Hơn 40 năm
qua, không chỉ
có các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà văn hóa... mà cả nhân loại tiến bộ đều
có cái nhìn khách quan về giá trị, ý nghĩa lớn lao của ngày chiến thắng 30-4.
Ấy vậy mà ngày hôm nay, với mục đích
thiếu trong sáng và động cơ chính trị đen tối vẫn có những kẻ mang danh là
người Việt Nam như linh mục Đặng Hữu Nam-kẻ ở thế hệ sau được may mắn sống
trong hòa bình, hạnh phúc nhờ công ơn xương máu của thế hệ cha ông đi trước, mà
lại táng tận lương tâm, buông những lời lẽ vô ơn, vô văn hóa, phỉ báng ngày
toàn thắng của dân tộc Việt Nam và kích động một số giáo dân nhẹ dạ cùng thực
hiện hành động sai trái. Xúc phạm đến ngày 30-4-1975 là xúc phạm đến khát vọng,
danh dự và nhân phẩm của dân tộc Việt Nam, là xúc phạm đến xương máu, xúc phạm
sự hy sinh thầm lặng của hàng triệu người Việt Nam cho ngày toàn thắng.
Để hiểu được niềm hạnh phúc to lớn
của dân tộc có được từ sau chiến thắng 30-4-1975, ta hãy thử nhìn lại xem,
trước ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước thì đất nước ta như thế
nào?
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, đất
nước ta thật đau đớn khi bị chia cắt bởi Vĩ tuyến 17. Ở miền Bắc, nhân dân ta
xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Ở miền Nam, đất nước ta bị giày xéo bởi đế giày của thực dân Pháp,
rồi đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai. Cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất
nước theo điều khoản trong Hiệp định Giơ-ne-vơ đã không bao giờ được thực hiện
bởi mưu đồ thâm hiểm của đế quốc Mỹ và tay sai muốn chia cắt Việt Nam, mặc dù
Đảng và Nhà nước ta ở miền Bắc đã nhiều lần bày tỏ thiện chí. Người dân miền
Nam buộc phải sống dưới ách thống trị của chính quyền ngụy Sài Gòn do Mỹ dựng
lên. Nhân dân miền Nam đã nổi dậy để chống lại ách thống trị ấy, để cùng với
nhân dân cả nước thống nhất nước nhà.
Thời ấy, cuộc sống của người dân miền
Nam bị kìm kẹp, tù túng, ngột ngạt, đau khổ trong những “khu trù mật”, “ấp
chiến lược” do Mỹ và chính quyền ngụy Sài Gòn tạo ra. Chính quyền ngụy Ngô Đình
Diệm sử dụng những hình phạt tàn ác của thời trung cổ là chặt đầu bằng máy
chém, lê máy chém đi khắp miền Nam để tàn sát đồng bào, những người mà chúng
cho là cộng sản. Chính quyền ngụy Sài Gòn còn đàn áp Phật giáo, cấm treo cờ
Phật giáo dịp lễ Phật đản, đến mức hòa thượng Thích Quảng Đức đã phải tự thiêu
để phản đối và kéo theo phong trào biểu tình phản đối của nhân dân khắp miền
Nam. Không ai có thể quên tiếng kêu khóc của những phụ nữ hiền lành,
trẻ em vô tội bị lính Mỹ thảm sát ở miền Nam, trong đó điển hình
là vụ thảm sát tại thôn Mỹ Lai (thuộc làng Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh,
tỉnh Quảng Ngãi)...
Không chỉ tàn sát dân thường ở miền
Nam, quân đội Mỹ thời ấy còn leo thang chiến tranh ra miền Bắc, ném bom hòng
hủy diệt các thành phố, xí nghiệp, làng mạc, gây ra tang thương, mất mát, rải
hàng chục triệu lít chất độc da cam để lại di chứng đến tận ngày nay cho đất
nước và con người Việt Nam... Liệu dân tộc ta có thể hưởng hòa bình, hưởng cuộc
sống yên vui trước dã tâm xâm lược của đế quốc Mỹ?
Những bức ảnh chiến tranh do các
phóng viên các nước phương Tây, trong đó có chính phóng viên của Mỹ chụp là
những bằng chứng đanh thép tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ và tay sai: Một người
cha bế xác một em bé nhìn lên một chiếc xe trở đầy lính ngụy với vẻ mặt đầy ai
oán; một bà mẹ ôm mấy con nhỏ bơi qua sông để trốn bom Mỹ; bé gái 9 tuổi Phan
Thị Kim Phúc với thân thể cháy sém, không còn quần áo, chạy trốn bom na-pan
trên con đường ở Trảng Bàng, Tây Ninh ngày 8-6-1972... đã trở thành những hình
ảnh ám ảnh người dân Mỹ về tội ác do giới cầm quyền của họ gây nên và đã tạo
thành những cuộc biểu tình phản đối chiến tranh trên khắp nước Mỹ.
Một xã hội miền Nam Việt Nam trước
giải phóng như vậy có phải là xã hội có tự do, dân chủ, có vì con người, có
hạnh phúc hay không?
Còn tiềm lực kinh tế miền Nam lúc bấy
giờ ra sao? Trong cuốn "Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp
hóa Việt Nam" (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2005), giáo sư Trần
Văn Thọ cho biết, tính chung giai đoạn 1955-1975, kinh tế tại miền Nam chỉ phát
triển trung bình 3,9%/năm (bình quân đầu người tăng 0,8%/năm), trong khi cũng
giai đoạn ấy, kinh tế tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa phát triển bình quân 6%/năm
(GDP đầu người tăng khoảng 3%/năm).
Trước giải phóng, các ngành sản xuất
của miền Nam rất yếu kém. Công nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng từ 8% đến 10% GDP,
thậm chí có những năm giảm chỉ còn 6%. Nông-lâm-ngư nghiệp luôn chiếm tỷ
trọng khoảng 30% GDP. Còn tỷ trọng của khu vực dịch vụ là khoảng 45% đến 60%.
Công nghiệp miền Nam đến hơn 90% là công nghiệp nhẹ được hình thành và phát triển
gắn với chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Các doanh nghiệp có quy mô siêu
nhỏ, chỉ khoảng 1% cơ sở có quy mô từ 10 công nhân trở lên, còn 99% là dưới 10
công nhân. Sản xuất công nghiệp phụ thuộc vào nước ngoài về trang thiết bị thay
thế và nguyên liệu, có giai đoạn, 100% nguyên liệu phải nhập khẩu. Vì thế,
có giai đoạn, chính quyền đã bỏ chính sách nhập khẩu nguyên liệu
phục vụ sản xuất mà hướng thẳng tới việc nhập hàng tiêu dùng.
Ngân sách của chính quyền Việt Nam
cộng hòa luôn ở trong tình trạng thâm hụt mà nguyên nhân chính là các khoản chi
cho quân sự luôn lớn hơn chi cho dân sự. Mức thâm hụt ngân sách
thường ở mức 30% đến 40%, trong đó cao nhất là năm 1965 với 41%. Lạm phát
giai đoạn 1965-1970 thường hơn 30%, cao nhất là năm 1966 lên tới
61%. Trong cơ cấu chi ngân sách, chi tiêu quân sự luôn chiếm tỷ trọng lớn, cao
nhất là 66% (vào năm 1968 và năm 1969). Chi tiêu dân sự có tới 80% là chi
trả lương cho đội ngũ công chức trong chính phủ. Vì thế, phần đầu tư cho
phát triển ở mức rất thấp và gần như không có bất cứ khoản nào cho an sinh
xã hội, hỗ trợ người nghèo.
Trả lời phỏng vấn đài BBC, chuyên gia
kinh tế là một Việt kiều Mỹ-ông Bùi Kiến Thành đánh giá, kinh tế dưới chế
độ Sài Gòn là "nền kinh tế phát triển ảo", "không vững
chắc", "không dựa vào cơ sở kinh tế mà chỉ dựa vào chiến tranh là
chính". Không những thế, ông Bùi Kiến Thành nhận định đây là nền kinh tế
"chưa trong sáng", "bị nhũng nhiễu bởi nhóm lợi ích"-những
cụm từ chỉ tình trạng tham nhũng tràn lan của chính quyền Việt Nam cộng
hòa. (4)
Như vậy có thể thấy, thứ kinh tế của
chính quyền ngụy Sài Gòn là thứ kinh tế lệ thuộc hoàn toàn vào hàng trợ cấp của
Mỹ, thứ kinh tế phục vụ chiến tranh. Nó chỉ tạo ra sự phồn hoa giả tạo ở Sài
Gòn, một lối sống tiêu dùng xa hoa, hưởng thụ của giới quan chức nhờ hàng nhập
khẩu từ Mỹ, còn người nghèo thì bị bỏ mặc. Sài Gòn được coi là “Hòn ngọc Viễn
Đông” bởi thời bấy giờ các nước trong khu vực đều còn nghèo.
Một xã hội mà nền kinh tế yếu kém, lệ
thuộc vào ngoại bang; một xã hội mà người dân không được hưởng những quyền cơ bản
về tín ngưỡng; một xã hội mà con người không có “quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc” (cụm từ trích "Tuyên ngôn Độc lập" của
Hoa Kỳ năm 1776) như xã hội miền Nam Việt Nam trước giải phóng thì liệu có thể
tiếp tục tồn tại? Ai dám bảo rằng, chính thể ngụy Sài Gòn-là tay sai của đế
quốc, đưa quân đội nước ngoài vào giày xéo đất nước mình, giết hại đồng bào
mình là một chính thể tốt đẹp?
Thế còn cuộc sống trên đất nước ta
ngày nay thì sao? Chúng ta đã dần hàn gắn vết thương chiến tranh, từ nền kinh
tế của một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế nước ta đã thoát khỏi tình trạng
kém phát triển, lên mức của một quốc gia thu nhập trung bình; đời sống của
người dân đã ngày càng tốt hơn trước. Có một thực tế là trong một số cuộc thăm
dò quốc tế về chỉ số hạnh phúc, Việt Nam luôn xếp thứ hạng cao. Ví dụ như năm
2016 vừa qua, Việt Nam đứng thứ 5 thế giới, cao nhất châu Á trong Chỉ số
hành tinh hạnh phúc (Happy Planet Index, viết tắt HPI) do Tổ
chức nghiên cứu kinh tế-xã hội New Economics Foundation (Anh) công bố. Chỉ
số hành tinh hạnh phúc dựa vào các số liệu chọn lọc từ các quốc gia, các tổ
chức quốc tế và các số liệu do chính New Economics Foundation điều
tra, nói lên mối quan hệ giữa tuổi thọ, cảm giác thoải mái và những hành
vi tác động đến môi trường. Nó có thể xem là chỉ số nói lên cuộc sống
thoải mái của con người trong xã hội và tự nhiên, vượt ngoài cả các yếu tố vật
chất.
Ngày nay, từ các chính trị gia, các
trí thức, học giả, các cựu quân nhân Mỹ đều nhận ra sai lầm của việc phát động
cuộc chiến tranh Việt Nam, nhận ra những cơ hội hòa bình từ thiện chí của Việt
Nam đã bị phía Mỹ cố tình bỏ lỡ. Dưới sức ép của dư luận quốc tế, với những
tiếng nói của lương tri, lương tâm, những người đã gây đau khổ cho nhân dân
Việt Nam đã nhận ra tội lỗi của mình và tìm cách để hỗ trợ hàn gắn phần nào vết
thương chiến tranh. Việt Nam và Hoa Kỳ đã chủ động khép lại quá khứ để hướng
tới một tương lai tốt đẹp hơn, với những chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao, với
hợp tác về kinh tế rất hiệu quả, những dự án phát triển... Vừa qua, Tổng thống
Mỹ Đô-nan Trăm (Donald Trump) đã mời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sang thăm chính
thức Hoa Kỳ vào thời gian tới. Đồng thời, Chủ tịch nước Trần Đại Quang cũng mời
Tổng thống Hoa Kỳ Đô-nan Trăm sang thăm Việt Nam, dự Hội nghị Cấp cao
APEC trong năm 2017 này.
Không ai có thể đảo ngược được quá
khứ. Và cũng không ai có thể bóp méo, xuyên tạc được sự thật lịch sử. Thành quả
hòa bình, thống nhất và hạnh phúc ngày hôm nay là thành quả của cả dân tộc Việt
Nam. Vì vậy, có thể khẳng định ngày 30-4-1975 là ngày hạnh phúc của dân tộc
Việt Nam, là ngày mở ra kỷ nguyên hạnh phúc của dân tộc Việt Nam./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét