Thứ Hai, 27 tháng 11, 2023

ĐỐI NGOẠI QUỐC PHÒNG GÓP PHẦN BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ SỚM, TỪ XA TRONG GIAI ĐOẠN CHIẾN LƯỢC MỚI

   

Đối ngoại quốc phòng Việt Nam là bộ phận quan trọng của nền ngoại giao Nhà nước Việt Nam. Đối ngoại quốc phòng Việt Nam hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành và phát triển các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đối ngoại. Tuỳ theo tình hình và nhiệm vụ chính trị, quân sự trong từng giai đoạn cách mạng mà Đảng và Nhà nước ta có những chủ trương đối ngoại quốc phòng phù hợp với tình hình thực tế.

          Đối ngoại quốc phòng là bộ phận, kênh đối ngoại quan trọng; tổng thể các hoạt động, biện pháp hòa bình nhằm thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại, chính sách quốc phòng trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tham gia gìn giữ hòa bình, ổn định của khu vực và trên thế giới.

          Trong hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, cùng với hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước, ngoại giao nhân dân, hoạt động Đối ngoại quốc phòng không ngừng được đẩy mạnh theo hướng phát triển sâu, rộng cả về phạm vi và mức độ hợp tác với các quốc gia, các tổ chức, định chế quốc tế, góp phần từng bước đưa quốc phòng Việt Nam hội nhập thế giới.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng, thời gian qua đối ngoại quốc phòng đã quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng và có những đóng góp quan trọng vào những thành tựu đối ngoại chung của cả nước.

Công tác đối ngoại quốc phòng đã góp phần tạo thế vững chắc cho hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, xây dựng vành đai an ninh, duy trì môi trường hoà bình, ổn định, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho đất nước phát triển trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia; đồng thời, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của quân đội, nâng cao uy tín và vị thế của đất nước, của quân đội trên trường quốc tế.

Những thành tựu công tác đối ngoại quốc phòng đã thể hiện nỗ lực rất lớn của tất cả các lực lượng trong toàn quân. Bên cạnh đó, nghiêm túc kiểm điểm chúng ta thấy một số điểm còn tồn tại cần sớm khắc phục. Đó là, một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nhận thức kịp với diễn biến tình hình, nảy sinh tư tưởng giản đơn không nắm vững các nguyên tắc chỉ đạo trong hoạt động đối ngoại quốc phòng, chưa chú ý đến lợi ích quốc gia, lợi ích quốc phòng- an ninh của đất nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ… điều đó ảnh hưởng đến kết quả hoạt động đối ngoại quốc phòng của quân đội ta.

Nội dung hết sức quan trọng có tính quyết định đến chất lượng hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng, như Bác Hồ đã dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Như vậy, cán bộ quân đội nói chung và cán bộ làm công tác đối ngoại nói riêng phải nêu cao trách nhiệm của mình trong công tác đối ngoại quốc phòng, đồng thời thực hiện tốt các nội dung sau:

Quán triệt đường lối, quan điểm đối ngoại của Đảng và Nhà nước, các quy chế, nguyên tắc đối ngoại quốc phòng và công tác lãnh đạo chỉ đạo, quản lý và tổ chức tiến hành các hoạt động đối ngoại của đơn vị.

Đẩy mạnh tăng cường giáo dục cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền thực hiện đường lối chính sách đối ngoại và đối ngoại quốc phòng trở thành nhiệm vụ thường xuyên cấp thiết, không thể thiếu đối với mỗi người.

Đồng thời, thuòng xuyên kiểm tra, giám sát và quản lý các hoạt động đối ngoại quân sự của đơn vị; Tăng cường phối hợp, kết hợp các hoạt động đối ngoại quân sự của đơn vị với hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, ngoại giao nhân dân. Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bí mật quân sự, bí mật quốc gia, phòng chống “diễn biến hoà bình”.

Song song với đó, chủ động phát hiện, lựa chọn đội ngũ cán bộ đối ngoại quân sự; Đề xuất với cấp trên các vấn đề quốc phòng.   

Đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là sự  vận dụng sáng tạo quan điểm CNM-LN, tư tưởng HCM về công tác đối ngoại. Trước yêu cầu đổi mới của tình hình, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta luôn có sự phát triển mới cho phù hợp với thực tiễn đặt ra. Đường lối đối ngoại đúng đắn đã nâng vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời tạo ra cơ hội cho chúng ta phát triển kinh tế xã hội đất nước. Qua hơn 35 năm đổi mới, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá đã góp phần to lớn vào sự phát triển đất nước và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Với thế và lực mới, đối ngoại Việt Nam đã phát triển lên tầm cao mới: chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định và bền vững, trong đó có sự đóng góp quan trọng của đối ngoại quốc phòng góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển của đất nước trong những năm tới, góp phần bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa./.

CẢNH GIÁC VỚI LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI, XUYÊN TẠC VỀ TÌNH HÌNH BIỂN, ĐẢO TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

     Lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông, những năm qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã tung nhiều thông tin xuyên tạc, luận điệu sai trái nhằm chống phá công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta.

Biển, đảo nước ta là một phần lãnh thổ thiêng liêng, phần máu thịt không thể tách rời và có vị trí hết sức quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta được Đảng, Nhà nước lãnh đạo các lực lượng chức năng cùng các tầng lớp nhân dân thực hiện với nhiều giải pháp. Thế nhưng, trên các mạng xã hội như Facebook, YouTube, TikTok, Twitter,… có nhiều tổ chức, hội, nhóm chống đối, của những người tự xưng là “nhà báo”, “nhà dân chủ”, “công dân yêu nước”,... đưa ra các thông tin xấu, độc, luận điệu sai trái, xuyên tạc về đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

 Các tổ chức phản động lưu vong như: “Việt Tân”, “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”, “Triều Đại Việt”, “Tập hợp dân chủ đa nguyên”, hội nhóm trá hình trong nước như: “Lập Quyền Dân”, “Diễn đàn xã hội dân sự”, “Tập hợp Quốc dân Việt”… Các trang mạng “Tin tức hàng ngày”, “Báo tiếng dân”, “Luật khoa tạp chí”, “Thời báo”, “Chân trời mới”; các trang báo nước ngoài: “BBC”, “RFA”, “VOA”, RFI” và các tài khoản mạng xã hội như: “Thanh Hieu Bui”, “Nguyễn Văn Đài”, “Phạm Chí Dũng”,… đã phát tán bài viết, tài liệu, hình ảnh, video xuyên tạc tình hình, diễn biến phức tạp trên Biển Đông. Nhiều trang được đầu tư về tài chính, có hệ thống máy chủ, đội ngũ kỹ thuật và chuyên gia bảo mật riêng.

  Các đối tượng chống đối đã viết, đăng tải nhiều bài đưa ra các luận điệu xuyên tạc như: “Đảng, Nhà nước Việt Nam yếu hèn không dám sử dụng vũ lực”, “lãnh đạo Việt Nam vẫn im tiếng trong căng thẳng Bãi Tư Chính với Trung Quốc”, “Chính phủ Việt Nam luôn tìm cách bịt miệng báo chí”,… để kêu gọi biểu tình, bạo loạn lật đổ. Chúng lợi dụng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc để kích động người dân tạo nên các phong trào “bài Trung”, “thoát Trung” hay “thân Mỹ”, “liên minh quân sự”…với các nước lớn. Chúng còn đưa ra luận điệu “đòi” đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

 Đối tượng chúng hướng đến để tuyên truyền là những người thường xuyên sử dụng mạng xã hội, nhưng trọng tâm, trọng điểm là các thành phần bất mãn và các nhóm thanh niên, sinh viên “nhẹ dạ, cả tin”,… Từ đó, chúng mong muốn tạo lập lực lượng đối lập với Đảng, Nhà nước ta. Dưới danh nghĩa “đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo”, các đối tượng ở nước ngoài cấu kết với số đối tượng trong nước tìm cách hình thành, phát triển cái gọi là “xã hội dân sự” cùng các tổ chức, hội, nhóm bất hợp pháp.

  Trước âm mưu tung thông tin xấu, độc với các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch, chúng ta cần nhận diện rõ và phê phán “luận điệu muốn giữ vững độc lập, chủ quyền biển, đảo hiện nay thì phải “chống Trung”, “bài Trung” triệt để, phải “tẩy chay khách Trung Quốc”, “tẩy chay hàng hóa Trung Quốc”.

 Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, núi liền núi, sông liền sông, biển liền biển và có nhiều điểm tương đồng từ văn hóa, lịch sử cho đến thể chế chính trị hiện nay. Quan hệ giữa hai nước tuy có trải qua nhiều thăng trầm nhưng tình hữu nghị, hợp tác tốt đẹp giữa nhân dân hai nước không ngừng được bồi đắp qua nhiều thế hệ. Biển Đông là một phần quan trọng trong toàn bộ mối quan hệ Việt - Trung. Vì thế, chính sách của Việt Nam luôn nhất quán. Chúng ta lên án các hành vi xâm lấn trái phép của Trung Quốc, phản đối công khai, rộng rãi và vận động dư luận quốc tế, sự ủng hộ của các nước, kiên quyết không lùi bước, phát huy thế “chính nghĩa” của mình, đồng thời, tăng cường trao đổi, tích cực đối thoại song phương giữa hai Đảng, hai Nhà nước.

 Bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam là vấn đề hết sức thiêng liêng, nhưng cũng hết sức khó khăn, phức tạp và lâu dài, không thể nóng vội, chủ quan. Hoàng Sa và Trường Sa luôn trong trái tim của mỗi người Việt Nam. Trước sau như một, Việt Nam kiên quyết và kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích của đất nước; kiên trì quan hệ hữu nghị với Chính phủ và nhân dân Trung Quốc, giữ vững môi trường hòa bình và ổn định để phát triển. Việt Nam kiên trì chủ trương giải quyết những bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982); thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC).

 Trước tình hình hiện nay, đòi hỏi các cấp, ngành nâng cao hiệu quả công tác nắm tình hình, nghiên cứu, dự báo, phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn, đặc biệt là phương thức hoạt động mới của các thế lực thù địch trên không gian mạng để cùng nhân dân phản bác, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” liên quan đến tình hình biển, đảo. Cùng đó, tăng cường cung cấp thông tin chính thống về tình hình Biển Đông và bảo vệ chủ quyền biển, đảo một cách kịp thời, chính xác, khách quan, trung thực. Không để những “khoảng trống tâm lý, tâm trạng” trong cán bộ, đảng viên và nhân dân cho các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước… Tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982”./.

ĐẤU TRANH PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, XUYÊN TẠC CỦA THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982 ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ PHÂN ĐỊNH BIỂN

 Với việc Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 (sau đây gọi tắt là Công ước Luật biển 1982) lần lượt được các nước ký kết và có hiệu lực, lần đầu tiên loài người có một văn kiện pháp lý quốc tế tổng hợp toàn diện, đề cập những vấn đề quan trọng nhất về chế độ pháp lý của biển và đại dương, qui định rõ các quyền lợi và nghĩa vụ trên biển về nhiều mặt của các quốc gia (có biển cũng như không có biển, có chế độ kinh tế, chính trị - xã hội khác nhau, có trình độ phát triển khác nhau) đối với các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia cũng như đối với các vùng biển quốc tế.

Có thể nói, một trong những thành quả quan trọng của Công ước Luật biển 1982 là đã thiết lập một cách cụ thể và rõ ràng khái niệm, quy chế cũng như phạm vi các vùng biển. Giờ đây các quốc gia không chỉ có lãnh hải rộng 12 hải lý mà còn có những vùng biển khác như vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý và thềm lục địa rộng tối đa tới 350 hải lý tính từ đường cơ sở. Những quy định này của Công ước Luật biển 1982 đã mở rộng một cách đáng kể chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển nhưng đồng thời cũng làm xuất hiện thêm các vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa các nước có bờ biển nằm tiếp liền hoặc đối diện nhau.

Nằm ven Biển Đông và là một trong những quốc gia có bờ biển dài trong khu vực (khoảng 3260 km), theo các quy định của Công ước Luật biển 1982, Việt Nam được mở rộng chủ quyền, các quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán của mình ra các vùng biển và thềm lục địa rộng khoảng 1 triệu km2.. Việc mở rộng này đã làm xuất hiện những vùng biển và thềm lục địa chồng lấn cần phải được phân định với các nước láng giềng. Là thành viên Công ước Luật biển 1982, Việt Nam có nghĩa vụ phải giải quyết các tranh chấp này theo các quy định của Công ước.

Mỗi quốc gia có quyền đơn phương tuyên bố phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của mình theo các quy định của Công ước Luật biển 1982. Tuy nhiên, nếu hai hay nhiều quốc gia có bờ biển nằm tiếp liền hoặc đối diện nhau mà khoảng cách giữa hai bờ biển đối diện không đạt tới hai lần chiều rộng của các vùng biển hay thềm lục địa được quy định trong Công ước thì sẽ xuất hiện sự chồng lấn về yêu sách phạm vi các vùng biển và thềm lục địa. Trong trường hợp này, các quốc gia có liên quan phải tiến hành xác định đường phân chia giới hạn không gian thực thi thẩm quyền thông qua thương lượng trực tiếp hay một cơ quan tài phán quốc tế. Quá trình này được gọi là phân định biển. Như vậy, việc phân định biển không phụ thuộc vào ý chí duy nhất của một quốc gia mà là một hoạt động mang tính chất quốc tế để đi đến thỏa thuận trực tiếp (các quốc gia liên quan thương lượng trực tiếp) hoặc gián tiếp (thông qua cơ quan tài phán quốc tế).

Việt Nam cũng là một trong 130 nước bỏ phiếu thông qua và sau đó cùng 118 nước khác ký Công ước Luật biển 1982 vào tháng 12/1982 tại Montego Bay (Jamaica). Ngày 23/6/1994 Quốc hội Việt Nam đã chính thức phê chuẩn và trở thành thành viên thứ 63 của Công ước. Bên cạnh việc được hưởng các quyền lợi, Việt Nam còn có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ cụ thể mà Công ước này mang lại. Cụ thể, Việt Nam có quyền xác định các vùng biển và thềm lục địa theo Công ước nhưng đồng thời cũng có nghĩa vụ tiến hành phân định các vùng biển và thềm lục địa ở những khu vực chồng lấn với các nước láng giềng.

Theo quy định của Công ước Luật biển năm 1982, các quốc gia ven biển, trong đó có Việt Nam, có quyền mở rộng thềm lục địa của mình ra quá 200 hải lý nếu thềm lục địa thực tế rộng hơn 200 hải lý. Để thực hiện quyền này ta phải nộp Báo cáo quốc gia lên Ủy ban Thềm lục địa của Liên hợp quốc, trong đó nêu rõ các bằng chứng khoa học, địa chất, địa mạo để chứng minh. Nếu sau ngày 13/5/2009 ta không nộp Báo cáo quốc gia thì Việt Nam mất quyền mở rộng ranh giới thềm lục địa.

Quan điểm pháp lý cơ bản trong Báo cáo quốc gia của Việt Nam là khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển và thềm lục địa theo quy định của Công ước Luật biển năm 1982; tuân thủ Công ước Luật biển năm1982 và tôn trọng các điều ước, hiệp định quốc tế về phân định biển đã được ký kết giữa các nước liên quan; Báo cáo xác định ranh giới ngoài thềm lục địa không ảnh hưởng đến việc phân định biển giữa Việt Nam và các nước liên quan sau này.

Như vậy, trong thời gian qua, đặc biệt là sau khi Công ước Luật biển 1982 có hiệu lực, Việt Nam đã giải quyết được một loạt vấn đề về phân định biển với các quốc gia láng giềng. Thực tế cho thấy Việt Nam đã vận dụng một cách linh hoạt các quy định của Công ước Luật biển 1982 cũng như thực tiễn quốc tế để có thể cùng các nước láng giềng tìm đến một giải pháp phù hợp cho các vùng biển chồng lấn. Các hiệp định được ký kết cũng thể hiện thiện chí của ViệtNam trong việc đàm phán trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng. Có thể nói, các điều ước phân định biển được ký kết giữa Việt Nam với các nước láng giềng trong thời gian qua đã góp phần vào việc ngăn ngừa xung đột, giúp duy trì môi trường hòa bình và ổn định trong khu vực để Việt Nam và các nước khác phát triển. Xét về mặt luật pháp quốc tế, các giải pháp phân định biển đạt được giữa Việt Nam và các nước láng giềng cũng có những đóng góp nhất định đối với thực tiễn phân định biển trong khu vực là cơ sở để Việt Nam tiếp tục đàm phán phân định biển với các nước láng giềng khác trong khu vực./.

CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” HIỆN NAY CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 Gần đây các thế lực thù địch tập trung chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Chúng sử dụng nhiều chiến lược song tập chung chủ yếu vào chiến lược “diễn biến hòa bình” chúng tìm mọi cách gây ra sự hỗn loạn về lý luận, sự mơ hồ về chính trị, những khoảng trống về tư tưởng và tâm lý hoài nghi, dao động về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chúng xuyên tạc, bôi nhọ và bóp méo lịch sử, xuyên tạc những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Những thủ đoạn đó là cực kỳ nguy hiểm, tạo ra sự nghi ngờ, gây tâm lý hoang mang, mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Các thủ đoạn đó đươc thể hiện chủ yếu trên một số vấn đề sau:

Một là, các thế lực thù địch lợi dụng sự khủng hoảng, thoái trào tạm thời của chủ nghĩa xã hội để phủ nhận lịch sử, phủ nhận giá trị của học thuyết Mác - Lênin, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã khẳng định lịch sử diễn ra không phải bằng con đường trơn tru và thẳng tắp; cái mới, cái tiến bộ ra đời là đúng quy luật nhưng khó tránh khỏi những khúc quanh, những bước thăng trầm, thậm chí thất bại cục bộ, tụt lùi tạm thời trên con đường hoàn thiện. Đặc biệt với sự ra đời một hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa chưa từng có trong lịch sử thì sự tồn tại những khúc quanh đó là điều dễ hiểu. Lợi dụng những vấn đề đó, các thế lực thù địch tiếp tục lớn tiếng rêu rao rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, chủ nghĩa xã hội là “quái thai” của lịch sử; không có cơ sở hiện thực. Dựa vào sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô chúng cho rằng chủ nghĩa xã hội đã hết sức sống, Đảng Cộng sản đã bất lực không còn nắm được vai trò lãnh đạo xã hội. Từ đó chúng “khuyên” chúng ta nên từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin để đi theo con đường thứ ba chẳng phải chủ nghĩa xã hội mà cũng không phải tư bản chủ nghĩa, bởi vì chúng cho rằng thực tế chưa có một nước nào quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa thành công. Luận điệu xuyên tạc đó của các thế lực thù địch đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hoang mang, dao động, nghi ngờ về tính cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Và đó chính là khoảng trống tư tưởng mà chúng cố tình tạo ra nhằm chuyển hoá dần dần hệ tư tưởng vô sản sang hệ tư tưởng tư sản. Sự nguy hiểm của luận điệu này ở chỗ các thế lực thù địch lợi dụng khúc quanh, sự thoái trào cục bộ để phủ nhận toàn bộ lịch sử, đồng nhất sự sụp đổ của một bộ phận chủ nghĩa xã hội hiện thực với sự sụp đổ của cả học thuyết dẫn đường là chủ nghĩa Mác - Lênin, và từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phủ nhận sự tồn tại của hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa.

Hai là, các thế lực thù địch lợi dụng những khoảng trống của lịch sử để xuyên tạc, bóp méo sự thật. Những khoảng trống của lịch sử là có thực và sự tái hiện, giải thích nó đúng như nó đã tồn tại là việc làm khá khó khăn. Điều này đặt ra cho các nhà khoa học phải nghiên cứu, tìm tòi, hiểu đúng tiến trình lịch sử trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học, khách quan, trung thực và sự vững vàng về chính trị. Đồng thời để tái hiện, giải thích đúng những khoảng trống này liên quan đến rất nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là những tư liệu và nhân chứng lịch sử. Trên thực tế, các thế lực thù địch thường lợi dụng chính những khoảng trống đó, tuyệt đối hóa và lấy đó làm căn cứ để giải thích hay chứng minh cho kết quả của cả tiến trình lịch sử. Đó là cách nhìn nhận, đánh giá phiến diện, cố tình làm sai lệch tiến trình, xuyên tạc, bóp méo lịch sử để chống phá cách mạng Việt Nam.

Ba là, các thế lực thù địch lợi dụng những sai lầm của Đảng Cộng sản trong quá trình vận dụng và phát triển học thuyết Mác - Lênin để bới móc, xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử. Trên thực tế, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, các Đảng Cộng sản cầm quyền luôn luôn vận dụng linh hoạt và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước mình. Để biến đường lối thành hiện thực phải thông qua quá trình vận động cách mạng và tổ chức thực hiện. Tổng kết thực tiễn quá trình đó khó có thể tránh khỏi những hạn chế hoặc sai lầm ở một khâu, một bước nào đó và các thế lực thù địch thường triệt để bới móc và lợi dụng những thiếu sót đó để tiến công Đảng Cộng sản theo thể thức tuyệt đối hoá sai lầm, thổi phồng khuyết điểm. Chúng cố tình thổi phồng khuyết điểm của số ít cán bộ, đảng viên thành khuyết điểm của Đảng; sai lầm ở một khâu, một bước nào đó trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối thành sai lầm của toàn bộ đường lối của Đảng, thậm chí có kẻ còn lớn tiếng cho rằng đó là sai lầm của cả học thuyết, sai lầm thuộc về bản chất của chủ nghĩa xã hội và của Đảng Cộng sản. Đồng thời, chúng còn lợi dụng lỗ hổng trong việc sửa chữa khuyết điểm, thiếu sót để phủ định sạch trơn quá khứ, phủ định những thành tựu vĩ đại của lịch sử nhằm gây tâm lý hoang mang, gieo rắc hoài nghi trong nhân dân, lôi kéo những cán bộ, đảng viên bất mãn, thoái hoá, biến chất bổ sung vào đội ngũ phản động hòng chống Đảng, chống nhân dân.

Bốn là, các thế lực thù địch luôn lợi dụng sự hiểu biết chưa đầy đủ về lịch sử, xem nhẹ truyền thống và chạy đua theo lối sống thực dụng của một bộ phận nhân dân trong đó chủ yếu là thanh niên để xuyên tạc, bóp méo lịch sử. Trong bối cảnh quốc tế mới, với sự bùng nổ thông tin và sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ, các thế lực thù địch với âm mưu “diễn biến hoà bình”, không bỏ lỡ cơ hội ra sức tuyên truyền tác động vào thế hệ trẻ tư tưởng sống gấp, chạy theo đồng tiền, xem thường quá khứ. Sự nguy hiểm của âm mưu thủ đoạn này là ở chỗ chúng gieo rắc tư tưởng hoài nghi, phủ định quá khứ; lịch sử là cái để phê phán, còn hiện tại chỉ đơn thuần là lối sống hưởng thụ, thực dụng. Chúng ta nhận thức rằng, đất nước ta có được như ngày nay là sự phát triển liên tục của hàng ngàn năm lịch sử được Đảng ta nâng lên một tầm cao mới. Trách nhiệm của chúng ta là phải học tập và tuyên truyền, giáo dục thế hệ trẻ hiểu rõ và phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng, xây dựng tinh thần nhân nghĩa, thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong cuộc sống; không ngừng chăm lo giáo dục ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng cho thanh niên; tạo công ăn việc làm, lôi cuốn họ đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó chính là những biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn có hiệu quả các luận điệu chống phá đặc biệt là chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, xây dựng những con người mới, vững vàng niềm tin và ý chí, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước./.

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM

     Những năm qua, tình hình biển Đông luôn có nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến xây dựng, phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng, an ninh của đất nước. Để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. (Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, năm 2021, tr. 157)

Ngày 17 tháng 11 năm 2023, trên trang blog BBC Tiếng Việt tán phát bài Việt Nam tăng cường bồi đắp ở quần đảo Trường Sa trên Biển Đông đã đưa ra những lời lẽ xuyên tạc quan điểm, đường lối, chủ trương đấu tranh giữ vững chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Thậm chí, chúng còn lợi dụng công nghệ, kỹ thuật mới, hiện đại để sao chép, gán ghép, chắp vá hình ảnh và không quên bổ sung, minh chứng bằng các nguồn trích dẫn từ các phương tiện truyền thông chính thống của Đảng và Nhà nước ta. Đây, chẳng qua chỉ là sự lừa bịp, những quan điểm sai trái, phản động để gây mất ổn định chính trị xã hội, tác động xấu đến tình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của đất nước.

Những năm qua, trước những diễn biến phức tạp trên biển Đông, nhất là khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển Việt Nam; khi Trung Quốc tiếp tục đưa nhóm tàu khảo sát Hải Dương - 08 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam trên vùng biển Nam Biển Đông, gần bãi Tư Chính. Viện cớ đó, các thế lực thù địch, phản động cũng đã tán phát nhiều tài liệu, gồm những bài viết, video clip, hình ảnh xuyên tạc đường lối đối ngoại, chính sách “4 không” và khả năng chiến đấu của Quân đội, gây tâm lý bất an, hoài nghi và kích động của một bộ phận quần chúng do thiếu thông tin tình hình và do ngộ nhận.

Song Đảng, Nhà nước ta luôn chủ động xử lý đúng đắn bằng đối thoại, thương lượng thông qua con đường ngoại giao; yêu cầu các bên liên quan kiềm chế, không có các hoạt động làm phức tạp thêm tình hình ở Biển Đông, tuân thủ cam kết giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và 5 nguyên tắc chung sống hòa bình, tăng cường các nỗ lực xây dựng lòng tin, hợp tác đa phương về an toàn biển; cùng nhau nghiêm chỉnh thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) ký năm 2002 giữa một bên là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và một bên là Trung Quốc, hướng tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử (COC), vì lợi ích của tất cả các nước trong khu vực, vì an ninh chung của khu vực và trên toàn thế giới.

Trên thực tế, các lực lượng thực thi pháp luật trên biển như cảnh sát biển, biên phòng, kiểm ngư đã tích cực, chủ động tiến hành hoạt động tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật trên vùng biển Việt Nam. Cùng với các lực lượng thực thi pháp luật trên biển, ngư dân khai thác hải sản và các hoạt động kinh tế khác trên biển đã và đang ngày đêm bám biển góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Điều đó cho thấy Đảng, Nhà nước ta luôn rất linh hoạt, sáng tạo, mềm dẻo, kiên quyết, kiên trì trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia. Đồng thời, những hoạt động của chúng ta trên các quần đảo đều vì mục tiêu cuối cùng là bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo góp phần trực tiếp thực hiện chủ trương, đường lối đối ngoại, chủ trương, đường lối quốc phòng, an ninh của Việt Nam trong bảo vệ Tổ quốc./.

CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN CHỦ ĐỂ CHỐNG PHÁ VIỆT NAM

 

Các thế lực thù địch đã và đang lợi dụng vấn đề dân chủ để chống phá cách mạng và quá trình xây dựng, từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nội dung lợi dụng vấn đề dân chủ chống phá Việt Nam của chúng bao gồm:

          Một là, chúng xuyên tạc, bài bác, phủ nhận học thuyết Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chúng ngụy biện rằng, sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu (1989-1991) là thể hiện sự lạc hậu, bất cập của học thuyết Mác-Lê nin, về con đương đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa “là đi vào ngõ cụt, không có tiền đồ”. Song song với việc này chúng tuyên truyền, quảng bá dân chủ tư sản, tự do tư sản, lối sống thực dụng, hưởng lạc, đề cao chủ nghĩa cá nhân, giá trị tư sản, và tính “ưu việt” của dân chủ tư sản.

Hai là, chúng xuyên tạc quá trình dân chủ hoá trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, phủ nhận những thành tựu to lớn về dân chủ của nhân dân ta trong quá trình đổi mới, đồng thời thổi phồng những yếu kém, khuyết điểm của Nhà nước ta trong quản lý kinh tế - xã hội, coi tệ quan liêu, tham nhũng là khuyết tật không thể khắc phục được trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quy kết mọi yếu kém ở Việt Nam đều do Đảng Cộng sản độc quyền lãnh đạo. Thực chất là chúng tìm cách tước bỏ, vô hiệu hoá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, làm cho chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trượt sang quỹ đạo dân chủ tư sản.

Ba là, chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ. Cùng với phủ nhận học thuyết Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đế quốc Mỹ và các thế lực thù dịch luôn sử dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá Việt Nam. Chúng trắng trợn vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền trong giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo. Trên lĩnh vực ngoại giao và kinh tế, chúng thường đưa các vấn đề này ra trong các cuộc gặp gỡ, trao đổi đa phương, song phương hoặc diễn đàn quốc tế để ép Việt Nam khi hội đàm, ký kết, giải quyết các vấn đề quốc tế có liên quan đến Việt Nam, nhất là những vấn đề về kinh tế, chính trị và đối ngoại.

Các thế lực thù địch và bọn phản động quốc tế đã trắng trợn vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ trong giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo. Chúng chỉ đạo, cung cấp tài chính cho các phần tử cơ hội chính trị ở trong nước tiến hành các hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam. Nhưng khi Việt Nam xét xử bọn này phạm tội vi phạm an ninh quốc gia thì chúng vu cáo là “Việt Nam vi phạm dân chủ”. Như vậy, nội dung về dân chủ mà các thế lực thù địch lợi dụng chống phá quá trình dân chủ hoá xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là hết sức xảo quyệt, thâm độc. Song, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam hoàn toàn có đủ khả năng đánh bại những âm mưu đó của các thế lực thù địch./.

NHẬN DIỆN THỦ ĐOẠN NGUY HIỂM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM

 Trong những năm qua, dân chủ, nhân quyền là chiêu bài mà các thế lực thù địch vẫn lợi dụng kích động, gây rối, phá hoại, gây mất ổn định chính trị-xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhưng những gì mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang làm là minh chứng rõ nét nhất, bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở nước ta.

Có thể thấy, các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam hiện nay gồm: Các nhóm phản động người Việt Nam ở nước ngoài và những cá nhân người Việt ở trong nước bị các thế lực cực hữu nước ngoài mua chuộc, lợi dụng, núp bóng “ngọn cờ dân chủ”, “nhân quyền” chống phá nền tảng tư tưởng và chế độ chính trị - xã hội tại Việt Nam. Một số tổ chức phi chính phủ “khoác áo nhân quyền”, thường xuyên vu cáo, xuyên tạc tình hình nhân quyền Việt Nam, nổi bật như: Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW), Tổ chức Freedom House (FH) có trụ sở tại Mỹ; Tổ chức Ân xá quốc tế (AI) với các nhóm hoạt động ở nhiều nước như: Mỹ, Đức, Bỉ… Bên cạnh đó còn có một số tổ chức như: Việt Tân, Chính phủ Việt Nam tự do, Ủy ban bảo vệ quyền làm người Việt Nam… Đặc điểm chung của các tổ chức, hội nhóm trên đều được hậu thuẫn bởi các thế lực cực đoan trong chính giới ở Mỹ và một số nước phương Tây, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Vẫn những chiêu trò lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền đưa ra những thủ đoạn, luận điệu để xuyên tạc, bóp méo sự thật về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam như: phủ nhận thành tựu, thực tiễn các giá trị lý luận; lợi dụng những hạn chế, thiếu sót trong quản lý xã hội, điều hành đất nước hoặc những vấn đề bức xúc, khiếu kiện kéo dài chưa được giải quyết để lôi kéo, kích động nhân dân biểu tình, gây mất an ninh trật tự, xã hội.

Mặt khác sử dụng dân chủ, nhân quyền làm điều kiện để gây sức ép, can thiệp vào nội bộ nước ta như gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với các điều kiện dân chủ, nhân quyền trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam; đòi nước ta phải chấp nhận đa nguyên chính trị, cải cách dân chủ, pháp luật theo kiểu phương Tây.

Để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn đó, hơn lúc nào hết, mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân cần hết sức tỉnh táo, đề cao cảnh giác để phát hiện, phòng chống, ngăn chặn kịp thời, hiệu quả và làm rõ, đầy lùi, đập tan thủ đoạn “lợi dụng nhân quyền” chống phá của các thế lực thù địch.

Thứ nhất, phải thường xuyên nắm chắc và đặt công tác phòng, chống hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội nước ta dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị.

Thứ hai, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò công tác bảo vệ và đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn hoạt động lợi dụng nhân quyền. Từng cán bộ, đảng viên phải nâng cao lập trường tư tưởng, chính trị vững vàng để mỗi cán bộ, đảng viên là chiến sĩ trên mặt trận bảo vệ nền tảng tư tưởng, thực hành phát huy dân chủ, nhân quyền ở nước ta.

Thứ ba, đổi mới hình thức, đa dạng các nội dung đấu tranh hiệu quả, bảo vệ dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhân quyền ở Việt Nam. Đổi mới, bổ sung nội dung đấu tranh trên cơ sở giữ vững quan điểm và nguyên tắc của Đảng và Nhà nước; mềm dẻo, linh hoạt, nhân văn trong phương pháp, công khai, minh bạch, dân chủ, góp phần tạo dư luận xã hội lành mạnh, đồng thuận.

Thứ tư, để không còn “đất” cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao trình độ dân trí, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh bảo đảm ổn định chính trị là yêu cầu thiết thực cấp thiết; chú trọng, phối hợp giải quyết dứt điểm các “điểm nóng” ngay từ cơ sở, không để kéo dài, lây lan gây bức xúc dư luận. Thường xuyên nắm chắc tình hình, dự báo kịp thời mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ, nhân quyền.

CẦN NHÌN NHẬN ĐÚNG VỀ ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là chính sách nhất quán trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Những thành tựu to lớn trong hội nhập quốc tế nói riêng, trong công cuộc đổi mới của Việt Nam nói chung chính là những luận cứ xác đáng, hữu hiệu để bác bỏ luận điệu của các thế lực thù địch khi chúng cho rằng “Không thể có độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam”, “thể chế chính trị của Việt Nam là khác biệt, không phù hợp với chuẩn mực chung của quốc tế” …

Sau hơn 30 năm thực hiện “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, từ nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn, Đảng ta đã xác nhận nhiều mối quan hệ đan xen nhau rất phức tạp đòi hỏi phải xử lý đúng đắn, hiệu quả, trong đó có mối quan hệ “giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”.

Trong lĩnh vực chính trị, Chúng ta đã đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất: Chủ động tham gia phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu đã góp phần cải thiện đáng kể tiềm lực trong nước, nâng cao vị thế địa chiến lược của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á, Đông Á, châu Á-Thái Bình Dương và trên phạm vi toàn cầu.

Trong lĩnh vực kinh tế, Chúng ta đã xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư quốc tế, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học-công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến; khai thác hiệu quả các thỏa thuận được ký kết, đặc biệt là các khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương. Theo Tổng cục Thống kê, tính đến năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 732,5 tỷ USD, xuất siêu 11,2 tỷ USD. Đầu tư vào Việt Nam đã đăng ký hơn 400 tỷ USD, năm 2022 đạt 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm trước. Việt Nam được xếp vào nhóm 15 quốc gia thu hút FDI hàng đầu thế giới. Hiện nay cộng đồng tài trợ quốc tế hoạt động thường xuyên ở nước ta đã lên tới hơn 50 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và hơn 20 nhà tài trợ đa phương. Thành công của hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tăng cường nguồn lực, tạo điều kiện vật chất-kỹ thuật thuận lợi cho việc bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước, tạo nền tảng để hội nhập về chính trị và hội nhập các lĩnh vực khác.

 

Trong lĩnh vực văn hóa-xã hội. Đến nay, Việt Nam đã ký hơn 100 thỏa thuận, điều ước quốc tế song phương có nội dung văn hóa. Hội nhập văn hóa xã hội đi vào chiều sâu đã thu hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Nguồn lực và động lực về văn hóa-xã hội được tăng cường sẽ là yếu tố quan trọng để chúng ta giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, để ánh sáng văn hóa Việt Nam là ngôi sao lấp lánh trên bầu trời văn hóa các dân tộc trên thế giới.

Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, Việt Nam đã từng bước mở rộng hợp tác quốc phòng, an ninh với các nước lớn và các nước trong khu vực, đã có quan hệ quốc phòng chính thức với gần 70 nước, đặt văn phòng tùy viên quân sự tại hơn 30 nước và có hơn 40 nước có văn phòng tùy viên quân sự tại Việt Nam. Việt Nam cũng đã tham gia tích cực vào các diễn đàn an ninh, quốc phòng khu vực và từng bước tham gia vào những hoạt động hợp tác quốc tế về an ninh, quân sự toàn cầu.

Có thể khẳng định rằng, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là chính sách nhất quán trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, nhằm góp phần hiện thực hóa phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu to lớn trong hội nhập quốc tế nói riêng, trong công cuộc đổi mới của Việt Nam nói chung chính là những luận cứ, bằng chứng xác đáng nhất để bác bỏ những luận điệu sai trái, thù địch về vấn đề này./.

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH

 

“Bộ Công an dựng lên kịch bản cưỡng đoạt tài sản để bắt ông Lưu Bình Nhưỡng”, “bắt xong ông Lưu Bình Nhưỡng thì Quốc hội biến thành “phường chèo” vì ngoài ông Nhưỡng, chẳng còn ai dám nêu ý kiến thẳng thắn trước cái sai của ngành công an và bất công xã hội”, “dưới con mắt của đảng CSVN, đại biểu Lưu Bình Nhưỡng còn nguy hiểm hơn phản động”… là những luận điệu hết sức độc hại đang được Việt Tân cùng các hội, nhóm “dân chủ” tung ra. Với thủ đoạn “chính trị hóa” vụ án hình sự, các “mõ làng dân chủ” đã tô vẽ ra nhiều “thuyết âm mưu” để đánh lừa dư luận nhằm kích động sự bất ổn trong xã hội.

Theo thông tin từ cơ quan điều tra, việc khởi tố, bắt tạm giam ông Lưu Bình Nhưỡng là kết quả điều tra mở rộng vụ án Phạm Minh Cường (sinh năm 1986, thường gọi là Cường quắt, trú xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) vì tội cưỡng đoạt tài sản do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình thụ lý. Hiện các cơ quan tiến hành tố tụng đang thực hiện điều tra theo đúng quy định và chưa cung cấp thông tin chi tiết về hành vi vi phạm của ông Lưu Bình Nhưỡng. Tuy nhiên, căn cứ các quy định pháp luật, phải khẳng định rằng, việc khởi tố, bắt tạm giam đối với ông Lưu Bình Nhưỡng đã được xem xét một cách toàn diện, không có việc “Bộ Công an dựng lên kịch bản” bắt người vô tội như những gì các đối tượng “dân chủ” đưa ra. 

Hiện một số kẻ đang cố tình “bẻ lái” cho rằng nguyên nhân ông Lưu Bình Nhưỡng bị bắt là do trước đó có những phát ngôn về sai phạm của lực lượng công an trước nghị trường Quốc hội. Đây là đánh giá hoàn toàn vô căn cứ. Pháp luật là nghiêm minh và bình đẳng, bất kể người đó là ai, giữ chức vụ gì. Đặc biệt, trong bối cảnh Đảng, Nhà nước đang đẩy mạnh công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực như hiện nay, phương châm xuyên suốt mà chúng ta thực hiện là xử lý vi phạm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. Nhất là với các quan chức cấp cao, việc xử lý càng phải được tiến hành thận trọng, chính xác. Và cũng cần nói thêm, khi khởi tố, bắt tạm giam bất kỳ cá nhân nào, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng phải cân nhắc, đánh giá, nghiên cứu tài liệu, chứng cứ kỹ để phòng ngừa việc làm oan, sai cho người vô tội. 

Điều 13, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Trong trường hợp ông Lưu Bình Nhưỡng vô tội thì chắc chắn không một ai có thể quy chụp, làm oan cho ông Nhưỡng. Trước đây, trong vụ án “Vận chuyển, sử dụng trái phép vật liệu nổ; vi phạm quy định về khai thác tài nguyên”, Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái đã tuyên nguyên Phó Bí thư Tỉnh đoàn Yên Bái Đinh Tiến Hùng vô tội. Kể ra điều này để thấy rằng cơ quan tiến hành tố tụng đều làm việc độc lập, khách quan, tuân theo pháp luật. Mặt khác, theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, nếu các cơ quan tiến hành tố tụng làm oan, sai cho người vô tội thì sẽ phải bồi thường theo quy định pháp luật.

Đánh giá một cách khách quan, ông Lưu Bình Nhưỡng đã có những đóng góp không nhỏ trên diễn đàn nghị trường Quốc hội. Nhiều ý kiến của ông Nhưỡng từng được lan truyền mạnh mẽ trên mạng xã hội (dù còn có những ý kiến khen, chê trái chiều). Cá nhân ông Nhưỡng cũng là hình mẫu (idol) của không ít người. Do đó, càng là quan chức cấp cao thì càng phải gương mẫu chấp hành các quy định pháp luật.

Công - tội phải hết sức rạch ròi và phân minh. Vì vậy, quá trình điều tra, các cơ quan tố tụng phải đánh giá, xem xét một cách toàn diện, bảo đảm quyền lợi cho bị can. Tuy nhiên, những luận điệu “đổi trắng thay đen”, đặt điều xuyên tạc bản chất vụ việc là không thể chấp nhận./.

 

CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐÁNH TRÁO BẢN CHẤT VỤ ÁN, VU CÁO, BÔI NHỌ CÁC CƠ QUAN BẢO VỆ PHÁP LUẬT

 

Theo thông tin từ Công an tỉnh Thái Bình, ngày 14/11/2023, ông Lưu Bình Nhưỡng (nguyên Phó trưởng Ban Dân nguyện của Ủy ban Thường vụ Quốc hội) bị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình ra quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh khám xét nơi ở, nơi làm việc để điều tra về tội "Cưỡng đoạt tài sản", quy định tại Điều 170, Bộ luật Hình sự.

Ông Lưu Bình Nhưỡng từng là đại biểu Quốc hội Khóa XIV, được biết đến là người hay có những phát biểu tranh luận tại nghị trường, đặc biệt liên quan đến các vấn đề “nóng” của xã hội. Nhiều phát biểu trong đó đã bị số đối tượng chống đối lợi dụng bôi nhọ cơ quan Đảng, Nhà nước, trở thành “chất liệu” chống phá.

Đặc biệt, ông Lưu Bình Nhưỡng cũng từng có những phát biểu trước Quốc hội về đạo đức, công lý và những thế lực xấu đã lợi dụng tung hô, lấy cớ xuyên tạc. Vì vậy không ngạc nhiên khi tin ông Lưu Bình Nhưỡng bị bắt, lập tức các đối tượng chống đối, phản động đã lợi dụng vu cáo.

Tổ chức khủng bố Việt Tân cho rằng, vì ông Lưu Bình Nhưỡng hay nói động chạm đến các vấn đề xã hội, động chạm cả đến cơ quan tiến hành tố tụng mà dẫn tới bị xử lý hình sự.

Chúng còn thần thánh hóa rằng, với việc ông Nhưỡng bị bắt, dân mất chỗ dựa, mất nơi “gửi đơn kêu oan”! Có thể nói, đây là luận điệu kích động, xuyên tạc thường thấy của các thế lực xấu nhằm đánh tráo bản chất vấn đề.

Vụ án mà cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình đang điều tra không phải là điều tra trực tiếp, từ đầu đối với ông Lưu Bình Nhưỡng.

Đây là kết quả điều tra mở rộng vụ án Phạm Minh Cường (37 tuổi, thường gọi là Cường "quắt", trú tại xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) về tội "Cưỡng đoạt tài sản" quy định tại khoản 4, Điều 170, Bộ luật Hình sự.

Các đối tượng tung hô cá nhân vi phạm, miệt thị cơ quan tiến hành tố tụng để chống phá, hạ bệ, bôi nhọ hệ thống pháp luật Việt Nam; làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với cơ quan công quyền, tiến tới quy kết, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, chia rẽ nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam.

Những luận điệu trên vốn dĩ không phải là thủ đoạn mới bởi từ trước đến nay, lợi dụng nhiều đối tượng bị bắt, các tổ chức, hội nhóm phản động như Việt Tân, Hội Anh em dân chủ, các hãng truyền thông hải ngoại thù địch với Việt Nam như RFA, RFI, VOA… đã đưa ra nhiều bài viết, hình ảnh có nội dung xuyên tạc, cố tình công kích Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng.

Do vậy, người dùng mạng xã hội phải thật tỉnh táo trước những luận điệu xuyên tạc bởi mạng xã hội là miếng đất màu mỡ để các thế lực thù địch, phản cách mạng, phần tử cơ hội chính trị sử dụng thực hiện những thủ đoạn xấu chống phá Đảng, Nhà nước.

Qua việc khởi tố ông Lưu Bình Nhưỡng một lần nữa cho thấy việc xử lý vi phạm không có vùng cấm, dù đó là người có chức vụ, quyền hạn hay một người dân bình thường.

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng chia sẻ khi tiếp xúc với cử tri rằng, không hay ho gì khi phải xử lý cán bộ, đồng chí của mình nhưng vì sự tồn vong của chế độ, của Đảng, đòi hỏi phải làm nghiêm, xử lý nghiêm.

Đây cũng là một bài học đối với các cán bộ, đảng viên có chức quyền dù to hay nhỏ đều phải sống và làm theo pháp luật. Mọi sai phạm đều sẽ bị xử lý nghiêm, công bằng trước pháp luật, không có ngoại lệ./.

CHIÊU TRÒ VU CÁO, BÔI NHỌ TỪ VỤ ÁN LIÊN QUAN ÔNG LƯU BÌNH NHƯỠNG

 Theo thông tin từ Công an tỉnh Thái Bình, ngày 14/11/2023, ông Lưu Bình Nhưỡng (nguyên Phó trưởng Ban Dân nguyện của Ủy ban Thường vụ Quốc hội) bị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình ra quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh khám xét nơi ở, nơi làm việc để điều tra về tội "Cưỡng đoạt tài sản", quy định tại Điều 170, Bộ luật Hình sự.

Ông Lưu Bình Nhưỡng từng là đại biểu Quốc hội Khóa XIV, được biết đến là người hay có những phát biểu tranh luận tại nghị trường, đặc biệt liên quan đến các vấn đề “nóng” của xã hội. Nhiều phát biểu trong đó đã bị số đối tượng chống đối lợi dụng bôi nhọ cơ quan Đảng, Nhà nước, trở thành “chất liệu” chống phá. Đặc biệt, ông Lưu Bình Nhưỡng cũng từng có những phát biểu trước Quốc hội về đạo đức, công lý và những thế lực xấu đã lợi dụng tung hô, lấy cớ xuyên tạc.

Vì vậy không ngạc nhiên khi tin ông Lưu Bình Nhưỡng bị bắt, lập tức các đối tượng chống đối, phản động đã lợi dụng vu cáo.

Tổ chức khủng bố Việt Tân cho rằng, vì ông Lưu Bình Nhưỡng hay nói động chạm đến các vấn đề xã hội, động chạm cả đến cơ quan tiến hành tố tụng mà dẫn tới bị xử lý hình sự. Chúng còn thần thánh hóa rằng, với việc ông Nhưỡng bị bắt, dân mất chỗ dựa, mất nơi “gửi đơn kêu oan”! Có thể nói, đây là luận điệu kích động, xuyên tạc thường thấy của các thế lực xấu nhằm đánh tráo bản chất vấn đề.

Vụ án mà cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình đang điều tra không phải là điều tra trực tiếp, từ đầu đối với ông Lưu Bình Nhưỡng. Đây là kết quả điều tra mở rộng vụ án Phạm Minh Cường (37 tuổi, thường gọi là Cường "quắt", trú tại xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) về tội "Cưỡng đoạt tài sản" quy định tại khoản 4, Điều 170, Bộ luật Hình sự. Trước đó ngày 17/5/2023, cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Phạm Minh Cường về tội danh trên.

Theo tài liệu điều tra, khi biết thông tin một số doanh nghiệp được UBND tỉnh Thái Bình cấp phép cho khai thác cát tại mỏ cát ven biển xã Thụy Trường, huyện Thái Thụy, Cường cùng đồng bọn đã tự ý xác lập quyền sử dụng trái phép các bãi triều nhằm gây sức ép, buộc các doanh nghiệp phải trả tiền theo khối lượng cát khai thác được, hoặc bán lại một phần cho Cường với giá rẻ hơn giá thị trường. Cơ quan điều tra nhận định, đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, số tiền chiếm đoạt lớn, gây bức xúc trong nhân dân, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến hình ảnh, môi trường đầu tư của tỉnh. Công an tỉnh Thái Bình đã mở rộng điều tra vụ án, tập trung làm rõ các đối tượng có hành vi tiếp tay, giúp sức cho bị can thực hiện hành vi phạm tội để xử lý theo quy định của pháp luật. Trước đó, vào năm 2022, Cường "quắt" từng bị Công an tỉnh Thái Bình khởi tố và bắt giam về tội “Cố ý gây thương tích”, “Gây rối trật tự công cộng”.

Việc một số tổ chức, cá nhân thù địch, phản động cố tình đánh tráo bản chất vụ án liên quan ông Lưu Bình Nhưỡng là thủ đoạn không mới. Các đối tượng cố tình định hướng dư luận theo hướng tiêu cực, biến một vụ án hình sự được điều tra như một vụ “tấn công người bảo vệ công lý”, miệt thị rằng “sống dưới chế độ độc tài cộng sản thì không có quyền cất lên tiếng nói tự do ngôn luận”; “lợi dụng pháp luật để áp tội tùy tiện, trù dập những người khiến họ không hài lòng”… Các đối tượng tung hô cá nhân vi phạm, miệt thị cơ quan tiến hành tố tụng để chống phá, hạ bệ, bôi nhọ hệ thống pháp luật Việt Nam; làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với cơ quan công quyền, tiến tới quy kết, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, chia rẽ nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam. Những luận điệu trên vốn dĩ không phải là thủ đoạn mới bởi từ trước đến nay, lợi dụng nhiều đối tượng bị bắt, các tổ chức, hội nhóm phản động như Việt Tân, Hội Anh em dân chủ, các hãng truyền thông hải ngoại thù địch với Việt Nam như RFA, RFI, VOA… đã đưa ra nhiều bài viết, hình ảnh có nội dung xuyên tạc, cố tình công kích Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng. Do vậy, người dùng mạng xã hội phải thật tỉnh táo trước những luận điệu xuyên tạc bởi mạng xã hội là miếng đất màu mỡ để các thế lực thù địch, phản cách mạng, phần tử cơ hội chính trị sử dụng thực hiện những thủ đoạn xấu chống phá Đảng, Nhà nước.

Qua việc khởi tố ông Lưu Bình Nhưỡng một lần nữa cho thấy việc xử lý vi phạm không có vùng cấm, dù đó là người có chức vụ, quyền hạn hay một người dân bình thường. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng chia sẻ khi tiếp xúc với cử tri rằng, không hay ho gì khi phải xử lý cán bộ, đồng chí của mình nhưng vì sự tồn vong của chế độ, của Đảng, đòi hỏi phải làm nghiêm, xử lý nghiêm. Đây cũng là một bài học đối với các cán bộ, đảng viên có chức quyền dù to hay nhỏ đều phải sống và làm theo pháp luật. Mọi sai phạm đều sẽ bị xử lý nghiêm, công bằng trước pháp luật, không có ngoại lệ./.

TUYÊN TRUYỀN KHẲNG ĐỊNH VIỆT NAM LUÔN KIÊN ĐỊNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG 4 KHÔNG

 Trong thời gian qua, các thế lực phản động, phần tử bất mãn, cơ hội chính trị đã viết bài tán phát với những giọng điệu xuyên tạc, bóp méo đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng của Việt Nam. Chúng cho rằng, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, các quốc gia luôn có mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau, trong khi đó Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và chính sách quốc phòng “4 không là “bảo thủ, lỗi thời”, “tự mình cô lập mình”, “tự trói tay, chân mình”, tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn để tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Ngang nhiên, trắng trợn hơn, chúng còn vu khống, quy chụp việc Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh là khơi mào cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, là để chống lại một nước thứ ba. Đặc biệt, các thế lực thù địch cho rằng, với chính sách quốc phòng hiện nay thì Việt Nam không thể giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Do đó, chỉ có liên minh quân sự với các cường quốc thì Việt Nam mới giữ vững được chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ được lợi ích quốc gia-dân tộc.

Có thể thấy mục đích sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch là nhằm dẫn dắt, hướng lái Việt Nam tham gia các liên minh quân sự, dần đi sâu vào quỹ đạo lệ thuộc bên ngoài, đánh mất độc lập, tự chủ trong các hoạt động quân sự, quốc phòng, đối ngoại. Đồng thời, kích động, gieo rắc tâm lý hoài nghi trong xã hội vào khả năng bảo vệ đất nước của quốc phòng Việt Nam, tính đúng đắn của đường lối quân sự, quốc phòng, đối ngoại của Đảng; từ đó gây chia rẽ, mâu thuẫn nội bộ, làm giảm sút lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực quân sự, quốc phòng, đối ngoại; hoặc tham gia vào các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Soi rọi vào lý luận và thực tiễn đều cho thấy, những luận điệu trên của các thế lực thù địch là hoàn toàn vô căn cứ, xuyên tạc trắng trợn chính sách quốc phòng của nước ta:

Về lý luận: Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh là luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, “dựa vào sức mình là chính”, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”; kết hợp chặt chẽ sức mạnh nội lực của đất nước với sức mạnh quốc tế để củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định nhất quán quan điểm: “Chúng ta bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị, nền kinh tế và tiềm lực quốc gia là nhân tố quyết định”. Đồng thời: Kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Tăng cường hợp tác, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, phụ thuộc.

Đại hội XIII của Đảng xác định rõ: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại...". Đồng thời: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng những biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc”.

Về thực tiễn: Trong những năm qua, Việt Nam luôn nỗ lực thực thi đúng đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng đã đề ra, trở thành quốc gia thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 192 quốc gia (bao gồm 190/193 nước thành viên LHQ); đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng với hơn 100 nước trên thế giới, trong đó có đầy đủ 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an LHQ và tất cả các nước lớn trên nhiều lĩnh vực.

Mặt khác, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra ngày càng gay gắt, quyết liệt hiện nay, nếu dựa vào nước lớn này làm đồng minh, liên minh thì sẽ trở thành đối tượng chiến lược, đối đầu với nước lớn khác. Vì vậy, Việt Nam kiên định chính sách “4 không”, thêm bạn, bớt thù; tăng đối tác, giảm đối tượng, xử lý hài hòa quan hệ với các nước; thiết lập, củng cố quan hệ với tất cả các nước, nhất là các đối tác chiến lược, hội nhập quốc tế sâu rộng, gia tăng sự đan xen lợi ích chung với nhiều nước, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế; ngăn ngừa nguy cơ và đối phó thắng lợi với mọi hình thức chiến tranh xâm lược là lựa chọn đúng đắn, phù hợp nhất. Trong bất luận hoàn cảnh nào, Việt Nam cũng không chọn bên mà chọn lẽ phải, chính nghĩa.

Như vậy, cả lý luận và thực tiễn, rõ ràng là những minh chứng đầy đủ, khách quan, thuyết phục nhất, thể hiện rõ mong muốn, thiện chí: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam mà không một thế lực nào có thể xuyên tạc, phủ nhận. Đồng thời cũng vạch trần âm mưu đen tối của các thế lực thù địch đối với chính sách quốc phòng Việt Nam.

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ BẢO ĐẢM VÀ PHÁT HUY QUYỀN CON NGƯỜI – CƠ SỞ KHOA HỌC PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI VỀ “VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN” Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

 Bảo đảm và phát huy quyền con người là quan điểm nhất quán của Đảng ta xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Nhân tố con người luôn đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng; con người không chỉ là cơ sở mà còn là mục tiêu, động lực của sự phát triển. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”.

Vấn đề con người là nhân tố trung tâm của thời đại đã được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Nhờ quan điểm đúng đắn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tập hợp và phát huy được sức mạnh của con người, lãnh đạo thành công cuộc cách mạng giành chính quyền và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội như ngày nay. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã xác định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”.

Việc xác định, bảo đảm và phát huy vai trò của con người ở Việt Nam đã được khẳng định trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật Nhà nước. Tại Điều 14, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã ghi nhận: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Như vậy, có thể thấy rằng mọi quyền và lợi ích hợp pháp của con người ở Việt Nam luôn được pháp luật bảo vệ. Tất nhiên, những hành vi lợi dụng vấn đề dân chủ, “nhân quyền”…nhằm xuyên tạc, chống phá đường lối, chính sách của Đảng, gây hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội sẽ đều bị nghiêm trị theo quy định của pháp luật.

Trải qua hơn 36 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, những thành tựu mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được trong quá trình đó là minh chứng rõ nét nhất khẳng định vai trò to lớn của nhân dân và việc bảo đảm, phát huy quyền con người trên thực tiễn. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với xã hội”.

Đảng ta cũng nhất quán thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm "dân là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đây là định hướng quan trọng, vừa hiện thực hoá Hiến pháp trong cuộc sống, vừa khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta trong việc bảo đảm và phát huy quyền con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.

Như vậy, con người là chủ thể trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển; vấn đề bảo đảm và phát huy quyền con người luôn là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta, điều này đã được khẳng định trên thực tiễn. Do đó, những quan điểm cho rằng Đảng, Nhà nước ta vi phạm “nhân quyền”, người dân không được tự do ngôn luận, bày tỏ chính kiến….chỉ là những luận điệu xuyên tạc, phản ánh sai sự thật vấn đề con người ở nước ta hiện nay. Những luận điệu đó chỉ nhằm mục đích xuyên tạc, chống phá sự lãnh đạo của Đảng, chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Do đó, chúng ta phải luôn cảnh giác, nhân diện rõ và kiên quyết đấu tranh loại bỏ những luận điệu xuyên tạc, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

THỰC HIỆN NHẤT QUÁN CHÍNH SÁCH TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO, CHỐNG VIỆC LỢI DỤNG TÔN GIÁO VI PHẠM PHÁP LUẬT

 Ngày 20/11/2023, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do tán phát bài “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam: Chính phủ ngược đãi người dân tộc thiểu số Tây Nguyên một cách có hệ thống”; trên trang blog Việt Nam Thời báo tán phát bài “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam công bố báo cáo nhân quyền tại Việt Nam năm 2022 - 2023 và kết quả giải nhân quyền Việt Nam 2023”. Nhìn nhận sự việc, trước hết chúng ta thấy rõ đây thực chất là luận điệu sai trái do trang blog Đài Á Châu Tự Do tán phát, nội dung xuyên tạc tình hình tự do, dân chủ ở Việt Nam; vu cáo chính quyền phân biệt dân tộc ngăn cấm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân tộc thiểu số, đồng thời, khuếch trương thanh thế, hình ảnh của các tổ chức phản động.

Chúng ta cần nhận thức đúng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đồng thời thấy được Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Vùng Tây Nguyên là địa bàn hoạt động của nhiều tổ chức tôn giáo, trong đó chủ yếu là Công giáo, Phật giáo, Tin Lành và Cao Đài, với tổng số khoảng 2,3 triệu tín đồ, gần 4.000 chức sắc, 10.000 chức việc và trên 1.300 cơ sở thờ tự. Cùng với phát triển kinh tế – xã hội, thời gian qua, các địa phương vùng Tây Nguyên luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; tập trung đẩy mạnh công tác vận động quần chúng ở vùng có đông đồng bào tôn giáo, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; kịp thời thông tin, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cho chức sắc, chức việc để thông qua đó tuyên truyền trong quần chúng tín đồ. Nhiều địa phương chủ động biên soạn tài liệu tuyên truyền bằng hai thứ tiếng, để phù hợp với trình độ nhận thức của đồng bào.

Thực hiện nhất quán chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo, chống việc lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật bằng một số nội dung chủ yếu:

Tập trung nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đồng thời, thực hiện tốt cả hai chính sách tôn giáo và dân tộc, định hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nhà nước quan tâm công tác bảo tồn, khôi phục, phát huy các giá trị và hoạt động văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống ở vùng Tây Nguyên.

Nhà nước cũng tiếp tục quan tâm, giải quyết nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp, chính đáng của đồng bào có đạo, tập trung giải quyết dứt điểm các tranh chấp, khiếu nại về đất đai, cơ sở thờ tự có liên quan đến tôn giáo, nhất là những vụ việc tồn đọng kéo dài; rà soát, thống kê tổng thể về tình hình quản lý, sử dụng nhà đất có liên quan đến tôn giáo; hướng dẫn kê khai, đăng ký sử dụng đất và sớm hoàn thành công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo; tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo xây dựng, cải tạo, sửa chữa cơ sở thờ tự theo đúng quy định của pháp luật./.

CHỐNG PHÁ LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CHUYẾN CÔNG TÁC THAM DỰ TUẦN LỄ CẤP CAO DIỄN ĐÀN HỢP TÁC KINH TẾ CHÂU Á - THÁI BINH DƯƠNG (APEC) 2023

 

Ngày 16/11/2023, trên trang blog VOA Tiếng Việt tán phát bài “Biểu tình phản đối phái đoàn của Chủ tịch Võ Văn Thưởng”, nội dung xuyên tạc đường lối đối ngoại của Việt Nam và chuyến công tác tham dự tuần lễ cấp cao Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Binh Dương (APEC) 2023 của Chủ tịch nước Võ Văn Thường; hạ thấp uy tín, vị trí, vai trò của Đảng, Nhà nước ta; đồng thời, kêu gọi biểu tình phản đối Đoàn đại biểu cấp cao của Việt Nam trong thời gian tham dự APEC 2023 tại Hoa Kỳ.

Đây là luận điệu sai trái do trang blog VOA Tiếng Việt tán phát, nội dung xuyên tạc đường lối đối ngoại của Việt Nam

Chúng ta cần nhận thức đúng đường lối đối ngoại của Việt Nam và chuyến công tác tham dự tuần lễ cấp cao Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) 2023 của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng.

Đây là chuyến thăm có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam bởi trùng với dịp kỷ niệm 30 năm Hội nghị cấp cao APEC đầu tiên diễn ra (năm 1993) và 25 năm Việt Nam gia nhập APEC (năm 1998). Trong 25 năm đó, Việt Nam đã luôn thể hiện là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; chúng ta đã tham gia APEC một cách chủ động, tích cực, trách nhiệm và có nhiều đóng góp vào sự phát triển của Diễn đàn APEC; đồng thời có những hoạt động tích cực nhằm thúc đẩy quan hệ song phương trên tinh thần Tuyên bố chung về xác lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

Chủ đề APEC 2023 là “Kiến tạo tương lai tự cường và bền vững cho tất cả mọi người” và tập trung vào ba ưu tiên. Thứ nhất là “kết nối”: Xây dựng một khu vực tự cường và kết nối, thúc đẩy thịnh vượng kinh tế toàn diện. Thứ hai là “đổi mới sáng tạo”: Thúc đẩy môi trường đổi mới sáng tạo vì một tương lai bền vững. Thứ ba là “bao trùm”: Củng cố một tương lai bình đẳng và bao trùm cho mọi người dân.

Chuyến công tác của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng là một hoạt động quan trọng trong chương trình đối ngoại năm 2023 của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; được đông đảo cán bộ, đảng viên và Nhân dân quan tâm, tin tưởng qua các hoạt động của Chủ tịch nước tại Hoa Kỳ nói riêng và đường lối đối ngoại của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng nói chung sẽ là nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp tục duy trì và củng cố quan hệ đối ngoại hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự phát triển đất nước trong thời gian tới./.

TÁI DIỄN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC NỀN TƯ PHÁP VIỆT NAM

 Ngày 14/11/2023, ông Lưu Bình Nhưỡng (nguyên Phó trưởng Ban Dân nguyện của Ủy ban Thường vụ Quốc hội) bị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình ra quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh khám xét nơi ở, nơi làm việc để điều tra về tội "Cưỡng đoạt tài sản", quy định tại Điều 170, Bộ luật Hình sự. Ông Lưu Bình Nhưỡng từng là đại biểu Quốc hội Khóa XIV, được biết đến là người hay có những phát biểu tranh luận tại nghị trường, đặc biệt liên quan đến các vấn đề “nóng” của xã hội. Nhiều phát biểu trong đó đã bị số đối tượng chống đối lợi dụng bôi nhọ cơ quan Đảng, Nhà nước, trở thành “chất liệu” chống phá.

Đặc biệt, trang blog Đối Thoại, blog Tiếng dân phát tán những bài viết nội dung xuyên tạc công tác tư pháp cho rằng việc bắt giữ ông Lưu Bình Nhưỡng là không đúng qui định pháp luật, là vì ông “đã dám vượt qua lằn ranh đỏ”. Việc ra quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt bị can để tam giam, lệnh khám xét nơi ở, nơi làm việc đối với ông Lưu Bình Nhưỡng để điều tra về tội “cưỡng đoạt tài sản”; vu cáo chính quyền “bóp nghẹt” tự do, dân chủ, “bịt miệng” những tiếng nói trái chiều, sử dụng truyền thông để “ ngăn cấm” quyền tự do tiếp cận thông tin của người dân.

Những luận điệu trên vốn dĩ không phải là thủ đoạn mới bởi từ trước đến nay, lợi dụng nhiều đối tượng bị bắt, các tổ chức, hội nhóm phản động đã đưa ra nhiều bài viết, hình ảnh có nội dung xuyên tạc, cố tình công kích Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng. Do vậy, người dùng mạng xã hội phải thật tỉnh táo trước những luận điệu xuyên tạc bởi mạng xã hội là miếng đất màu mỡ để các thế lực thù địch, phản cách mạng, phần tử cơ hội chính trị sử dụng thực hiện những thủ đoạn xấu chống phá Đảng, Nhà nước.

Các đối tượng cố tình định hướng dư luận theo hướng tiêu cực, biến một vụ án hình sự được điều tra như một vụ “tấn công người bảo vệ công lý”, miệt thị rằng “sống dưới chế độ độc tài cộng sản thì không có quyền cất lên tiếng nói tự do ngôn luận”; “lợi dụng pháp luật để áp tội tùy tiện, trù dập những người khiến họ không hài lòng”… là một thủ đoạn không mới.

Tại cuộc họp báo mới đây, Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương Nguyễn Văn Yên cho biết, vụ ông Lưu Bình Nhưỡng chưa thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chỉ đạo, xem xét. Hiện các cơ quan chức năng đang thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, theo đúng thẩm quyền. Đối với trường hợp của ông Lưu Bình Nhưỡng, là người có nhiều ý kiến đóng góp ở các diễn đàn, những đóng góp tốt của ông Lưu Bình Nhưỡng chúng ta cần ghi nhận nhưng những vi phạm của ông Nhưỡng cũng phải xử lý nghiêm.

Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương Nguyễn Văn Yên khẳng định: “Khi các cơ quan bảo vệ pháp luật đã quyết định xử lý thì phải có căn cứ. Pháp luật của chúng ta rất chặt chẽ, nhất là pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự. Vì vậy, để quyết định khởi tố một vụ án, một bị can, đặc biệt là áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt tạm giam là đã đầy đủ tài liệu, chứng cứ. Bộ luật Tố tụng hình sự quy định hết sức chặt chẽ, không một cơ quan nào có thể tự ý thực hiện. Toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra được VKSND cùng cấp kiểm sát trực tiếp, toàn diện và chịu trách nhiệm về việc phê chuẩn”.

Với các tài liệu có liên quan đến vụ án thu được, việc ông Nhưỡng bị bắt, khởi tố để điều tra mở rộng vụ án Phạm Minh Cường là đảm bảo đúng quy trình tố tụng. Qua việc khởi tố ông Lưu Bình Nhưỡng một lần nữa cho thấy việc xử lý vi phạm không có vùng cấm, dù đó là người có chức vụ, quyền hạn hay một người dân bình thường.

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng chia sẻ khi tiếp xúc với cử tri rằng, không hay ho gì khi phải xử lý cán bộ, đồng chí của mình nhưng vì sự tồn vong của chế độ, của Đảng, đòi hỏi phải làm nghiêm, xử lý nghiêm.

Đây cũng là một bài học đối với các cán bộ, đảng viên có chức quyền dù to hay nhỏ đều phải sống và làm theo pháp luật. Mọi sai phạm đều sẽ bị xử lý nghiêm, công bằng trước pháp luật, không có ngoại lệ.