294
294 |
Sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, đó là nhận định không chỉ của Đảng ta, nhân dân ta mà còn được bạn bè quốc
tế thừa nhận. Tuy nhiên hiện nay, các thế lực thù địch chống phá Việt Nam thường
xuyên tuyên truyền luận điệu: “Ở quốc gia mà chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo
như Việt Nam thì không có dân chủ, sẽ đưa đất nước, dân tộc đi vào ngõ cụt”
(!). Trên mạng internet đã xuất hiện nhiều thông tin thù địch, trái chiều, các
blog có nội dung xấu rêu rao tư tưởng dân chủ tư sản, bôi son, tô hồng về những
thành tựu của các nước tư sản theo chế độ đa nguyên, đa đảng, hay trực tiếp nói
xấu, bôi nhọ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Bản chất của hoạt động này là nhằm
phủ nhận sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, kích động đa
nguyên, đa đảng, từng bước chuyển hóa thể chế chính trị ở Việt Nam.
Thực tiễn lịch sử
cho thấy, quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu khách
quan, là quy luật không thể đảo lộn ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt
Nam vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sự ra đời đó không chỉ là ý chí đơn thuần của
các nhà hoạt động cách mạng mà là sản phẩm của lịch sử.
Trở lại dòng lịch sử dân tộc, năm 1858,
thực dân Pháp nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của các văn thân, sĩ phu yêu nước, phong trào cách mạng
đã diễn ra trên khắp mọi miền đất nước, từ phong trào đấu tranh theo khuynh hướng
phong kiến đến các phong trào theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Tuy nhiên, vì
nhiều nguyên nhân khác nhau, các phong trào cách mạng cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX đều thất bại. Vào những năm 20 của thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam rơi vào
tình trạng khủng hoảng đường lối lãnh đạo trầm trọng. Giữa lúc đó, người thanh
niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc, bằng hoạt động tích cực của mình trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước, tổ chức cho các thanh niên yêu nước học tập
chính trị, quân sự tại các trường bồi dưỡng cán bộ của Trung Quốc và Liên Xô...
Đó là những hoạt động đầu tiên cho công tác xây dựng Đảng để ra đời Đảng Cộng sản
Việt Nam vào ngày 3-2-1930.
Trong xã hội hiện đại, ứng với mỗi mô
hình kinh tế, xã hội, tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có một
mô hình tổ chức chính trị và dân chủ tương ứng, có thể là hệ thống chính trị một
đảng hay hệ thống chính trị đa đảng cạnh tranh. Trong hệ thống đó, đảng là một
tổ chức chính trị của một giai cấp, đại biểu lợi ích cho giai cấp đó. Đảng ra đời
nhằm mục đích đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Đảng lãnh đạo
giai cấp đấu tranh giành chính quyền bằng phương pháp cách mạng, bằng bạo lực
cách mạng. Đảng chính trị bao giờ cũng mang bản chất giai cấp, không có đảng
chính trị nào là phi giai cấp, siêu giai cấp... Đảng sẽ mất nghĩa tồn tại khi sứ mệnh lịch sử của giai cấp
đã hoàn thành, đây là vấn đề có tính nguyên tắc. V.I.Lênin viết: Cuộc đấu tranh
của các chính đảng là biểu hiện hoàn chỉnh, đầy đủ và rõ rệt nhất của các cuộc đấu tranh chính trị
của các giai cấp.
Trên thế giới hiện nay đang tồn tại ba
loại hệ thống chính trị cơ bản: hệ thống
chính trị một đảng là hệ thống chỉ có duy nhất một đảng chính trị cầm
quyền chi phối quyền lực chính trị - xã hội,
tức là thực hiện chế độ một đảng hay nhất nguyên chính trị, ví dụ như Việt Nam,
Cuba,...; hệ thống chính trị có nhiều đảng nhưng chỉ có một đảng duy nhất là đảng
cầm quyền như Trung Quốc (Trung Quốc là nước duy nhất trên thế giới áp dụng hệ
thống chính trị này và theo Hiến pháp Trung Quốc chỉ có Đảng Cộng sản Trung Quốc
là Đảng cầm quyền); nhưng cũng có nước có thể có nhiều đảng phái chính trị của
các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau cùng tồn tại, đối lập, đấu tranh với
nhau đòi chia sẻ vai trò lãnh đạo chính trị và chi phối đời sống chính trị - xã
hội của quốc gia, đó là các nước thực hiện chế độ đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập
như ở Mỹ, Anh, Đức... Ở cả hệ thống chính trị một đảng hay đa đảng
thì nó đều chứa đựng những thuận lợi và thách thức, vấn đề là ở chỗ các chính đảng
đó tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức thế nào để lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Đối với Việt Nam, những năm đầu thế kỷ
XX, hàng loạt cuộc khởi nghĩa do giai cấp nông dân, các sĩ phu yêu nước lãnh đạo
lần lượt thất bại. Các đảng chính trị đại diện cho các giai cấp, tầng lớp xã hội
ở nước ta lúc bấy giờ tranh đoạt vũ đài lịch sử dân tộc. Từ đảng của giai cấp
nông dân như Nghĩa Hưng (năm 1907), đảng của giai cấp tư sản, địa chủ như Lập
hiến (năm 1923)... tới đảng của tầng lớp thanh niên, sinh viên, trí thức, tiểu
tư sản như: Việt Nam nghĩa đoàn, Đảng Thanh niên, An Nam độc lập Đảng (năm
1927), Việt Nam Quốc dân đảng (năm 1927)... rồi đảng của bọn tay sai thực dân
Pháp và phát xít Nhật như: Đại Việt quốc gia xã hội đảng, Đại Việt quốc dân đảng;
các đảng phản động như: Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội (Việt Cách)... Trong số ấy, chỉ một
số đảng mong chấn hưng đất nước nhưng “lực bất tòng tâm”, một số có âm mưu,
toan tính biến đất nước thành nơi thử nghiệm những mưu đồ chính trị của giai cấp,
tầng lớp họ. Nhưng do không đủ sức lãnh đạo dân tộc, các đảng này hoặc tự phải
diệt vong hoặc bị giải tán. Giai đoạn này, nước
ta đã hình
thành nhiều tổ chức đảng phái khác nhau, mà ta có thể hiểu một cách nôm
na là “đa đảng”.
Chính trong bối cảnh ấy, Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời, từng bước nhận được sự tín nhiệm, yêu mến của các tầng lớp
nhân dân, từng bước lãnh đạo dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ
khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của
giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, là người lãnh đạo và tổ chức mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Qua sự “sàng lọc” khắc nghiệt của lịch sử những
thập niên đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng
sản Việt Nam là tổ chức duy nhất dẫn dắt đất nước đi đến tương lai hạnh phúc.
Như vậy, cần khẳng định rằng, Việt Nam đã từng có thời kỳ lịch sử nhiều đảng
cùng tham gia lãnh đạo cách mạng, nhưng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là cách mạng
nhất, chân chính nhất, đủ bản lĩnh lãnh đạo cách mạng nước ta. Chế độ chính trị
một đảng lãnh đạo là do nhân dân ta lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong
quá trình lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến chống quân xâm lược
và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng
Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp cách mạng nước ta đã đem lại những quyền cơ bản nhất
cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân Việt Nam thực sự được làm chủ cuộc sống
của mình, được sống trong “tự do, hạnh phúc”.
Phải
chăng chế độ một đảng cầm quyền là mất dân chủ?
Đây là câu hỏi tốn nhiều giấy mực của
các học giả cả vô sản lẫn tư sản. Nếu chỉ nhìn vào hiện tượng, thì đã có lúc,
có nơi một số đảng cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và
Đông Âu gây mất dân chủ trong nội bộ đảng và trong quá trình lãnh đạo đất nước
dẫn tới sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước này vào những năm 90
của thế kỷ XX. Với cách nhìn khách quan, biện chứng và tinh thần học hỏi, Đảng
ta đã thẳng thắn nhìn nhận ra điều này và cho đó là một bài học trong quá trình
lãnh đạo đất nước, như V.I.Lênin đã khẳng định: Quan liêu và xa dân là nguy cơ
của bất cứ một đảng cầm quyền nào, nhưng sẽ là sai lầm, nếu chỉ nhìn vào hiện tượng
đơn lẻ mà suy ra bản chất của vấn đề.
Với tư cách là hình thức chế độ chính trị
của đất nước, dân chủ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước, nên không
bao giờ có một thứ dân chủ “thuần tuj”, dân chủ bao giờ cũng mang bản chất giai
cấp sâu sắc. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã và đang trải qua 5
hình thái kinh tế - xã hội, tương ứng với nó là 5 hình thái dân chủ từ cộng sản
nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Mỗi hình thái dân chủ sau là những nấc thang phát triển cao hơn, dựa trên sự kế
thừa của nền dân chủ trong xã hội trước đó. Quy luật ấy cũng phản ánh khát vọng
nghìn đời của nhân loại muốn thoát khỏi mọi sự tha hóa để vươn đến tiến bộ và tự
do cùng với việc nhận thức ra lôgíc vận động của xã hội loài người. Hướng đến
chủ nghĩa xã hội là hướng đến một nền dân chủ tiến bộ và hoàn thiện. Cuộc đấu
tranh vì chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh vì một chế độ dân chủ chân chính nhất.
Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa khác nhau về bản chất và về trình độ
với tư cách là những xã hội nối tiếp nhau trong nấc thang từ thấp lên cao của
xã hội loài người.
Nền dân chủ vô sản gắn chặt với cuộc đấu
tranh vì chủ nghĩa xã hội, nên nó chỉ có thể thực hiện được bằng con đường thiết
lập quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản đối với toàn thể xã hội thông qua đội
tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. Chỉ giai cấp vô sản và đảng tiên phong của
mình với cơ sở xã hội rộng lớn là quảng đại nhân dân lao động và mục tiêu giải
phóng giai cấp, giải phóng lao động, giải phóng xã hội và giải phóng con người
mới có khả năng thiết lập được một nền chuyên chính vừa bảo đảm dân chủ cũng
như các lợi ích căn bản khác của đông đảo quần chúng lao động, vừa triệt tiêu mọi
khả năng phục hồi chế độ bóc lột và nô dịch.
Đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập
là nét đặc trưng của thể chế chính trị tư sản trên thế giới hiện nay.
Nói chung, ở các nước tư bản, về hình thức thì các đảng chính trị đều “tự
do”, “bình đẳng” trong cuộc đấu tranh nghị trường và đều có khả năng trở thành
đảng cầm quyền, nhưng trong thực tế thì chỉ có các đảng lớn, có thế lực, được sự
hậu thuẫn của các tập đoàn tư bản độc quyền mới có khả năng chiến thắng. Mặt
khác, chế độ đa đảng ở phương Tây, xét về thực chất, cũng là dựa trên cơ sở nhất
nguyên chính trị, vì tất cả các đảng cánh hữu đều nhằm phục vụ chế độ tư bản.
Đúng là cơ chế đa đảng đưa lại một số tác động tích cực nhất định cho các đảng
tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo điều kiện cho họ có khả năng tránh nguy
cơ chuyên quyền, độc đoán thông qua cọ xát, kiềm chế, đối trọng lẫn nhau. Tuy vậy,
thể chế đa đảng này cũng dễ khuyến khích các lực lượng đối lập vì lợi ích cục bộ
chỉ biết phản đối tất cả những gì của đảng cầm quyền, bất chấp phải - trái,
đúng - sai. Hệ quả là làm xuất hiện một nền chính trị vì quyền lực và một công
nghệ đấu đá chính trị trên những lợi ích chính đáng của đông đảo cử tri.
Tính giai cấp của nền dân chủ tư bản
phương Tây được thể hiện thông qua vị trí của tiền bạc ngày càng trở thành yếu
tố quyết định trong đời sống chính trị. Cái gọi là “nền dân chủ Mỹ” chỉ là nền
dân chủ của nhà giàu. Tờ Thời báo Tài
chính (Anh) ngày 25-11-2000 viết: “Cuộc bầu
cử năm 2000 đã cho thấy rõ nền
dân chủ Mỹ có thể bán cho những người trả giá cao nhất”. Có thể gọi đó là nền
dân chủ đấu giá. Tờ Thế giới (Tây Ban
Nha) cùng ngày đã ví thói mê tiền như là “căn bệnh ung thư của nền dân chủ Mỹ”.
Một chính quyền được tạo lập bởi đồng tiền thì tất yếu phải hướng đến phục vụ
những kẻ nhiều tiền, chứ không thể là một “chính quyền của tất cả mọi người” mà
các lý luận gia của họ rêu rao. Như vậy, dân chủ hay không dân chủ không phụ
thuộc vào số lượng các đảng chính trị, vào việc có áp dụng hay không áp dụng chế
độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trong từng thời điểm cụ thể, nhà nước
nói riêng và xã hội nói chung đều phải do một đảng lãnh đạo. Có hay không có
dân chủ, dân chủ được thực hiện ở trình độ cao hay thấp, tất cả phụ thuộc vào bản
chất của đảng cầm quyền chứ không phụ thuộc vào số lượng nhiều hay ít các đảng
phái chính trị.
Ở nước ta, thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là quy luật hình thành, phát triển,
là tôn chỉ, mục đích hoạt động của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là người đại diện chân chính duy nhất cho lợi ích và
nguyện vọng của nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống, quyền
tự do, dân chủ và hạnh phúc. Đó là các quyền sử dụng tư liệu sản xuất, có công
ăn việc làm, quyền học tập và hưởng thụ văn hóa, quyền tham gia quản lý nhà nước,
giám sát cán bộ, đảng viên, công chức và cơ quan nhà nước, quyền đóng góp ý kiến
vào các chủ trương, chính sách, pháp luật, bày tỏ ý kiến về các hiện tượng tích
cực và tiêu cực trong đời sống xã hội... Vì vậy, có ai đó nói “một quốc gia chỉ
có một đảng duy nhất lãnh đạo như Việt Nam thì không có dân chủ” là không có
căn cứ, thậm chí là phản khoa học, vì thực tế ở Việt Nam hiện nay đang chứng
minh điều ngược lại.
Sự
thực đằng sau quan điểm trên là gì?
Sở dĩ ở trên chúng ta đề cập đến 2 dạng
người, một là những cá nhân nhận thức ngây thơ về mặt chính trị, hay “não ngắn”
nên có những phát ngôn ngông cuồng, thiếu căn cứ. Trường hợp thứ hai là những
phần tử cơ hội chính trị, chống đối, thù địch với chế độ xã hội chủ nghĩa,
chúng sử dụng các kênh thông tin khác nhau để chống phá cách mạng nước ta, hạ
thấp uy tín của Đảng nhằm tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với Nhà nước và xã hội. Trong đó, chúng sử dụng các trang mạng xã hội để
tập trung: đả phá hệ thống lý luận và nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ nhận chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền, phá hoại việc thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; bôi nhọ uy tín Lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, chia rẽ nội bộ Đảng, đặc biệt trong thời điểm diễn ra Đại hội Đảng
các cấp và kiện toàn bộ máy nhân sự nhà nước ở Trung ương; kích động tư tưởng
phân biệt giai cấp, hận thù chế độ trong các tầng lớp xã hội. Chúng lập ra các
nhóm gọi là “Thư ngỏ 61”, “Kiến nghị 72” để tuyên truyền những thông tin kích động
nhân dân đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp nhằm tạo
cơ hội cho các nước tư bản phương Tây dễ dàng thực hiện mưu đồ chính trị của
chúng. Đưa ra các tuyên bố về tôn giáo, nhân quyền ở Việt Nam trái với thực tế
để cho rằng chế độ một đảng lãnh đạo như ở Việt Nam đang bóp nghẹt “dân chủ”,
làm cho nhân dân bị áp bức, bóc lột, gây ra tình trạng quan liêu, tham nhũng,
làm cho đất nước đi vào “ngõ cụt” (!). Đáng chú ý, sự câu kết, móc nối giữa các
phần tử chống đối ở trong và ngoài nước ngày càng rõ nét, phát hiện nhiều đối
tượng trong nước đã nhận tiền tài trợ của
cá nhân, tổ chức quốc tế để tiến hành
các hoạt động phá hoại tư tưởng, biểu tình, bạo động.
Tình hình thế giới và trong nước những
năm tiếp theo chắc chắn sẽ có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là những biến
động về kinh tế và an ninh chính trị ở các nước, do đó các thế lực thù địch vẫn
tiếp tục tiến hành những hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và cách mạng nước
ta nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, gây
mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ để thực hiện mưu đồ chính trị của chúng
bằng các phương thức, thủ đoạn ngày càng xảo quyệt. Để làm tốt công tác bảo vệ
Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, nâng cao hiệu
lực quản lý của Nhà nước thì yêu cầu đặt ra đối với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân,
trong đó nòng cốt là lực lượng Công an nhân dân phải làm tốt công tác đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch.
Rõ ràng, bằng nhiều phương thức, thủ đoạn
khác nhau, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách rêu rao tư tưởng sai trái,
thù địch để chống phá cách mạng nước ta, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam để ngày càng phụ thuộc vào các nước tư bản phương Tây. Quan
điểm “Một đảng duy nhất lãnh đạo thì không có dân chủ, sẽ đưa đất nước, dân tộc
vào ngõ cụt” rõ ràng là đi ngược lại với thực tế và chính nghĩa, cần cương quyết
đấu tranh, bác bỏ. Do đó, để làm tốt công tác đấu tranh phản bác các quan điểm
sai trái, thù địch chống phá Đảng trong thời gian tới cần tập trung:
Một là, thường xuyên tích cực, chủ động, phối hợp chặt chẽ với
các lực lượng chức năng trong đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, thù
địch. Coi trọng việc đề xuất xây dựng và thực hiện tốt cơ chế, quy chế phối hợp
giữa công an với quân đội và các ban, bộ, ngành của Trung ương, cấp ủy, chính
quyền, đoàn thể các địa phương để phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn chống phá
của các thế lực thù địch.
Hai là, thường xuyên coi
trọng tổ chức xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên sâu trong đấu tranh phản bác
những quan điểm sai trái, thù địch. Để phối hợp tốt với các lực lượng chức năng
trong đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch cần phải có lực lượng
nòng cốt, chuyên sâu.
Ba là, trong phối hợp đấu
tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch phải kiên định chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hoạt động phối hợp đấu tranh phản bác những
quan điểm sai trái, thù địch phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh đạo, chỉ
huy các đơn vị có chức năng đấu tranh trên cơ sở tuyệt đối trung thành và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng vào thực tiễn để xem xét, phân tích, đánh giá, vạch trần bản chất phản động,
phản khoa học của những quan điểm sai trái, thù địch. Quán triệt và thực hiện
nghiêm Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 17-4-2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X
về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên
lĩnh vực tư tưởng - văn hóa,
Bốn là, coi trọng phối hợp
chặt chẽ trong công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn phục vụ hoàn thiện
cơ chế lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý
của Nhà nước, không để các thế lực thù địch có kẽ hở tấn công, đồng thời kiên
quyết đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, đập
tan những quan điểm,
luận điệu sai trái, thù địch. Tổ chức tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm về đấu
tranh chống “diễn biến hòa bình”; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa ở Việt Nam hiện nay... Thông qua nghiên cứu
các quan điểm sai trái, thù địch của các thế lực thù địch để phát hiện những sơ
hở, thiếu sót trong quá trình lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước ta, đề xuất
phương hướng giải quyết để tạo lòng tin trong nhân dân. Việc nghiên cứu nắm chắc
âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phải được tiến hành thường xuyên,
toàn diện, đồng bộ, chủ động, kịp thời, chính xác, nhất là những vấn đề nhạy cảm
trên các lĩnh vực dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, vấn đề Biển Đông, âm
mưu, thủ đoạn chống phá Đảng... cần có sự thông tin, trao đổi phối hợp thường
xuyên của nhiều lực lượng chức năng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét