Thứ Hai, 28 tháng 8, 2023

Phản bác các luận điệu xuyên tác lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945

 

Phản bác các luận điệu xuyên tác lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945

=MÕ LÀNG=

    Đến hẹn lại lên, vào thời điểm kỷ niệm ngày Cách mạng tháng Tám, các thế lực thù địch, phản động và thành phần bất mãn chính trị lại “nhai đi nhai lại” những luận điệu cũ rích cho rằng: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là “sự ăn may”, rằng Việt Minh đã nhanh tay cướp lấy thành quả của Đồng minh chống phát xít, khi quân đồng minh chưa kịp vào Đông Dương để giải giáp quân Nhật. Luận điệu khác thì cho rằng, Cách mạng Tháng Tám là do tinh thần dân tộc lãnh đạo, dù không có Đảng Cộng sản, nhiều nước thuộc địa đã giành được độc lập mà ít tốn xương máu. Sự hao rổn xương máu của dân tộc là do Đảng Cộng sản gây ra. Hay có kẻ còn trắng trợn “kết tội” rằng: Thành quả Cách mạng Tháng Tám nhanh chóng rơi vào tay Đảng Cộng sản và đây là nguyên nhân khiến dân tộc Việt Nam rơi vào “thảm họa” chiến tranh, đất nước bị tàn phá, dân tộc phân ly và ngày nay tiếp tục tình trạng nghèo đói, lạc hậu; nếu không đi theo con đường cách mạng vô sản, Việt Nam vẫn có độc lập mà tránh được chiến tranh, đi theo con đường của các nước tư bản phát triển tới phồn vinh…



    Những luận điệu nham hiểm, cũ mòn nêu trên không chỉ là của các thế lực thù địch mà còn của các phần tử phản động, cơ hội chính trị, suy thoái ở trong nước mặc dù đã thụ hưởng thành quả của Cách mạng Tháng Tám trong mấy chục năm qua nhưng chúng lại phản bội, “đổi trắng thay đen”…

    Mục đích của họ là phủ nhận thành quả, tầm vóc, ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, gây tâm lý mơ hồ, hoài nghi, chia rẽ trong xã hội, nhất là trong giới trẻ để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ngăn trở hòa hợp dân tộc, đẩy một bộ phận nhân dân xa rời Đảng, Nhà nước, hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận thành quả cách mạng, hướng lái dân tộc Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa…

    Lịch sử đã khẳng định, để làm nên thành công của Cách mạng Tháng Tám “long trời, lở đất”, cả dân tộc Việt Nam với quyết tâm và tinh thần “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho kỳ được độc lập dân tộc”, đã nhất tề vùng lên, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta đã thành công, lật đổ ách thống trị phát xít cùng triều đình phong kiến, thiết lập nên chính quyền cách mạng trên cả nước. Cách mạng Tháng Tám diễn ra trong điều kiện thời cơ “nghìn năm có một”, tuy nhiên, thời cơ đó chỉ được tận dụng và đạt thành quả với sự chuẩn bị chủ động, lâu dài, kỹ lưỡng cả thế và lực lượng cách mạng của Đảng.

    Thành quả cách mạng vĩ đại này không chỉ là kết quả của 15 ngày tổng khởi nghĩa, không chỉ là kết quả của sự nghiệp cách mạng trong 15 năm (1930-1945) qua cao trào 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 mà còn là kết quả của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc trong gần một thế kỷ của nhân dân ta. Do đó, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc lâu dài, đầy hy sinh, gian khổ của nhân dân ta dưới sự tổ chức lãnh đạo bài bản, khoa học, sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chứ không phải là sự “ăn may” hay “cướp công” như các thế lực thù địch, phản động đã cố tình xuyên tạc, bóp méo.

    Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công do nhiều nguyên nhân, đó là sự vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, sáng tạo trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi nhất định (chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phát triển mạnh…); là sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; là tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, kể cả sự huy động kết tinh truyền thống anh hùng, trí tuệ, bất khuất của dân tộc Việt Nam qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước…., trong đó nguyên nhân quan trọng, tiên quyết là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh theo mục tiêu, ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền CNXH.

    Do vậy, tuy những luận điệu cũ rích ấy không thể đánh lừa những người nghiêm túc, tỉnh táo, am hiểu lịch sử, tôn trọng sự thật khách quan nhưng cũng cần nâng cao cảnh giác, bởi trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và mạng xã hội phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp - dân tộc về tư tưởng - văn hóa vẫn diễn ra rất phức tạp, quyết liệt trên phạm vi quốc tế và các thế lực thù địch, phản động vẫn không từ bỏ chiến lược “Diễn biến hòa bình” để chống phá độc lập dân tộc và CNXH trên thế giới và ở Việt Nam.

 

                                                                                    

 

KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH


Chủ tịch Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất. Cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách mẫu mực của Người sống mãi trong lòng Nhân dân Việt Nam và bạn bè khắp năm châu trên thế giới. Mọi hành động xuyên tạc về Người cần phải được kiên quyết phê phán, đấu tranh, bác bỏ. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.

Hiện nay các thế lực thù địch và bọn phản động, cơ hội chính trị tăng cường các hoạt động xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, bôi nhọ thân thế, sự nghiệp của Người nhằm hạ bệ thần tượng, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

Đối tượng thực hiện chủ yếu là các thế lực phản động, chống đối cực đoan, các tổ chức phản động lưu vong, như: “Việt Tân”, “chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”… đã lập ra hàng trăm các trang web, blog, hàng chục tạp chí, báo, nhà xuất bản, cấu kết với nhiều đài truyền hình, phát thanh có chương trình tiếng Việt, như VOA, RFA, RFI... lập ra các diễn đàn để tuyên truyền, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh.  

Về nội dung xuyên tạc, từ thực tiễn gần đây cho thấy, các thế lực thù địch, phản động đã và đang tập trung xuyên tạc, bôi nhọ một cách toàn diện về thân thế, cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Chúng thường rêu rao bằng những luận điệu: Hồ Chí Minh tiểu sử không rõ ràng, đạo đức thấp kém, không phải là nhà tư tưởng, nếu có thì đó là tư tưởng dân tộc chủ nghĩa cực đoan, không mang bản chất, thậm chí đối lập với chủ nghĩa Mác – Lênin, chỉ lý thuyết, giáo điều, Hồ Chí Minh không có di sản nào, thay vào đó là những “di họa”. Chúng gia tăng hoạt động xuyên tạc, chống phá những di sản trực tiếp mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại, từ tư tưởng, sự nghiệp giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa, cho đến những giá trị và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Hồ Chí Minh.

Về phương thức, thủ đoạn, chúng nhân danh các nhà nghiên cứu, nhà hoạt động tự do, dân chủ, nhà chính trị, bình luận chính trị… để dựng chuyện, ngụy tạo tài liệu về cuộc đời, sự nghiệp cũng như phủ nhận giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; xuyên tạc các công trình nghiên cứu khoa học ở trong và ngoài nước về Chủ tịch Hồ Chí Minh; bóp méo, cắt xén, xuyên tạc sự thật về Người; đánh đồng hiện tượng với bản chất, đánh tráo thật với giả; bó hẹp, phủ nhận công lao, đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng của nhân dân trên thế giới; so sánh, đối ngược những tư liệu của Người. Đồng thời, chúng đối lập cực đoan giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lê Nin, với các học trò, đồng chí, những người hoạt động cùng thời; giữa hoàn cảnh lúc sinh thời với hiện tại và thời đại. Để che dấu cho thủ đoạn thâm độc, nhằm đạt được mục đích, chúng thường xen lẫn giữa những tư liệu khách quan đã được kiểm chứng với những luận điệu ngụy tạo, xuyên tạc hòng tạo niềm tin cho người đọc.

Trước âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động, việc đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch xuyên tạc, nói xấu về Chủ tịch Hồ Chí Minh là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trong đó, cán bộ, đảng viên giữ một vai trò quan trọng. Để đấu tranh với các âm mưu, hoạt động xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần cảnh giác trước các thông tin xuyên tạc, bôi nhọ, thông tin xấu độc trên mạng xã hội; chủ động học tập, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; nhận thức rõ tính hai mặt của mạng xã hội và internet, nhận diện các thủ đoạn, nội dung thông tin xấu độc, tính chất nguy hại của nó đối với bản thân và xã hội. Qua đó, trang bị kiến thức cần thiết để bản thân có thể tự sàng lọc, tự đề kháng và đồng thời tiếp nhận thông tin hữu ích, chính thống, miễn dịch với những thông tin xấu, độc làm nhiễu loạn môi trường xã hội. Trước các luận điệu xuyên tạc, bịa đặt, vu khống về Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên cần phải tỏ rõ chính kiến, kiên quyết đấu tranh, phản bác một cách có lý, có tình và có tính thuyết phục cao, khi đó sẽ tạo sức mạnh tổng hợp làm thất bại mọi phương thức, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Trong quá trình sử dụng Internet, mạng xã hội, mỗi người cần nhận diện những trang báo, trang thông tin, diễn đàn thường xuyên đăng tải thông tin xấu độc để đề cao cảnh giác và có cách ứng xử thích hợp. Khi phát hiện các bài viết, thông tin xấu độc, xuyên tạc về Chủ tịch Hồ Chí Minh cần báo ngay cho cơ quan Công an nơi gần nhất. Không truy cập, lưu trữ, phát tán, bình luận, chia sẻ các thông tin, tài liệu, bài viết xuyên tạc về Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời cần phải tuyên truyền, chia sẻ những mẩu chuyện đẹp, câu chuyện hay về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong phong trào thi đua học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh hiện nay./.

TÍCH CỰC ĐẤU TRANH VẠCH TRẦN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ, XUYÊN TẠC CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH HIỆN NAY

             Thực hiện âm mưu chống phá cách mạng nước ta, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị không từ bất cứ thủ đoạn nào để xuyên tạc, bôi nhọ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, trong đó có chính sách quốc phòng Việt Nam. Chúng lợi dụng các điểm mới trong đường lối, chính sách về quốc phòng, an ninh của Đảng, Nhà nước ta, nhất là trong Luật Quốc phòng 2018, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 để đưa ra bình luận, quy chụp thiếu căn cứ về nguyên tắc “bốn không”; tư vấn, góp ý, kiến nghị Việt Nam nên thiết lập, tham gia các liên minh quân sự nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng để bảo vệ đất nước.

Lợi dụng vấn đề quốc tế nóng bỏng, cụ thể là tình hình chiến sự có liên quan giữa Nga - Ukraine, mới đây nhất, ngày 17/6/2022 trên tranh blog Bauxite Việt Nam, đối tượng Nguyễn Ngọc Chu tán phát bài “Dựa vào ai và rút về đâu khi xảy ra chiến dịch đặc biệt”, nội dung xuyên tạc đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng của Việt Nam, đưa ra những “dự báo” về tình hình trên biển Đông, nhằm gây hoang mang trong dư luận; kêu gọi Việt nam “liên minh quân sự” để bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Đây quả thật là những luận điệu sai trái, không có bất kỳ một cơ sở hay căn cứ lý luận và thực tiễn khoa học nào để chứng minh tính đúng đắn. Mà đó chỉ là những ý tưởng chủ quan, điên rồ, che đậy cho âm mưu phản động, chống phá nền hòa bình, độc lập mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã và đang xây dựng mà thôi. Bằng quan điểm phiến diện, sai lầm của mình, chúng cho rằng, chính sách quốc phòng Việt Nam đã lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình hiện nay; chủ trương “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” là Việt Nam đã “từ bỏ dùng vũ lực trong bảo vệ đất nước”, là “tự trói tay, chân mình”, “tự cô lập mình”, tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn trong bảo vệ Tổ quốc, không phù hợp với tình hình thực tế, đi ngược lại xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Ngang nhiên, trắng trợn hơn, chúng còn vu khống, quy chụp việc Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh là khơi mào cho cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, là để chống lại một nước thứ ba. Đặc biệt, trước những diễn biến phức tạp, căng thẳng trên Biển Đông, trực tiếp tác động đến nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biên giới biển, đảo, các thế lực thù địch, phản động ra sức xuyên tạc, lớn tiếng cho rằng, với chính sách quốc phòng hiện nay thì Việt Nam không thể giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc… Từ đó, chúng kích động, hô hào, kêu gọi Đảng, Nhà nước cần dựa vào nước ngoài, nhất là các nước lớn và tham gia liên minh quân sự để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biển, đảo và lợi ích đất nước.

Đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá chính sách quốc phòng Việt Nam là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị. Có rất nhiều biện pháp đấu tranh, tuy nhiên trước hết và đặc biệt quan trọng là vấn đề nhận thức và tiếp cận đúng đắn về chính sách quốc phòng Việt Nam từ nhiều góc độ. Là người dân Việt Nam yêu nước chân chính, chúng ta phải nhất quán quan điểm rằng: Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Do đó, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 đã công khai khẳng định: “Chính sách Quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế,…”. Vừa qua, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh phương châm: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”. Đồng thời chỉ rõ phải phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia – dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tóm lại, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá, xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị là việc làm cần được tiến hành thường xuyên, liên tục, góp phần xây dựng, củng cố niềm tin, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.

THANH NIÊN QUÂN ĐỘI VỚI KỸ NĂNG ỨNG XỬ VĂN HÓA TRÊN MẠNG XÃ HỘI

             Thực hiện âm mưu chống phá cách mạng nước ta, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị không từ bất cứ thủ đoạn nào để xuyên tạc, bôi nhọ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, trong đó có chính sách quốc phòng Việt Nam. Chúng lợi dụng các điểm mới trong đường lối, chính sách về quốc phòng, an ninh của Đảng, Nhà nước ta, nhất là trong Luật Quốc phòng 2018, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 để đưa ra bình luận, quy chụp thiếu căn cứ về nguyên tắc “bốn không”; tư vấn, góp ý, kiến nghị Việt Nam nên thiết lập, tham gia các liên minh quân sự nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng để bảo vệ đất nước.

Lợi dụng vấn đề quốc tế nóng bỏng, cụ thể là tình hình chiến sự có liên quan giữa Nga - Ukraine, mới đây nhất, ngày 17/6/2022 trên tranh blog Bauxite Việt Nam, đối tượng Nguyễn Ngọc Chu tán phát bài “Dựa vào ai và rút về đâu khi xảy ra chiến dịch đặc biệt”, nội dung xuyên tạc đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng của Việt Nam, đưa ra những “dự báo” về tình hình trên biển Đông, nhằm gây hoang mang trong dư luận; kêu gọi Việt nam “liên minh quân sự” để bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Đây quả thật là những luận điệu sai trái, không có bất kỳ một cơ sở hay căn cứ lý luận và thực tiễn khoa học nào để chứng minh tính đúng đắn. Mà đó chỉ là những ý tưởng chủ quan, điên rồ, che đậy cho âm mưu phản động, chống phá nền hòa bình, độc lập mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã và đang xây dựng mà thôi. Bằng quan điểm phiến diện, sai lầm của mình, chúng cho rằng, chính sách quốc phòng Việt Nam đã lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình hiện nay; chủ trương “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” là Việt Nam đã “từ bỏ dùng vũ lực trong bảo vệ đất nước”, là “tự trói tay, chân mình”, “tự cô lập mình”, tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn trong bảo vệ Tổ quốc, không phù hợp với tình hình thực tế, đi ngược lại xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Ngang nhiên, trắng trợn hơn, chúng còn vu khống, quy chụp việc Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh là khơi mào cho cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, là để chống lại một nước thứ ba. Đặc biệt, trước những diễn biến phức tạp, căng thẳng trên Biển Đông, trực tiếp tác động đến nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biên giới biển, đảo, các thế lực thù địch, phản động ra sức xuyên tạc, lớn tiếng cho rằng, với chính sách quốc phòng hiện nay thì Việt Nam không thể giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc… Từ đó, chúng kích động, hô hào, kêu gọi Đảng, Nhà nước cần dựa vào nước ngoài, nhất là các nước lớn và tham gia liên minh quân sự để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biển, đảo và lợi ích đất nước.

Đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá chính sách quốc phòng Việt Nam là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị. Có rất nhiều biện pháp đấu tranh, tuy nhiên trước hết và đặc biệt quan trọng là vấn đề nhận thức và tiếp cận đúng đắn về chính sách quốc phòng Việt Nam từ nhiều góc độ. Là người dân Việt Nam yêu nước chân chính, chúng ta phải nhất quán quan điểm rằng: Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Do đó, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 đã công khai khẳng định: “Chính sách Quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế,…”. Vừa qua, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh phương châm: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”. Đồng thời chỉ rõ phải phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia – dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tóm lại, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá, xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị là việc làm cần được tiến hành thường xuyên, liên tục, góp phần xây dựng, củng cố niềm tin, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

          Sự phát triển nhanh chóng của intenet, mạng xã hội đã đem lại những lợi ích thiết yếu trong đời sống xã hội, tạo ra môi trường cung cấp, chia sẻ, trao đổi, khai thác sử dụng thông tin và thâm nhập vào cuộc sống của mọi người trên khắp thế giới.  Xã hội hiện đại, mọi người thường nhắc nhau về kỹ năng ứng xử nơi công cộng, kỹ năng ứng xử ở nơi công cộng như trường học, công sở hay kỹ năng ứng xử trong gia đình…mà dường như chưa đề cập nhiều đến kỹ năng ứng xử trên mạng xã hội…

          Văn hóa ứng xử trên MXH bao hàm cả mối quan hệ giữa con người và môi trường xung quanh, biểu hiện ở chỗ mỗi người biết góp phần tuyên truyền trên MXH về bảo vệ môi trường thiên nhiên, tiết kiệm tài nguyên, sống xanh, sạch, đẹp, an toàn, lành mạnh, thân thiện; biết yêu thương, chăm sóc, bảo vệ các loài động vật,… Văn hóa ứng xử trên MXH còn thể hiện trong mối quan hệ với chính bản thân, với các giá trị như sự khiêm tốn, thật thà, dũng cảm, có chính kiến, lập trường, quan điểm rõ ràng; tinh thần cầu thị, học hỏi, không tự kiêu, tự đại hoặc tâm lý tự ti, thiếu tin vào bản thân,… Mối quan hệ trên MXH có phạm vi rộng lớn, đa dạng và khó kiểm soát hơn mối quan hệ trong đời thực. Một cư dân mạng có thể có thiết lập quan hệ bạn bè khắp thế giới, không bị giới hạn bởi không gian, thời gian, không phân biệt chủng tộc, tuổi tác, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp,… Một cá nhân có thể tham gia nhiều MXH khác nhau với danh tính được công khai, cũng có thể ẩn danh, thậm trí mạo danh người khác. Có trường hợp một người tham gia một MXH với nhiều tài khoản khác nhau.

          Trên mạng xã hội hiện nay xuất hiện rất nhiều nhân vật được coi là “thủ lĩnh tinh thần”, “người dẫn dắt dư luận”. Một số nhân vật nổi tiếng chỉ bằng cách đưa những câu chuyện “sốc” nhưng vô tình đã “tung hỏa mù” làm “bẩn” môi trường mạng xã hội. Có kẻ thì núp dưới chiêu bài từ thiện đánh vào tâm lý thương người của số đông để trục lợi; cá biệt cho kẻ còn lợi dụng những mâu thuẫn giữa chính quyền và người dân để đưa chuyện không đúng lên mạng xã hội với mục đích bôi nhọ, kích động… Và trong sự “nổi tiếng” của những đối tượng này có một phần trách nhiệm của mỗi người dân chúng ta khi tham gia mạng xã hội, vô tình hay cố ý, bị cuốn theo những cuộc tranh luận do họ dựng lên có chủ đích xấu. Mạng xã hội có xây dựng được văn hóa ứng xử lành mạnh hay không phụ thuộc nhiều vào hành vi của mỗi người sử dụng, do đó chúng ta phải có trách nhiệm hơn trong mỗi lời nhận xét, phê bình, hay gắn biểu tượng cảm xúc của mình khi tham gia mạng xã hội. Chính vì sự đa dạng và phức tạp về nội dung và hình thức khi giao tiếp trên mạng xã hội, vì vậy, mỗi người khi tham gia mạng xã; kỹ năng đối phó với dư luận xã hội; kỹ năng vượt qua khủng hoảng mạng xã hội.

          Trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đội ngũ thanh niên mà phần nhiều là những người trẻ, có nhu cầu sử dụng mạng xã hội cao. Tuy nhiên, do quy định và môi trường hoạt động, cán bộ, đoàn viên, thanh niên Quân đội tuy không có nhiều thời gian sử dụng mạng xã hội, nhưng họ đang chịu tác động khá toàn diện từ môi trường này với những mặt tích cực, tiêu cực đan xen, thậm chí khó phân biệt. Bên cạnh những kiến thức bổ ích trên các lĩnh vực, như: thông tin nhanh chóng, sự kết nối, giao lưu, tương tác trong hoạt động đoàn ở mọi lúc, mọi nơi trong toàn quân, toàn quốc,… được đội ngũ cán bộ đoàn khai thác, phục vụ cho nhu cầu cá nhân và quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ, thì những mặt trái của mạng xã hội cũng tác động tiêu cực đến đội ngũ cán bộ, đoàn viên, thanh niên Quân đội, nhất là những nội dung chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội của các thế lực thù địch, phần tử phản động, v.v. Thực tế cho thấy, việc tham gia mạng xã hội của cán bộ, đoàn viên, thanh niên Quân đội cơ bản đảm bảo đúng các quy định, lan truyền những hình ảnh, hoạt động đẹp,… song, một số ít còn bộc lộ hạn chế, nhất là kỹ năng giao tiếp, có bình luận phản cảm, đưa những hình ảnh lên mạng không đúng quy định, sử dụng ngôn ngữ không phù hợp với bản sắc văn hóa của dân tộc, v.v.

          Nhận thức rõ điều đó, thời gian qua, các cơ quan, đơn vị, tổ chức đoàn trong toàn quân đã có nhiều hình thức, biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng ứng xử trên mạng xã hội cho đoàn viên nói chung, cán bộ đoàn nói riêng và đạt được những kết quả nhất định, song, hiệu quả chưa cao, chưa vững chắc. Vì thế, nâng cao kỹ năng ứng xử văn hoá trên mạng xã hội cho thanh niên trong Quân đội hiện nay là yêu cầu khách quan; biện pháp quan trọng, ứng xử có văn hóa, lan tỏa lối sống lành mạnh… góp phần xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại./.

XÂY DỰNG "THẾ TRẬN LÒNG DÂN" TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG ĐỂ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

  Tạo “thế trận lòng dân” vững chắc trên không gian mạng là một đòi hỏi tất yếu, vừa mang tính cấp bách, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài.

Xây dựng “thế trận lòng dân” là bài học quý trong quá trình dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc ta. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, bài học đó vẫn còn nguyên giá trị. Hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã tạo nên không gian mạng rộng khắp, mà ở đó con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian, thời gian. Chính vì vậy, tạo “thế trận lòng dân” vững chắc trên không gian này vừa là vấn đề cấp bách, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong những năm qua, “thế trận lòng dân” ở từng địa bàn có lúc còn chưa vững chắc; niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước có thời điểm giảm sút… Xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, chúng triệt để lợi dụng mạng xã hội để xuyên tạc, chống phá ta; kích động biểu tình, bạo loạn. Thống kê gần đây cho thấy, bình quân hằng tháng các thế lực thù địch phát tán hơn 130.000 bài viết, video, clip xuyên tạc trên mạng xã hội. Chúng tận dụng tính năng phát trực tuyến của mạng xã hội làm công cụ phát tán thông tin xấu, độc. Chúng tung tin giả, nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội hòng gây mất ổn định chính trị và ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội.

Chúng ta không thể phủ nhận, không gian mạng đem lại cho con người rất nhiều tiện ích, nhất là khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số trở thành xu hướng tất yếu của nhân loại. Việc sử dụng mạng xã hội là nhu cầu chính đáng của mỗi tổ chức, cá nhân.

Để không gian mạng hoạt động theo chiều hướng tích cực, trước hết chúng ta phải nâng cao nhận thức của các cấp, ngành và mỗi công dân về vị trí, vai trò của mạng xã hội và tạo “thế trận lòng dân” vững chắc trên không gian này.

Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hành lang pháp lý, nhằm tạo ra một không gian mạng lành mạnh, hữu ích, góp phần quan trọng vào sự phát triển đất nước. Đồng thời phải có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn, răn đe những hành vi, thủ đoạn lợi dụng không gian mạng để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ; sử dụng không gian mạng kích động, lôi kéo, xuyên tạc sự thật; phá hoại an ninh quốc gia - trật tự an toàn xã hội, gây chia rẽ, mất đoàn kết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và quân đội.

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng và Ban Chỉ đạo bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch (Ban Chỉ đạo 35) trong xây dựng “thế trận lòng dân”. Phát huy tốt vai trò cơ quan tuyên giáo, các cơ quan thông tấn báo chí trong việc cung cấp thông tin, kịp thời định hướng dư luận trước những sự kiện lớn, các vấn đề được xã hội quan tâm.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, định hướng cho nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ có đủ sức “đề kháng”, “miễn dịch” trước các thông  tin xấu, độc, xuyên tạc sự thật, các vấn đề tiêu cực trên mạng xã hội. Khuyến khích, động viên các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp và mỗi công dân tham gia mạng xã hội tuân thủ đúng pháp luật, có tri thức, văn hóa. Cần có cơ chế để nhân dân tham gia giám sát, đấu tranh phản bác các quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch, những vấn đề tiêu cực trên không gian mạng và cổ vũ cái tốt, cái tích cực, theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, “lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”.

Có thể khẳng định, tạo “thế trận lòng dân” vững chắc trên không gian mạng là một đòi hỏi tất yếu, khách quan, đồng thời vừa mang tính cấp bách, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bỏa vệ Tổ quốc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo./.

 

 

QUAN ĐIỂM “4 KHÔNG “ CỦA ĐẢNG-THÔNG ĐIỆP HÒA BÌNH CỦA VIỆT NAM VỚI CỘNG ĐỒNG QUỐC TẾ

         Nhằm thể hiện sự công khai, minh bạch chính sách quốc phòng, năm 2019 Việt Nam tiếp tục công bố Sách trắng Quốc phòng. Và sự kiện đó được dư luận quốc tế quan tâm, đánh giá cao. Cuốn sách có nhiều nội dung quan trọng, với tinh thần cơ bản là: xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện để bảo vệ vững chắc Tổ quốc; thực thi chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ. Đặc biệt, trong đó khẳng định rõ: Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Đây chính là quan điểm “Bốn không” của Đảng; là thông điệp hòa bình, thể hiện sâu sắc khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam gửi tới tất cả các quốc gia trên thế giới.

Câu hỏi đặt ra là, tại sao khẳng định quan điểm “Bốn không” nêu trên là thông điệp hòa bình? Nói như thế liệu có mâu thuẫn không? Câu trả lời là đúng như vậy! Và không hề có sự mâu thuẫn. Bởi vì, thực chất quan điểm “Bốn không” đã thể hiện sự nhất quán nhằm triệt tiêu hoàn toàn mầm mống chiến tranh từ phía Việt Nam; không cho bất cứ ai có thể lợi dụng Việt Nam, lãnh thổ Việt Nam để xâm lược hoặc gây phương hại nước khác. Từ thực tiễn khắc nghiệt của đất nước, Việt Nam thấu hiểu hòa bình không phải là mỹ từ để ngợi ca, mà là mục tiêu cao cả của nhân loại chân chính. Không một ai trong số những người có lương tri trên trái đất này lại không yêu chuộng hòa bình, đấu tranh vì hòa bình. Cũng vì thế mà nhân dân Việt Nam và các dân tộc từng bị áp bức, nô dịch bởi chủ nghĩa thực dân, đế quốc đã kiên quyết đứng lên đấu tranh đến cùng, không khoan nhượng để giành độc lập, tự do, hòa bình cho dân tộc mình - thứ quý đến mức “không có gì quý hơn” theo cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để có được nó dân tộc Việt Nam đã phải trả giá bằng máu cùng sự đau thương, mất mát của nhiều thế hệ. Ngay trong cuộc sống hòa bình hôm nay, trên dải đất hình chữ “S” vẫn hằn sâu những vết thương chiến tranh, di chứng chiến tranh. Vẫn còn đó những Mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình thương binh, liệt sĩ, nạn nhân chất độc da cam,… họ là những chứng nhân của lịch sử, hiện thân của chiến tranh đã vượt lên số phận, không những có ích cho đời mà còn cho cả xã hội. Họ thực sự trở thành những tâm hồn cao đẹp của dân tộc Việt Nam đã tỏa sáng, được kết tinh bởi khát vọng hòa bình. Không phải ngẫu nhiên, ngay trong cuộc chiến tranh chính nghĩa đó của nhân dân ta chống chiến tranh xâm lược phi nghĩa của tên đế quốc đầu sỏ, Chủ tịch Hội đồng hòa bình thế giới Romesh Chandra đã khâm phục, ngợi ca: “Việt Nam là lương tri của thời đại”. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Hà Nội - Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vốn bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của đế quốc Mỹ lại được UNESCO trao tặng danh hiệu “Thành phố vì hòa bình”, bạn bè quốc tế vinh danh “Thủ đô của phẩm giá con người”. Thật đáng tự hào!

Quan điểm “Bốn không” trong “Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019” là thông điệp hòa bình và cũng là cam kết của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam gửi tới các quốc gia trên thế giới. Trước sau như một, Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các quốc gia trong quan hệ quốc tế, sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác, kể cả hợp tác quốc phòng, trên cơ sở không phân biệt sự khác nhau về chế độ chính trị và trình độ phát triển. Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Từ lịch sử đến hiện tại và tương lai, Việt Nam chưa từng và sẽ không bao giờ gây hấn hay xâm lược nước khác, không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Đó là tôn chỉ, là truyền thống văn hóa lâu đời đã trở thành cốt cách của dân tộc Việt Nam. Như vậy, với cam kết “Bốn không”, Việt Nam đã chủ động bày tỏ thẳng thắn thái độ của mình xuất phát từ khát vọng hòa bình, vì hòa bình của chính dân tộc mình cũng như hòa bình của nhân loại.

Dân tộc Việt Nam có truyền thống nhân văn cao đẹp, khát khao hòa bình không chỉ cho đất nước mình mà còn cho tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Cùng với việc khẳng định rõ quan điểm “Bốn không” – thông điệp hòa bình, Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam đã và đang nỗ lực góp phần gìn giữ hòa bình với tư cách là “thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế”. Dưới lá cờ Liên hợp quốc, những cán bộ, chiến sĩ quân y, công binh,… của Việt Nam không quản ngại hy sinh, gian khổ đang ngày đêm thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình ở Nam Sudan và Abyei. Tinh thần đoàn kết đấu tranh cho hòa bình, vì hòa bình đang tỏa sáng ở Châu Phi và nhiều nơi trên thế giới sẽ đưa các quốc gia xích lại gần nhau hơn trên con đường hướng tới tương lai tốt đẹp.

 

VẬN DỤNG KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI TRONG BỐI CẢNH MỚI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM

             Bối cảnh mới hiện nay đặt ra yêu cầu phải hiểu đúng và nắm vững nội hàm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam.

Về sức mạnh dân tộc, Nghị quyết Trung ương 8, ngày 12-7-2003, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX), “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đã xác định: ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên ngoài, đồng thời nhấn mạnh, sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định. Trong thời kỳ này, sức mạnh dân tộc được xem là “nội lực” - yếu tố bên trong của đất nước. Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân, đế quốc, sức mạnh dân tộc được xác định là tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc, lòng căm thù giặc ngoại xâm... Đó là nguồn sức mạnh chính, to lớn giúp Việt Nam chiến thắng kẻ thù xâm lược, là động lực để tăng gia sản xuất, tiến lên xây dựng đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội.

Hiện nay, cách hiểu về sức mạnh dân tộc đã được hoàn thiện và đầy đủ hơn. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị...”. Cách hiểu này có nội hàm rộng hơn, Đảng ta nhấn mạnh đến yếu tố “sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc” với vấn đề căn cốt là đại đoàn kết dân tộc - là sự tổng hòa tiềm lực của đất nước về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh được tạo nên bởi quy mô và chất lượng dân số cả nước, được thể hiện ở sự tổng hợp của cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần; giữa “sức mạnh cứng” và “sức mạnh mềm”. Sức mạnh tổng hợp quốc gia còn là sức mạnh của cộng đồng người Việt Nam ở trong và ngoài nước; của “cả hệ thống chính trị” từ tổ chức bộ máy dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Xét tổng thể về “sức mạnh cứng”, sau hơn 35 năm đổi mới, thế và lực của Việt Nam ngày càng được nâng cao; đồng thời, Việt Nam đang được định vị ở nhóm giữa trong thang bảng sức mạnh toàn cầu với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Những chỉ số phát triển của Việt Nam khi so sánh với các quốc gia tầm trung không còn chênh lệch lớn. Trong khi đó, “sức mạnh mềm” của Việt Nam được thể hiện qua nhiều yếu tố, từ những giá trị văn hóa, đến thể chế kinh tế, chính trị và cả các chính sách đối nội, đối ngoại,... Trong tổng thể đó, văn hóa được coi là một trong những sức mạnh nội tại đặc biệt. Năm 2007, Giáo sư Giô-xép Nai (Đại học Harvard, Mỹ) khi đến Việt Nam đã nhận định: “Những điểm làm nên sức hấp dẫn nhất của sức mạnh mềm Việt Nam hiện nay là tinh thần tự chủ, độc lập dân tộc, chính sách phát triển kinh tế và nền văn hóa, trong đó văn hóa của Việt Nam luôn hấp dẫn và có sức lôi cuốn các nước phương Tây”. Một điểm quan trọng khác khi đề cập đến “sức mạnh mềm” của Việt Nam là giá trị địa - chiến lược của Việt Nam đã tăng lên đáng kể so với trước đây, trở thành khu vực chiến lược “trọng tâm” trong chiến lược đối ngoại của nhiều nước.

Ngoài ra, không thể không bàn đến yếu tố con người - động lực quan trọng nhất trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Con người Việt Nam với tinh thần yêu nước, đoàn kết, có bản lĩnh, sáng tạo, không ngừng nỗ lực phấn đấu, với ý chí quyết tâm phát triển dân tộc, phát triển đất nước, xây dựng đất nước phồn vinh và hạnh phúc. Sức mạnh dân tộc không chỉ được xây dựng bởi người dân Việt Nam đang sinh sống và làm việc trong nước, mà còn từ nguồn lực to lớn về vật chất và tinh thần, cùng nguồn lực tài chính và tấm lòng hướng về cội nguồn của hàng triệu người dân Việt Nam định cư nước ngoài, vốn được coi là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Sức mạnh dân tộc không chỉ là sức mạnh nội lực bên trong quốc gia, mà còn bao hàm cả một phần ngoại lực được huy động nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, sức mạnh dân tộc của đất nước không chỉ được phát huy nhờ sức mạnh mềm, nền tảng kinh tế - xã hội và con người, mà còn nhờ vào hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, luôn được chú trọng, xây dựng và chỉnh đốn. Với sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn nỗ lực “định vị” Việt Nam vào dòng chảy của thời đại; luôn có những đường lối, chỉ đạo đúng đắn; luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn nhằm đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới trong bối cảnh mới.

Có thể thấy, trải qua hơn 35 năm đổi mới và phát triển, Đảng, Nhà nước ta ngày càng khẳng định tầm quan trọng của sức mạnh dân tộc trong bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa và phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc và luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết.

Về sức mạnh thời đại, không thể phủ nhận vai trò hết sức quan trọng của sức mạnh dân tộc đối với sự tồn vong và phát triển của một quốc gia. Tuy nhiên, trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay, không một quốc gia nào có thể tồn tại một cách độc lập, tách biệt với những xu thế chung của thế giới. Những biến chuyển sâu sắc trong cục diện quốc tế đang tác động trực tiếp đến môi trường an ninh và phát triển đất nước, đem lại thời cơ và thách thức mới đan xen. Chính vì thế, bên cạnh việc phát huy nội lực, việc kết hợp sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát triển đất nước là vô cùng cần thiết.

Sức mạnh thời đại là khái niệm mang tính đặc thù Việt Nam, nhưng cũng có nhiều điểm chung với quan niệm phổ biến ở các quốc gia khác. Trước đây, sức mạnh thời đại được coi là đồng nhất với các nguồn ngoại lực - những thuận lợi hay các yếu tố bên ngoài. Quan điểm về sức mạnh thời đại xuất phát từ giai đoạn kháng chiến, chủ yếu là các xu thế, như công nhận quyền tự quyết, quyền độc lập, quyền bình đẳng của các quốc gia và xu thế cách mạng toàn cầu, đấu tranh cho những mục tiêu cao của thời đại: với hòa bình, hợp tác và phát triển là cơ sở để các quốc gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh hiện nay, nguồn lực của sức mạnh thời đại hết sức đa dạng. Sức mạnh thời đại được cấu thành bởi các xu thế lớn, đặc biệt là hòa bình, hợp tác và phát triển; trật tự thế giới đa cực, đa trung tâm, dân chủ, bình đẳng; sức mạnh của các lực lượng tiến bộ trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu hòa bình, sức mạnh của các quốc gia trong thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, các tổ chức quốc tế và khu vực, các hiệp định thương mại tự do, luật pháp quốc tế, chủ nghĩa đa phương... Bên cạnh đó, sức mạnh thời đại ngày nay còn là tổng hợp giữa các nguồn lực vật chất (vốn, máy móc, thiết bị, vật tư công nghệ...) và các nguồn lực tinh thần (giá trị văn hóa của các dân tộc, thời đại). Thông qua quá trình vận dụng sức mạnh thời đại, Đảng ta đã khắc phục được hạn chế, yếu kém, đồng thời hoàn thiện đường lối, chiến lược phát triển của dân tộc.

Nhìn chung, để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, Đảng ta đã vận dụng khéo léo, linh hoạt phương thức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tuy nhiên, cùng với quá trình đổi mới, các vấn đề về lợi ích, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục cũng như một số mặt trái cần được xem xét kỹ lưỡng trong quá trình kết hợp.

Xét về sức mạnh dân tộc, nền kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng và thực tế nguồn lực được huy động. Một số nguy cơ vẫn còn tồn tại, thậm chí có mặt còn diễn biến phức tạp hơn, như tham nhũng, lãng phí, tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ,... Chính vì vậy, có thể khẳng định, sức mạnh dân tộc cũng là sự tự sửa mình, tiêu biểu như việc sửa những mặt trái của nền kinh tế thị trường, chống tham nhũng, chống các nguy cơ mà Đảng và Nhà nước đã chỉ ra. Ngoài ra, Việt Nam cũng phải đối mặt với những khó khăn trong việc khai thác, sử dụng hiệu quả bền vững các nguồn tài nguyên và nguồn nhân lực. Đặc biệt, nguồn lực con người ở Việt Nam - nguồn lực nội sinh có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển đất nước - hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế về năng lực chuyên môn, khả năng thích ứng...

Xét về sức mạnh thời đại, các xu thế không thuận, như chủ nghĩa dân túy, cường quyền nước lớn, bảo hộ mậu dịch,... đang nổi lên mạnh mẽ trong quan hệ quốc tế. Luật pháp quốc tế và chủ nghĩa đa phương cũng đang gặp phải những thách thức không nhỏ, thậm chí có thể lâm vào tình trạng “thoái trào”. Các xu thế, dòng chảy chính của thời đại hiện nay cũng biến chuyển và thay đổi phức tạp, khó lường, gây khó khăn cho các nhà hoạch định chính sách trong việc nắm bắt và nhận thức một cách đúng đắn, kịp thời. Do đó, trong quá trình kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, cần xem xét kỹ lưỡng, bảo đảm hài hòa lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế, những giá trị chung của nhân loại và lợi ích chính đáng của các quốc gia khác.

Sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Chính vì vậy, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong bối cảnh mới cũng gặp phải không ít khó khăn và thách thức. Trước hết, quá trình kết hợp nếu không được thực hiện cẩn trọng thì dễ dẫn tới tình trạng đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, thậm chí gây đe dọa đến chủ quyền, lãnh thổ và an ninh phát triển của đất nước. Thêm vào đó, trình độ và mức độ thích ứng của nền kinh tế Việt Nam còn chưa cao, khiến việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại dù đã được triển khai, nhưng chưa thực sự hiệu quả, đi vào chiều sâu./.

Ý NGHĨA THIÊNG LIÊNG CỦA VIỆC TREO CỜ TỔ QUỐC TRONG MỖI DỊP LỄ, TẾT

           Lá cờ (quốc kỳ) là một biểu tượng thiêng liêng tượng trưng cho một đất nước. Việt Nam là một dân tộc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

          Quốc Kỳ Việt Nam là lá cờ đỏ sao vàng, là biểu tượng của hồn Nước, lòng dân, của tình đoàn kết đời đời bền vững của đại gia đình các dân tộc Việt Nam, là biểu tượng thiêng liêng nhất, thể hiện nhiệt huyết cách mạng, sự hy sinh anh dũng của toàn thể nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đánh đuổi quân xâm lược, giành độc lập, tự do cho Tổ Quốc. Lá cờ đỏ sao vàng - Biểu tượng chung nhất của dân tộc Việt Nam, đã khắc sâu vào tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam và đã được cộng đồng Quốc tế công nhận và tôn trọng.

          Việc treo cờ Tổ quốc là thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, là ý thức trách nhiệm của mỗi người dân. Treo cờ Tổ quốc trang trọng trong những ngày lễ lớn, ngày Tết cổ truyền của dân tộc là thể hiện lòng yêu nước và tự hào của mỗi công dân Việt Nam, biểu tượng của tinh thần đoàn kết, chung sức, chung lòng phấn đấu xây dựng đất nước, quê hương ngày càng phồn vinh, giàu mạnh... Đó là sự thể hiện lòng tri ân của chúng ta đối với sự h.y s.inh xương m.áu của các thế hệ cha, anh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

          Ngày nay, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của nước ta được khẳng định trên trường quốc tế, được cộng đồng quốc tế công nhận, tôn trọng và hình ảnh lá cờ Tổ quốc tung bay ở mỗi ngôi nhà, con đường, ở các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp... là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam chúng ta! Vì vậy việc treo Cờ Tổ quốc trong các dịp lễ, Tết mang ý nghĩa thiêng liêng, sâu sắc./.



TƯ TƯỞNG KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XXI

         Tại Đại hội XIII của Đảng, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đó là sự nhất quán và phát triển tư duy nhận thức của Đảng trước những biến đổi của tình hình thực tiễn đang tác động, ảnh hưởng, chi phối trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đại hội chủ trương: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”. Đây là quan điểm chỉ đạo đúng đắn của Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh nước ta hướng tới thực hiện các mục tiêu phát triển năm 2025, năm 2030 và năm 2045.

Để phát huy tốt quan điểm chỉ đạo kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại cho mục tiêu phát triển đất nước của Việt Nam đến năm 2030, năm 2045, năm 2050, cần thống nhất một số định hướng sau:

Thứ nhất, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại chính là gắn độc lập, tự chủ của đất nước với việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả. Chính vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục giữ vững nguyên tắc hàng đầu về bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Đồng thời, Việt Nam cũng cần nâng cao nhận thức về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại cho đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách, triển khai công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động nắm bắt thời cơ, tiến hành hội nhập quốc tế trên tất cả phương diện từ kinh tế, văn hóa - xã hội đến quốc phòng - an ninh...

Thứ hai, sức mạnh dân tộc, sức mạnh nội sinh là yếu tố quyết định; sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc tế, sức mạnh bên ngoài là yếu tố quan trọng, nhưng chỉ có tác dụng và hiệu quả khi sức mạnh bên trong được chuẩn bị kịp thời, đầy đủ. Do đó, Việt Nam cần tiếp tục kế thừa truyền thống “độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường”, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc - căn cốt của sức mạnh dân tộc và nhanh chóng nắm bắt, tận dụng thời cơ để vượt qua thách thức, tạo thế ổn định, phát triển đất nước, phát huy. Những nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân sẽ tạo cho đất nước khả năng tận dụng tối ưu những yếu tố có lợi, loại trừ những yếu tố bất lợi, vô hiệu hóa những mưu đồ thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, tranh thủ ngoại lực đẩy mạnh công cuộc đổi mới, bảo đảm cho đất nước luôn ổn định và phát triển.

Thứ ba, Việt Nam đã và đang tiếp tục đưa các mối quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu; hiện nay có 17 đối tác chiến lược và 13 đối tác toàn diện. Ngoài ra, Việt Nam cũng là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế quan trọng trên thế giới. Trong bối cảnh chuyển dịch trọng tâm quyền lực từ Tây sang Đông; cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn dẫn tới sự cọ xát, cạnh tranh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn ngày càng khốc liệt, gay gắt, Việt Nam chủ trương tôn trọng và xử lý khéo léo quan hệ với các nước. Đặc biệt, đối với các nước lớn, Việt Nam cần đánh giá kỹ sự điều chỉnh chính sách của những nước này, hiểu rõ vị trí chiến lược của Việt Nam trong mối quan hệ với từng nước, từ đó tạo thuận lợi cho quá trình hoạch định chính sách.

Thứ tư, chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, nhất là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, Hợp tác tiểu vùng sông Mê Công và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể. Đây là cách thức để Việt Nam xây dựng lòng tin và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế cũng như hiện thực hóa vai trò dẫn dắt, trung gian, hòa giải của Việt Nam tại các cơ chế này gắn kết sâu sắc hơn nữa Việt Nam với thế giới.

Thứ năm, cân bằng giữa việc phát triển nội lực đất nước và tận dụng nguồn lực bên ngoài trên cơ sở xem trọng và đẩy mạnh các hoạt động nâng tầm sức mạnh tổng hợp quốc gia; đồng thời, không được xem nhẹ dòng chảy và sức mạnh của thời đại. Bên cạnh đó, không nên quá phụ thuộc vào bên ngoài dẫn đến tình trạng thiếu tính độc lập, tự chủ, dễ bị “hòa tan” cũng như dễ rơi vào tình trạng thụ động, bảo thủ hay biệt lập trong bối cảnh đất nước đang tăng cường quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện.

Tựu trung, tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại được Đảng ta vận dụng sáng tạo qua từng giai đoạn lịch sử đã phản ánh sự nhất quán về lập trường tư tưởng chính trị và sự khéo léo, linh hoạt của Đảng trong phát triển nhận thức phù hợp với tình hình thực tiễn và các xu thế toàn cầu. Trên tinh thần phát huy ý chí “độc lập, tự lực, tự cường”, Đảng ta cần thống nhất các định hướng để đạt được các mục tiêu về bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của đất nước đến giữa thế kỷ XXI./.

GIÁ TRỊ CỐT LÕI CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

=mõ làng=

    Cuốn sách "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dày gần 500 trang, gồm tập hợp hệ thống 29 bài viết, bài phát biểu của Tổng Bí thư từ khi chuẩn bị xây dựng Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đến nay. Ngay sau khi ra mắt, cuốn sách đã thu hút sự quan tâm của đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân, bởi đây là những tác phẩm đã đúc kết thành tựu phát triển lý luận và tổng kết thực tiễn mới nhất của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

    Các chuyên gia, nhà khoa học đánh giá, cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một công trình có tầm khái quát lý luận cao, tổng kết thực tiễn sâu sắc về những phát triển sáng tạo riêng có của Đảng ta về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

    Các bài viết đã phân tích, thấu triệt bản chất, giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội trên các bình diện chính trị, kinh tế, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… bằng những ngôn ngữ giàu hình ảnh, cách diễn đạt hết sức dung dị, gần gũi, dễ hiểu đối với mọi tầng lớp nhân dân.

    Các bài viết, bài nói được tuyển chọn trong cuốn sách gồm bốn nội dung cơ bản: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa; Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì.

    Về chủ nghĩa xã hội, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát những thành tựu quan trọng, cơ bản của Đảng ta trong việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với điều kiện lịch sử, cụ thể của nước ta. Từ một lý thuyết khoa học của C. Mác và Ph. Ăngghen, sau Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã ra đời, trở thành một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của lịch sử nhân loại theo con đường tiến bộ, nhân văn, vì công bằng, hạnh phúc cho con người. Do những giá trị vô cùng tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các nhà cách mạng tiền bối nước ta đã lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội cho Việt Nam, tổ chức và rèn luyện Đảng Cộng sản để lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn gian khổ hy sinh, từng bước hiện thực hóa những giá trị đó thành thực tế sinh động trên đất nước ta. Những giá trị ấy không chỉ được tổng kết về lý luận, mà đã được kiểm chứng bằng chính thực tiễn công cuộc xây dựng, phát triển đất nước của chúng ta. Đó là: "một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người"; "sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội"; "một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn"; "sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai"; "một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân". Chính những giá trị đích thực ấy của chủ nghĩa xã hội đã trở thành mục tiêu, định hướng con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, tin tưởng và đang kiên định thực hiện.

    Trên con đường từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ thực tiễn của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã tổng kết, rút ra những nhận thức tổng quát về chủ nghĩa xã hội với 8 đặc trưng cơ bản. Các đặc trưng ấy là nội dung của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, một thành tựu phát triển sáng tạo lý luận riêng có của Đảng ta. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kết quả tìm tòi về lý luận, tổng kết thực tiễn của Đảng ta, là mô hình phát triển đặc thù của Việt Nam, phù hợp với điều kiện của giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đặc điểm của đất nước.

    Trên cơ sở phân tích, lý giải về kinh tế thị trường nói chung, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm rõ nhận thức của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chỉ ra và khẳng định thuộc tính quan trọng, đặc trưng cơ bản làm nên sự khác biệt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những nền kinh tế thị trường khác. Đó là nền kinh tế "gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội".

    Bàn về văn hóa trong mối quan hệ với kinh tế nói riêng và với các lĩnh vực đời sống xã hội nói chung, đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: "Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam". Như vậy, văn hóa không chỉ được khẳng định là một trong bốn trụ cột chính sách quyết định của Đảng về xây dựng, phát triển đất nước, mà văn hóa còn là sự bảo đảm cho định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, thể hiện tính nhân văn, ưu việt của chế độ với mục đích hướng tới con người, vì hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người.

    Nội dung về phát triển kinh tế - xã hội được thể hiện trong nhiều bài nói, bài viết khác nhau trong cuốn sách. Khi phát biểu trước Chính phủ nhiệm kỳ mới, đồng chí Tổng Bí thư đề cập toàn diện, khái quát về những nội dung, nhiệm vụ kinh tế - xã hội chung nhất. Nội dung vấn đề kinh tế - xã hội cũng gắn với trách nhiệm của từng ngành, lĩnh vực trong việc trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia giải quyết các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

    Về vấn đề phát triển văn hóa, con người, xuất phát từ luận điểm nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi", đồng chí Tổng Bí thư đã phân tích, chỉ ra quá trình phát triển, hoàn thiện nhận thức của Đảng ta về văn hóa và con người, trong đó văn hóa được coi là một trong bốn trụ cột chính sách, là nền tảng tinh thần, đồng thời cũng là nguồn lực nội sinh, động lực phát triển kinh tế - xã hội. Từ đó, đồng chí đi đến nhận định: "Đảng ta khẳng định: Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người có nhân cách và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh". Đây là một vấn đề có tính quy luật, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người và vì con người.

    Đề cập lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong điều kiện mới của đất nước và bối cảnh chung của thế giới, đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo của Đảng ta đã được thể hiện nhất quán trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Từ quan điểm chỉ đạo chung này, các nội dung về đường lối, định hướng, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại cụ thể đã được đồng chí Tổng Bí thư phân tích rất sâu sắc.

    Từ việc tổng kết thực tiễn công tác đối ngoại, ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta, đồng chí Tổng Bí thư đã khái quát về trường phái ngoại giao "Cây tre Việt Nam" - mang đậm bản sắc dân tộc, "dĩ bất biến ứng vạn biến", "giữ trái tim nóng, cái đầu lạnh", "kiên quyết, kiên trì để xử lý các thách thức đối ngoại một cách mềm mại mà hiệu quả, tranh thủ các điểm tương đồng về lợi ích để thúc đẩy hợp tác và phát triển, bảo vệ tối đa lợi ích của dân tộc. Việc xây dựng, phát triển và phát huy vai trò của trường phái ngoại giao "Cây tre Việt Nam" là điều kiện, cơ sở để hoạt động đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hoàn thành được nhiệm vụ cơ bản đặt ra là: "Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước".

    Các vấn đề về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong cuốn sách với gần một nửa số bài viết, phản ánh vai trò, vị trí có ý nghĩa quyết định của vấn đề xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đối với sự nghiệp cách mạng nói chung và công cuộc đổi mới nói riêng, cả về phương diện lý luận và trên thực tế. Nội dung các vấn đề về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị bao quát một cách toàn diện, từ cơ sở lý luận chung đến những vấn đề cụ thể hóa về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp về công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ, kiểm tra, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng MTTQ và các tổ chức chính trị- xã hội, các tổ chức nhân dân. Mục đích hướng tới của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là xây dựng "Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ", một đảng "có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên"./.

 

BÀI HỌC ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA”

             Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước ở Đông Âu là sụp đổ của một mô hình cụ thể chứ không phải sự sụp đổ của một hệ thống lý luận. Một trong những nguyên nhân sai lầm dẫn đến sự sụp đổ ấy là do các Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu mắc phải sai lầm chủ quan để cho quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trong nội bộ Đảng, Nhà nước, làm cho cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, dao động, hoài nghi về những giá trị của chủ nghĩa xã hội, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, hạ thấp đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Qua sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước ở Đông Âu có thể thấy lực lượng bên ngoài là tác nhân kích thích quan trọng, nhưng lực lượng “ngầm” bên trong nội bộ Đảng, Nhà nước là hạt nhân nòng cốt cho sự “chuyển hóa”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm biến chất chế độ xã hội chủ nghĩa, làm cho Đảng Cộng sản bị phân hóa, rối loạn, tự mâu thuẫn, không thế kiểm soát được tình hình; không thể lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đây là bài học vô cùng có ý nghĩa đối với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có Việt Nam cần nhận thức đúng đắn về vấn đề này để tăng cường củng cố niềm tin về chủ nghĩa xã hội. Để làm được điều có cần phải

Không ngừng tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức đầy đủ, sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội. Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình mới. Tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các giá trị bền vững phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; chỉ rõ những vấn đề cần bổ sung, phát triển. Tiếp tục nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, làm rõ sự bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin của Hồ Chí Minh.

Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát; kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức đảng và đảng viên vi phạm; Tiếp tục tăng cường và làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các đối tượng chống đối, các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý và sử dụng Internet, mạng xã hội. Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ, ngăn chặn, xử lý theo pháp luật đối với các nhà mạng, cơ quan chủ quản báo chí, trang thông tin điện tử,…và các cá nhân lưu trữ cung cấp, đăng tải, phát tán thông tin giả mạo, sai sự thật. Xây dựng lực lượng chuyên trách theo hướng tinh gọn, đủ mạnh, đồng thời phát huy cao nhất trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, trước hết là người đứng đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

TIẾP TỤC PHÁT HUY MẠNH MẼ VAI TRÒ TIÊN PHONG TRONG TẠO LẬP, GIỮ VỮNG MÔI TRƯỜNG HÒA BÌNH, ỔN ĐỊNH, BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ SỚM, TỪ XA

Năm 2023 là năm bản lề của nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII với rất nhiều nhiệm vụ to lớn đòi hỏi quyết tâm chính trị và nỗ lực cao hơn để hiện thực hóa khát vọng và tầm nhìn phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Dự báo tình hình thế giới, khu vực và trong nước từ nay đến hết nhiệm kỳ cho thấy, sẽ còn có nhiều khó khăn, biến động phức tạp, tác động nhiều chiều đến an ninh và phát triển của nước ta, có cả mặt thuận và không thuận, cơ hội đan xen với thách thức, đặt ra những yêu cầu nặng nề, phức tạp hơn cho công tác đối ngoại.

Để góp phần xứng đáng cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hoàn thành thắng lợi các chương trình, kế hoạch, mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra cho nửa cuối nhiệm kỳ khóa XIII, trên cơ sở bám sát đường lối đối ngoại của Đại hội XIII của Đảng ta và các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, thấm nhuần bản sắc "ngoại giao cây tre Việt Nam”, mục tiêu bao trùm được xác định là đối ngoại phải tiếp tục phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò “tiên phong” trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, huy động các nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước.

Trong việc “bảo đảm môi trường hòa bình”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý “một trong những yêu cầu then chốt là phải luôn kiên trì, bình tĩnh, sáng suốt, khôn khéo, xử lý đúng đắn các mối quan hệ đối ngoại, trong đó có vấn đề chủ quyền, lãnh thổ. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng của cả hệ thống chính trị, trong đó ngành ngoại giao là những người đi đầu”.

Trong thực hiện mục tiêu bao trùm nêu trên, Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn cho biết, trọng tâm là tăng cường nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại; đẩy mạnh quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất và bền vững hơn. Phát huy hơn nữa vai trò, đảm nhận tốt trọng trách tại các diễn đàn đa phương. Triển khai đồng bộ, sáng tạo và hiệu quả ngoại giao kinh tế để góp phần thúc đẩy phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. Giải quyết tốt các vấn đề biên giới bằng biện pháp hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền và phù hợp với luật pháp quốc tế. Đổi mới, đẩy mạnh ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại. Xây dựng, triển khai chính sách tổng thể, lâu dài về phát triển bền vững cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, tích cực bảo hộ công dân.

Điều quan trọng nữa, như khẳng định của Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn, đó là đẩy mạnh xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Tăng cường xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách về đối ngoại tương xứng với thế và lực mới của đất nước. Không ngừng đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đối ngoại các cấp về bản lĩnh chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đối ngoại trong tình hình mới. Quyết tâm xây dựng và phát triển một nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại và mang đậm bản sắc dân tộc - trường phái ngoại giao "Cây tre Việt Nam"./.