Việt Nam là quốc
gia đa tôn giáo, có tôn giáo du nhập từ bên ngoài vào, có tôn giáo nội sinh.
Trong những năm qua tôn giáo ở Việt Nam phát
triển phong phú và đa dạng làm cho tình hình tôn giáo ở Việt Nam có nhiều
thay đổi. Theo thống kê của Ban Tôn
giáo Chính phủ, hiện nay ở nước ta có 37 tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước cấp
đăng ký hoặc công nhận về tổ chức và 01 pháp môn tu hành; có
trên 22 triệu tín đồ các tôn giáo, chiếm hơn 25% dân số cả nước, với trên
85.000 chức sắc, nhà tu hành và hơn 26.000 cơ sở thờ tự phân bố trên khắp các
tỉnh, thành phố.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, nhất quán về tôn giáo và
công tác tôn giáo, như: Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị (khóa VI); Nghị quyết
25/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về “Công
tác tôn giáo”. Chính phủ có Nghị định số 22/NĐ-CP ngày 01/3/2005 Hướng dẫn
thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Chỉ thị số
01/2005/CT-TTg ngày 04/2/2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối
với đạo Tin Lành,… nhiều tỉnh, thành phố đã chủ động xây dựng Nghị quyết chuyên
đề về công tác tôn giáo, thành lập Ban chỉ đạo công tác tôn giáo để chỉ đạo
thống nhất trong hoạt động. Nhận thức về công tác tôn giáo của cấp ủy Đảng,
chính quyền, cơ quan quản lý các cấp được nâng lên ngang tầm đòi hỏi của thực
tiễn. Đã vận dụng linh hoạt các biện pháp trong xử lý những vấn đề liên quan
đến tôn giáo gắn với hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương; giải quyết tương đối
kịp thời các nhu cầu chính đáng về sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào;
tạo điều kiện giúp đỡ các giáo hội, chức sắc sinh hoạt tôn giáo đúng pháp luật…
Với những chính sách và quan điểm
đúng đắn trên, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào tôn giáo những năm qua
được nâng lên rõ rệt. Đa số chức sắc, chức việc, tín đồ phấn khởi, tin tưởng
trước những thành tựu đổi mới của đất nước; tín đồ các tôn giáo đã phát huy
truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, đoàn kết chặt chẽ giữa đồng
bào có tín ngưỡng, tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo, hăng hái tham gia
các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và củng cố quốc phòng,
đảm bảo an ninh trật tự, góp phần làm nên những thành tựu to lớn trong công
cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
Tuy nhiên, giải quyết vấn đề dân
tộc, tôn giáo ở mỗi nước trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng luôn
là một lĩnh vực khó khăn, phức tạp và lâu dài. Trong khi đó, các thế lực phản
động trong và ngoài nước luôn xem đây là “mặt trận thuận lợi”, là “cửa ngõ”, “ngòi
nổ” và là “mảnh đất màu mỡ” để thúc đẩy thực hiện chiến lược “diễn biến hòa
bình”, âm mưu bạo loạn lật đổ với cách mạng nước ta trong tình hình mới. Dã tâm
đó của chúng có thể điểm mặt, kể tên với một số hành động cụ thể:
Một là, trong chiến lược “diễn biến hòa
bình”, các thế lực thù địch luôn khẳng định: dân tộc và tôn giáo là hai vũ khí
có khả năng đánh gãy xương sống của Cộng sản. Vì vậy, lợi dụng xu thế toàn cầu
hoá kinh tế và hội nhập quốc tế cũng như thông qua hoạt động tài trợ kinh tế,
từ thiện, các tổ chức phản động ngoài nước đã tích cực chuyển tài liệu tôn giáo
có nội dung phản động vào trong nước với mục đích xuyên tạc bản chất chế độ xã
hội chủ nghĩa, vu khống về chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước
nhằm tạo cớ can thiệp sâu vào công việc nội bộ nước ta. Đồng thời, chúng đẩy
mạnh các hoạt động gây dựng lực lượng chống đối ở trong nước nhằm chia rẽ khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất ổn định chính trị - xã hội, tạo dựng những
nhân tố tiến tới chuyển hoá chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Cụ thể hóa hoạt động phá hoại này, chúng đã liên
tục bơm những dòng tiền nhằm hỗ trợ, mua chuộc và dựt dây, chống lưng
ủng hộ những phần tử “cơ hội chính trị”, những người có tư tưởng bất mãn, cực
đoan, quá khích trong một số cộng đồng tôn giáo để kích động tâm lý mặc cảm, tư
tưởng ly khai, chống đối trong đồng bào có đạo và đồng bào dân tộc thiểu số. Chúng
ra sức đẩy mạnh vieech xuyên tạc, vu cáo Đảng và Nhà nước ta vi phạm nhân
quyền, vi phạm tự do tôn giáo, khủng bố, đàn áp, bắt giam, ngăn cản hoạt động tôn
giáo của các tín đồ... nhằm tạo ra sự nhiễu loạn thông tin, thực hiện việc đánh
lận con đen khiến cho đồng bào có đạo hoang mang dao động, khó phân biệt giữa
thật - giả, đúng - sai… Từ đó, tạo khoảng trống trong tư tưởng để lôi kéo, kích
động quần chúng tín đồ chống đối chế độ, tham gia hoạt động biểu tình, gây rối
hòng tạo ra những “điểm nóng” về chính trị để lấy cớ kêu gọi sự can thiệp từ
“bên ngoài”.
Hai là, chúng âm mưu thúc đẩy sự liên kết hoạt động giữa các
tôn giáo (liên tôn); phối hợp chặt chẽ với các lực lượng phản động, cơ hội
chính trị trong nước để tạo dựng ngọn cờ, hình thành lực lượng đối lập, làm “đối
trọng” với Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam (Đây cũng là thủ đoạn đã từng
được các thế lực phản động quốc tế chống chủ nghĩa cộng sản sử dụng thành công ở
một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cuối thế kỷ XX); đẩy mạnh phát triển các
hội đoàn tôn giáo, làm sầm uất xứ đạo, khuyếch trương thanh thế, kết hợp với
tăng cường truyền đạo trái phép, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ để tập hợp lực lượng và dẫn
dắt đồng bào thực hiện mưu đồ chính trị phản động của chúng.
Nổi bật trong thủ đoạn trên, trong những năm vừa qua, trên
địa bàn Tây Bắc và Tây Nghệ An, các thế lực thù địch đã ráo riết thực hiện mưu
đồ lập ra đạo “Vàng Chứ” để thành lập cái gọi là “Vương quốc Mông tự trị”. Vùng
Tây Nguyên, chúng đòi thành lập đạo Tin Lành Đềga với mưu toan là cơ sở cho ý
đồ thành lập “Nhà nước Đề-ga độc lập”. Ở Tây Nam Bộ, nơi có đông đồng bào Khơ
me sinh sống, chúng chủ trương dựng nên “Nhà nước Khơ me Krôm” với luận điệu vu
khống Nhà nước ta đàn áp hệ Phật giáo Nam tông Khơ me Nam Bộ. Đây là thủ đoạn
rất nham hiểm, trắng trợn của các thế lực thù địch hòng phá hoại an ninh quốc
gia, đe dọa độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Ba là, bằng nhiều thủ đoạn và chiêu trò thâm hiểm, xảo
quyệt, chúng từng bước xúc tiến việc nắm quyền điều khiển các tổ chức tôn giáo để
biến những tổ chức này thành các tổ chức chính trị, đảng chính trị để làm chỗ
dựa, “núp bóng” cho các hoạt động phá hoại và mưu đồ phản động của chúng. Họ
triệt để lợi dụng vỏ bọc tôn giáo để phê phán, xuyên tạc, bôi nhọ hòng hạ thấp
uy tín của Đảng và Nhà nước ta. Lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, họ
đòi tôn giáo phải độc lập, không chịu sự quản lý của Nhà nước; tâng bốc, ca
ngợi “tự do tôn giáo” ở các nước tư bản; yêu cầu Nhà nước ta “công nhận” hoạt
động của các tổ chức tôn giáo giả hiệu như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống
nhất, Tin lành Đề-ga, Vàng Chứ, đạo Hà mòn,…; đòi thả các “tù nhân tôn giáo” -
những kẻ đội lốt tôn giáo để vi phạm pháp luật; kêu gọi Chính phủ Mỹ đưa Việt
Nam vào “danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo”, v.v.
Những
hoạt động trên của các thế lực thù địch là hết sức thâm độc và nguy hiểm xét cả
trên phương diện lý luận và thực tiễn. Nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ
thù, Nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa IX) về
Công tác tôn giáo đã nêu rõ quan điểm: Tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đã, đang và
sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đảng, Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Mọi tín đồ đều có quyền tự do
hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng khẳng định: Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về “Tín
ngưỡng, tôn giáo”, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các
tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo
hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy
định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc
những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật.