân chủ", "nhân quyền", tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại cách mạng Việt Nam. Tiêu biểu trong số những tên lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá sự phát triển đất nước ta là nhân vật Hoàng Đức Bình và đồng bọn.
Như chúng ta đã biết, tháng 5/2016, đất nước sục sôi trước việc công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa xã thải ra môi trường gây nên thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế đất nước và ngư dân các tỉnh miền Trung. Người dân cả nước đã hướng về miền Trung với những thông cảm, sẻ chia và sẵn sàng Tâm, Trí, Lực cùng Chính phủ “chung lưng, đấu cật” kêu gọi lẽ phải, yêu cầu công ty Formosa phải xin lỗi và bồi thường thiệt hại cho ngư dân. Tuy nhiên, trong lúc Chính phủ cùng các Bộ ngành liên quan đang tìm cách khắc phục hậu quả, đền bù thiệt hại cho ngư dân theo quy định thì lợi dụng danh nghĩa “bảo vệ quyền lợi cho ngư dân”, Hoàng Đức Bình tham gia vào tổ chức cái gọi là “Hiệp hội ngư dân miền Trung”, tích cực la lết khắp khu vực từ Nghệ An vào Hà Tĩnh nhằm lợi dụng sự cố ô nhiễm môi trường biển tại các tỉnh miền Trung để kích động quần chúng tham gia các cuộc biểu tình, gây rối ANTT; trực tiếp vận động số linh mục cực đoan và giáo dân viết đơn kiện yêu cầu Formosa phải bồi thường thiệt hại, chặn xe trên tuyến đường quốc lộ 1A gây ác tắc giao thông, ảnh hưởng xấu đến ANTT, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân.
Những hoạt động nói trên của những kẻ lợi dụng "dân chủ", "nhân quyền" cũng như của các thế lực thù địch chẳng qua chỉ là trò bịa đặt, "bóp méo sự thật". Hành động của họ chẳng lừa được ai, chắc chắn sẽ bị lên án, bác bỏ. Nhìn lại những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực bảo đảm dân chủ, nhân quyền, có thể khẳng định rằng, đó là những thành tựu to lớn, không thể phủ nhận được. Những "phát biểu", "điều trần" của cá nhân này, tổ chức nọ nhằm bóp méo tình hình nhân quyền ở Việt Nam chỉ là những tiếng nói lạc lõng, xa lạ với cộng đồng quốc tế. Nó đã, đang và tiếp tục bị cộng đồng quốc tế vạch trần, lên án.
Cảnh giác, đấu tranh vạch trần các quan điểm tư tưởng sai trái thù địch, bịa đặt, bóp méo sự thật cũng chính là sự khẳng định lập trường của Đảng và Nhà nước ta trước những biến động phức tạp trên thế giới và trong nước, từ đó củng cố nhận thức chính trị, giữ vững thế trận lòng dân, đưa sự nghiệp cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn.


CẦN CÓ CÁCH NHÌN KHÁCH QUAN VỀ TÌNH HÌNH QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM



Đã từ lâu, ở nước ngoài, một số người vốn kỳ thị với chế độ xã hội do Đảng Cộng sản lãnh đạo, trong đó có Việt Nam, và một số kẻ cực hữu, nhất là ở Hạ viện Hoa Kỳ, Nghị viện Châu Âu, cùng với một số hãng thông tấn, báo chí phương Tây, trong đó có RFA, VOA, BBC… luôn đưa tin xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền.
Ở trong nước, một số người vì những lý do khác nhau muốn chuyển hóa chế độ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sang mô hình xã hội “dân chủ”, “nhân quyền” ngoại nhập đã lợi dụng bối cảnh toàn cầu hóa, những khó khăn của nền kinh tế đất nước để xuyên tạc, bôi đen tình hình dân chủ, nhân quyền Việt Nam.
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là giá trị cao quý chung của các dân tộc. Với tư cách là giá trị pháp lý, quyền con người là quy định pháp luật (trong luật quốc gia và luật quốc tế) nhằm bảo vệ nhân phẩm, các nhu cầu về vật chất, tinh thần của tất cả mọi người, đồng thời mỗi người phải có nghĩa vụ tôn trọng an ninh quốc gia, trật tự công cộng, quyền và lợi ích của người khác và những giá trị văn hóa, đạo đức xã hội. Nói một cách cụ thể: Không cá nhân, tổ chức nào được nhân danh uyền con người để đứng ngoài xã hội, đứng trên pháp luật. Điều này không phải chỉ đối với xã hội, Nhà nước ta mà cũng là quy định chung của các quốc gia trên thế giới.
Mặc dù uyền con người ở nước ta cũng như nhiều nước khác vẫn còn những hạn chế, khác biệt nào đó, chẳng hạn như một số quyền về kinh tế-xã hội ở nước ta, do thiếu nguồn lực nên chưa đáp ứng như ở các nước phát triển, hoặc về một số quyền dân sự, chính trị do truyền thống lịch sử và văn hóa, như quyền tự do ngôn luận, báo chí… pháp luật quy định không được phép xúc phạm lãnh tụ, kỳ thị tôn giáo... song có thể nói cho đến nay, quyền con người ở nước ta luôn được tôn trọng và bảo đảm cả trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị, pháp lý và trong thực tế.
Cương lĩnh Đại hội XII xác định mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là xây dựng một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Báo cáo chính trị Đại hội XII đã tái xác định quan điểm về quyền con người của Cương lĩnh: “Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền cũng như lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết”. Hiến pháp 2013 đã dành cả một chương (Chương II) quy định đầy đủ các quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân. Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết, tham gia đầy đủ những công ước quốc tế cơ bản về quyền con người. Đây là những cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người.
Trên thực tế, các QCN của nhân dân ta đã được bảo đảm tốt nhất trong những điều kiện của mình. Về các quyền dân sự, chính trị, việc bảo đảm các quyền này được thể hiện rõ trong cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIV. Tỷ lệ cử tri đã bỏ phiếu đạt 99,35%. Về cơ cấu đại biểu, có 86 đại biểu là người dân tộc thiểu số, phụ nữ là 133 người, người ngoài Đảng là 21 người... Tỷ lệ nữ và dân tộc thiểu số của Quốc hội Việt Nam so với nhiều quốc gia ở khu vực thuộc vào loại cao. Lần đầu tiên Việt Nam có Chủ tịch Quốc hội là nữ.
Về quyền tự do ngôn luận, báo chí, theo thống kê chưa đầy đủ, cho đến nay Việt Nam đã có 858 cơ quan báo chí in; 105 cơ quan báo điện tử; 207 trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí. Hiện nay, không chỉ người dân Việt Nam mà cư dân nước ngoài sinh sống, làm việc ở Việt Nam đều có đầy đủ thông tin từ những hãng thông tấn, báo chí lớn như: CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg. Qua internet, người dân Việt Nam cũng có thể tiếp cận tin tức, bài vở của các cơ quan thông tấn, báo chí như: AFP, AP, BBC, VOA, ReutersKyodoThe EconomistFinancial Times...
Nhiều chuyên gia đánh giá Việt Nam là quốc gia có tốc độ phát triển internet hàng đầu khu vực, đặc biệt là mạng Facebook. Theo cơ quan thống kê của mạng Facebook, hiện tại Việt Nam có 35 triệu người, bằng 1/3 dân số sở hữu tài khoản Facebook. Trong đó, 21 triệu người truy cập hằng ngày thông qua thiết bị di động. Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet lớn thứ 3 tại khu vực Đông Nam Á.
Về các quyền kinh tế-xã hội, mặc dù kinh tế thế giới và khu vực chưa ổn định sau thời kỳ suy giảm kéo dài, kinh tế nước ta đã được khôi phục. Năm 2016, kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn cơ bản được bảo đảm. Đời sống của người dân được bảo đảm, một bộ phận được nâng cao. Thực hiện chủ trương giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2020, Quốc hội, Chính phủ đã ra nhiều văn bản quy phạm pháp luật tập trung vào 6 nhóm chính sách chủ yếu: Tín dụng ưu đãi; giáo dục-đào tạo; y tế; nhà ở; đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động; hỗ trợ sinh kế; trợ giúp pháp lý… Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm gần đây đạt 6,5-7%/năm.
Thiết nghĩ, quan điểm của những cá nhân và tổ chức tự gọi là “đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền” chỉ dựa trên thông tin thất thiệt bao che cho một số cá nhân, những kẻ vi phạm pháp luật, tự cho mình quyền đứng trên pháp luật, đứng ngoài xã hội là một cách nhìn nhận hẹp hòi, thiển cận. Quyền con người theo cách nhìn nhận đúng đắn, khách quan cần nhìn nhận đối với cuộc sống của hàng triệu, hàng triệu con người, họ vừa là những công dân tốt trong khi hưởng thụ quyền con người vừa thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và xã hội. Cách nhìn nhận quyền con người dựa trên kỳ thị về chính trị, phủ nhận chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế-xã hội, trực tiếp bảo đảm các quyền con ngườivề dân sự, chính trị, kinh tế-xã hội… cũng là cách nhìn nhận méo mó về quyền con người với động cơ chính trị xấu, không thể chấp nhận được.