Nhận diện, đấu tranh phản bác các
quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch về đường lối phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, góp phần làm thất bại âm mưu và hoạt động
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong bộ, củng cố niềm tin, sự thống nhất tư tưởng trong
Đảng, sự đồng bộ về chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự đồng thuận trong xã
hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận và
thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
1.
Quá trình hoàn thiện tư duy lý luận của Đảng về kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa - mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
Trong suốt quá trình hơn 30 năm đổi mới,
Đảng ta nhận thức ngày càng rõ và sát thực tế hơn về tính tất yếu, mục tiêu, bản
chất, đặc trưng, cấu trúc, thể chế, cơ chế vận hành của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Khi bắt đầu đổi mới, Đảng ta quan niệm kinh tế hàng hóa
có những mặt tích cực cần phát huy. Trong quá trình đổi mới, từ thực tiễn, Đảng
nhận thức rõ hơn, kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường là phương thức, điều kiện
tất yếu để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mốc son lịch sử đánh dấu thời kỳ đổi mới
toàn diện đất nước là Đại hội VI của Đảng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh phải đổi
mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, phải nắm vững quy luật khách quan. Mặt
khác, thẳng thắn chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm chủ quan trong đánh giá tình
hình, bối cảnh đất nước và lựa chọn, duy trì mô hình phát triển kinh tế tập
trung quan liêu, bao cấp quá lâu, không phù hợp.
Kế thừa và phát triển đường lối đổi mới,
Đại hội VII của Đảng tiếp tục khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lj của Nhà nước.
Đến Đại hội VIII, Đảng ta đã có
bước phát triển mới, thể hiện ở chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”
Đến Đại hội IX, lần đầu tiên Đảng
chính thức khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội của nước ta. Mục đích của nền kinh tế này là phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Đại hội X của Đảng đã tiếp tục khẳng định
đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để đi lên
chủ nghĩa xã hội, Việt Nam phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng
tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn
kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc
quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh
yêu cầu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường và đã
có những tư tưởng, quan điểm mới. Đại hội nêu rõ: Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lj của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị
trường phải được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả
mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống
của nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo,
tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục kế thừa,
thống nhất, hoàn thiện tư duy lý luận, nhận thức về kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Theo đó, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế
thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập
quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”1.
Như vậy, tư duy về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng được hình thành, phát triển và ngày càng hoàn
thiện hơn qua các kỳ đại hội. Quá trình đó chứng tỏ, Đảng nhận thức rõ được sự
tồn tại khách quan của nền kinh tế thị trường, trên cơ sở đó, Đảng xây dựng nền
tảng cơ sở lý luận vững chắc về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Nhận diện và đấu tranh phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch với quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nhận diện, đấu tranh phản bác các
quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch với quan điểm,
đường lối của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch, góp phần ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa”
trong nội bộ, củng cố sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng bộ về chính
sách, pháp luật của Nhà nước, sự đồng thuận trong xã hội là một trong những nhiệm
vụ quan trọng trong công tác tư tưởng, lý
luận và thực
tiễn hiện nay.
Trong đó, cần tập
trung vào một số vấn đề sau đây:
Một là, đấu tranh phản
bác quan điểm, luận điệu coi kinh tế thị trường là sản phẩm riêng có của chủ
nghĩa tư bản.
Cần khẳng định ngay rằng, việc đồng nhất
kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản là hoàn toàn không có cơ sở khoa học và
sai lầm; đồng thời, coi kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản
là hoàn toàn không đúng; bởi kinh tế thị trường chỉ là một kiểu tổ chức kinh tế
mà xã hội loài người sáng tạo ra, có thể tồn tại ở các chế độ xã hội khác nhau.
Vì thế, việc đồng nhất một kiểu tổ chức kinh tế với một chế độ xã hội là thứ tư
duy máy móc, phiến diện.
Kinh tế thị trường được thừa nhận là
thành tựu chung của nền văn minh nhân loại, không phải là cái riêng của chủ
nghĩa tư bản và kinh tế thị trường không đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Đại hội
VIII của Đảng đã chỉ rõ: Sản xuất hàng hóa là thành tựu của nền văn minh nhân
loại, nó không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó cần thiết cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng. Văn kiện Hội nghị
Trung ương 6 khóa X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa cũng đã chỉ rõ: Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh
nhân loại được phát triển tới trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản, nhưng bản
thân kinh tế thị trường không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản.
Sản xuất hàng hóa có mầm mống từ trong
xã hội nô lệ, phát triển trong xã hội phong kiến và phát triển cao trở thành nền kinh tế thị trường trong xã hội
tư bản chủ nghĩa. Bản chất của kinh tế thị trường và kinh tế hàng hoá là đều nhằm
sản xuất ra sản phẩm để bán, đều nhằm mục đích giá trị và đều trao đổi thông
qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường đều dựa
trên cơ sở phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất, làm cho những người sản xuất vừa độc lập, vừa phụ thuộc vào nhau. Trước
chủ nghĩa tư bản kinh tế thị trường còn ở thời kỳ manh nha, thì trong chủ nghĩa
tư bản nó đạt đến trình độ cao đến mức chi phối toàn bộ nền kinh tế và cuộc sống
của con người trong xã hội đó. Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng
hoá, do đó kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hoá ở trình độ cao
không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển
chung của nhân loại. Chỉ có thể chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay tư
bản là nhân tố giữ vai trò chủ đạo, chi phối trong nền kinh tế thị trường mới làm
cho nền kinh tế thị trường đó mang đặc trưng tư bản, là nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa.
Lựa chọn kinh tế thị trường định hướng
xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị
trường với chủ nghĩa xã hội, mà là nắm bắt
và vận dụng sáng tạo quy luật khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại
ngày nay, là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân trong quá trình xây dựng
đất nước. Trên cơ sở nhận thức tính quy
luật phát triển của thời đại và sự đúc rút kinh nghiệm phát triển nền kinh tế
thị trường trên thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan điểm của Đảng
ta về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực lượng sản xuất
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Hai là, đấu tranh phản
bác quan điểm, luận điệu xuyên tạc, cho rằng: không có kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là một; đã lựa chọn kinh tế thị trường thì
không có định hướng xã hội chủ nghĩa (!).
Sự khác biệt giữa kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam về
bản chất, đặc trưng và hình thức thể hiện; sự kết hợp giữa kinh tế thị trường
và định hướng xã hội chủ nghĩa tập trung ở những nội dung cơ bản sau:
Về người làm chủ,
nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa do giai cấp tư sản làm chủ; nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do nhân dân làm chủ, Nhà nước đại
diện quản lý, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Về mục đích phát
triển: phát triển
kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân lao động và mọi
thành viên trong cộng đồng xã hội, gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới
tiến bộ, phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý
và phân phối. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa có
mục đích tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản, duy trì vai
trò thống trị của giai cấp tư sản và sự bền vững của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Về cơ sở kinh tế - xã hội, đó là sự khác biệt
về chế độ sở hữu. Nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu, trong đó
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu là nền tảng của nền kinh tế quốc
dân. Trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất giữ vai trò thống trị, các công ty tư bản độc quyền
chi phối đến sự phát triển của nền kinh tế.
Về thành
phần kinh tế
và vai trò của các
thành phần kinh tế, được xác định
qua sự khác biệt về thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo. Ở nước ta, kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, về lâu dài kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể dần
trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; trái lại, trong nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa, kinh tế tư bản tư nhân và các tổ chức độc quyền giữ vai trò chủ đạo.
Về chế độ quản
lý kinh tế, ở
Việt Nam, đó là sự quản lj, điều tiết của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
nhằm bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa, nhà nước tư sản và các tổ chức độc quyền quản lý, điều tiết nhằm bảo vệ
lợi ích của giai cấp tư sản và các tổ chức độc quyền.
Về chính sách
phân phối, kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều hình thức phân phối,
trong đó lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo tài sản và vốn.
Về tăng trưởng
kinh tế với công bằng xã hội, Nhà nước Việt Nam chủ động giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Công bằng xã hội không
chỉ là phương tiện mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội mới. Đối với nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa, vấn đề công bằng xã hội chỉ được xem như là phương
tiện nhằm đạt mục đích ngày càng nhiều giá trị thặng dư để duy trì và củng cố
chế độ tư bản chủ nghĩa mà thôi.
Ba là, đấu tranh phản bác
quan điểm, luận điệu cho rằng “đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là chắp vá, không tưởng. Việt Nam hiện nay đang đứng ở ngã ba
đường, không biết đi theo con đường nào. Nếu không hòa nhập vào thế giới, đi
theo con đường tư bản chủ nghĩa thì sẽ bị trả giá, tự giác thì đến đích nhanh
hơn, không tự giác thì tất yếu cũng phải đi theo con đường đó, nhưng đến đích
đau đớn hơn, chậm chạp hơn” (!). Trên cơ sở đó, chúng phủ nhận mục tiêu, lý tưởng,
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phê phán triệt để, bôi đen chủ nghĩa xã hội
hiện thực, bác bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, công khai ca ngợi con đường tư bản
chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là một hình thức đặc thù của kinh tế thị trường, thể hiện sâu
sắc mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa của nền kinh tế. Đặc trưng cơ bản nhất của kinh tế thị trường là sự tồn
tại của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, đa dạng các loại hình
doanh nghiệp trong điều kiện phân công lao động xã hội ngày càng mở rộng, phát
triển. Những đặc trưng này tự nó không mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Tính chất
tư bản chủ nghĩa không phải là thuộc tính vốn có của kinh tế thị trường. Tính
chất của một nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào tính chất của những bộ phận cấu
thành của nó, đặc biệt là tính chất của Nhà nước và tính chất của thành phần
kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường đó. Một nền kinh tế thị
trường mang tính chất tư bản chủ nghĩa là do trong nền kinh tế đó, các doanh
nghiệp tư bản chủ nghĩa (doanh nghiệp sử dụng và bóc lột lao động làm thuê để
chiếm đoạt giá trị thặng dư) tạo nên thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa giữ
vai trò chủ đạo, chi phối nền kinh tế, điều tiết nền kinh tế, mang tính chất tư
bản chủ nghĩa, là người đại diện cho quyền và lợi ích của tư sản. Khi các doanh nghiệp, thành phần kinh tế chi phối
nền kinh tế là các doanh nghiệp tư sản và thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa,
Nhà nước là nhà nước tư bản chủ nghĩa thì tất yếu, nền kinh tế thị trường đó là
nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý,
“cái gì tồn tại thì hợp lý, cái gì hợp lý thì tồn tại”. Nhìn lại hơn 30 năm đổi
mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là minh chứng
sinh động về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đất nước đã vượt qua
giai đoạn khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành
quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển; chính trị
- xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa - xã hội có bước
phát triển; đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; dân chủ xã hội chủ nghĩa
được phát huy và ngày càng mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và
tăng cường; công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống
chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Những
thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và
phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng
là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta, kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và
xu thế phát triển của lịch sử.
Bốn là, đấu tranh phản
bác quan điểm, luận điệu
sai trái, thù địch lợi dụng các hiện tượng bên ngoài để đánh giá, phán
xét, xuyên tạc bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
Hơn 30 năm phát triển nền kinh tế thị
trường, Đảng ta cũng chỉ ra những tồn tại, hạn chế cần tiếp tục khắc phục: Hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường còn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp luật,
cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chất lượng còn hạn chế, chưa đáp
ứng được yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện
ba đột phá chiến lược. Kết quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa còn hạn chế, chưa
tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực
phát triển. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ; môi trường đầu
tư, kinh doanh không thật sự bảo đảm cạnh tranh
lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự
theo nguyên tắc thị trường. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, chưa
thể hiện vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước. Hầu hết doanh nghiệp
tư nhân quy mô còn nhỏ, thiếu liên kết, khả năng ứng phó với các rủi ro yếu,
nhiều doanh nghiệp phải giải thể hoặc ngừng hoạt động. Doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài hoạt động chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động, khai thác tài nguyên và còn hạn chế
trong chuyển giao
công nghệ và
trình độ quản lý tiên tiến. Trình độ phát triển của
các loại thị trường thấp, vận hành chưa thật sự đồng bộ, thông suốt, trong đó
thị trường lao động và thị trường dịch vụ công có cơ cấu chưa hợp lý; thị trường
tài chính - tiền tệ và thị trường bất động sản tiềm ẩn nhiều rủi ro; thị trường
khoa học - công nghệ phát triển chậm. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa
cao; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; Nhà nước còn can thiệp trực tiếp, quá lớn
trong nền kinh tế. Vẫn còn tình trạng bao cấp, xin - cho trong xây dựng và thực
hiện một số cơ chế, chính sách. Hội nhập quốc tế chưa kết hợp và phát huy tốt
nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước để phát triển. Các nỗ lực đổi mới
kinh tế trong nước chưa thật sự đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Nhiều bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, doanh
nghiệp thiếu chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch toàn diện, cụ thể,
chuẩn bị các điều kiện và năng lực về mọi mặt để khắc phục khó khăn, thách thức,
tận dụng cơ hội do hội nhập đem lại. Một số chương trình, dự án chạy theo thành
tích, nhìn thấy lợi trước mắt mà xem nhẹ những tác động lâu dài về môi trường
sinh thái; tình trạng mất vệ sinh an toàn thực phẩm; khiếu nại, khiếu kiện kéo
dài về đất đai... gây bức xúc trong dư luận, nhân dân.
Dựa vào những hạn chế, tồn tại nói trên,
các thế lực thù địch lợi dụng để suy diễn, diễn đạt dưới nhiều hình thức khác
nhau, xuyên tạc, quy chụp bằng những luận điệu chính trị mang tính bản chất về
chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về dân chủ, nhân quyền...;
làm cho những người không có nền tảng tư tưởng chính trị vững vàng dễ bị lầm tưởng,
hồ nghi, thậm chí xét lại, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà suy thoái về tư
tưởng chính trị.
Thực hiện đường lối đổi mới hơn 30 năm
qua, có thể thấy việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là vấn đề hoàn toàn mới chưa có tiền lệ trong lịch sử, phải vừa làm, vừa
tổng kết, rút kinh nghiệm, hoàn thiện thực tiễn là hoàn toàn khách quan, khoa học,
biện chứng. Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều
hạn chế do công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết chưa theo kịp đòi hỏi của tình
hình. Nhiều vấn đề lớn đặt ra trong quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn có ý kiến khác nhau, ảnh hưởng tới
việc ban hành cơ chế, chính sách từ nhiều năm nhưng chưa có câu trả lời, như vấn
đề sở hữu đất đai, vai trò của kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, vai
trò, vị trí của kinh tế tư nhân... Nhận thức được vấn đề này, Đại hội XIII của
Đảng đã có tổng kết, đánh giá, phát triển tư duy lý luận về kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa một cách sâu sắc, toàn diện và đầy đủ hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét