Những năm gần đây, các thế lực hiếu chiến với luận thuyết
“nhân quyền cao hơn chủ quyền” đã sử dụng sức mạnh “đồng minh”, tự khoác cho mình
là người “đại diện cộng đồng quốc tế”, trên danh nghĩa của một tổ chức quốc tế lớn
nhất hành tinh - Liên hợp quốc, ngang nhiên tiến công vũ trang chống các quốc gia
độc lập có chủ quyền. Để chuẩn bị kỷ
niệm 50 năm thành lập (1949 - 1999), NATO do Hoa Kỳ đứng đầu phát động cuộc
chiến tranh xâm lược Nam Tư với danh nghĩa “bảo vệ nhân quyền”, không cần sự
cho phép của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Bằng cuộc chiến tranh xâm lược Nam
Tư, NATO mở đầu “cuộc thập tự chinh” của Hoa Kỳ trong thế kỷ XXI. Năm 2001, Hoa
Kỳ tập hợp lực lượng liên quân của 43 quốc gia do NATO làm nòng cốt phát động
cuộc chiến tranh mang tên “Tự do bền vững” tại Afghanistan chống lại Phong trào
Taliban mà Washington cho là chứa chấp trùm khủng bố Osma Bin Laden - chủ mưu
gây ra vụ tấn công ngày 11/09/2001. Sau gần 20 năm, người dân quốc gia Trung Á
này vẫn chưa được tự do, còn chiến sự vẫn diễn ra hằng ngày. Tiếp theo cuộc
chiến ở Afghanistan, năm 2003, Hoa Kỳ phát động cuộc chiến tranh với sứ mệnh
được tuyên bố là “Tự do cho Iraq” mượn cớ “giải giáp vũ khí hóa học” - một cuộc
chiến không chỉ bị Nga và Trung Quốc mà cả các đồng minh của Mỹ trong NATO là
Pháp và Đức phản đối. Đến nay, Mỹ vẫn bị sa lầy tại đây. Đầu tháng 5/2008, NATO
do Mỹ đứng đầu đã trang bị và huấn luyện cho Quân đội Gruzia tiến hành “cuộc
chiến tranh ủy nhiệm” nhằm vào lực lượng gìn giữ hòa bình của Nga ở Nam Osetia.
Trong cuộc chiến này, Gruzia đã bị Nga đánh trả và thất bại thảm hại - dấu hiệu
về sự sụp đổ vị thế của Mỹ và sự trỗi dậy của nước Nga sau Chiến tranh lạnh.
Năm 2011, Hoa Kỳ đứng đầu NATO kích động các biến động chính trị mang tên “Mùa
Xuân Arab” ở Trung Đông - Bắc Phi, dẫn tới cuộc chiến tranh xâm lược Libya mang
tên “Bình minh Odyssey” tiêu diệt nhà lãnh đạo M. Gaddafi. “Mùa Xuân Arab” còn
dẫn tới cuộc chiến tranh Syria kéo dài tới nay chưa có hồi kết và được giới
phân tích đánh giá như “cuộc chiến tranh thế giới thu nhỏ” với sự tham gia của
lực lượng đến từ gần 90 quốc gia hay cuộc chiến tranh ở Mali (2012), Yemen
(2015) và hàng loạt các cuộc chính biến làm suy yếu các nước Trung Đông - Bắc
Phi là
những ví dụ điển hình về một liên minh đế quốc khổng lồ triển khai luận thuyết đó
trên thực tế. Những chiếc áo “đạo đức”, những lý do “nhân đạo”, “nhân quyền” được
chúng tung ra hòng che lấp bản chất phản nhân đạo, phi nhân quyền của cuộc chiến
tranh do chúng phát động. Luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, cho đến hiện
nay, xem ra vẫn là một “bảo bối” được các thế lực phản động, hiếu chiến thường xuyên
sử dụng để đe doạ, can thiệp và tiến công một quốc gia dân tộc nào đó mà chúng cho
là “vi phạm nhân quyền”. Vì thế, hơn lúc
nào hết, các quốc gia dân tộc cần phải nêu cao cảnh giác, vạch rõ thực chất của
luận thuyết này là gì, tính chất phản động về chính trị và phản khoa học của nó
như thế nào, để không những làm cơ sở động viên sức mạnh toàn dân tộc, nêu cao ý
chí quyết tâm chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của mình; mà còn là
cơ sở cho việc tạo lập một mặt trận rộng rãi chống đế quốc của cộng đồng quốc tế.
Thứ nhất, nhân quyền là quyền con người và quyền con người ấy bao giờ cũng gắn bó chặt
chẽ, không thể tách rời với quyền thiêng liêng của cả dân tộc.
Mọi sự tách ra, hoặc đối lập quyền của con người với
quyền của quốc gia dân tộc đều là sai lầm cả về lý luận và thực tiễn, sẽ dẫn đến
những hậu quả nguy hại. Không phải ngẫu nhiên khi đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh
ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn ra những mệnh đề
bất hủ về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776, trong Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791, và gắn quyền con người
đã được tuyên bố ấy với quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[1].
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, cũng như tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho con người và cho các dân tộc những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh cần phải được lý giải thêm là: không thể có được quyền con người đầy đủ,
không thể có nhân quyền nếu như Tổ quốc không có độc lập tự do, nếu nhân dân lao
động bị các thế lực thực dân, đế quốc bóc lột, dày xéo như kiếp “ngựa trâu”; muốn
có nhân quyền thực sự thì vấn đề quyết định trước hết là phải giành cho được độc
lập, tự do. Làm cách mạng để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc thì đồng thời cũng
đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; xây dựng chủ nghĩa xã hội là đưa nhân
dân lao động lên làm chủ và đứng ra cai quản, tổ chức xây dựng xã hội mới, xây dựng,
phát triển và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, là làm cho mỗi
người và cả dân tộc đều “sung sướng” và “tự do”.
Sự thống nhất, gắn bó giữa quyền con người và quyền dân
tộc đã được “Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền” của Liên hợp quốc năm 1948
khẳng định và tiếp tục được nhấn mạnh trong nhiều tuyên ngôn, công ước sau đó. Công
ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 cam kết tôn trọng và đảm bảo
quyền của tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ,
tôn giáo, chính kiến, dân tộc; đồng thời cũng nhấn mạnh, tất cả các dân tộc đều
có quyền tự quyết, tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển
kinh tế, xã hội và văn hoá.
Nhân quyền là một giá trị cao quý của nhân loại đã được
thừa nhận; quyền độc lập, tự do của các quốc gia dân tộc là một giá trị thiêng liêng
đã được cả thế giới ghi nhận; sự thống nhất và gắn bó giữa quyền con người và quyền
dân tộc là một tất yếu đã được lịch sử xã hội loài người xác thực. Những giá trị
cao quý, thiêng liêng được thừa nhận đó không phải do ai “ban cho”, không phải
“từ trên trời rơi xuống”, mà là kết quả đấu tranh liên tục, bền bỉ của các lực lượng
cách mạng, hoà bình, của nhân loại tiến bộ, của các quốc gia dân tộc bị áp bức trên
toàn thế giới. Con người bao giờ cũng sống
trong một cộng đồng người nhất định; khi dân tộc xuất hiện thì con người
sống trong và gắn bó với cộng đồng dân tộc, mang tâm hồn, cốt cách của dân tộc đó,
có nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ sự tồn tại, phát triển của dân tộc. Không thể
tách và đối lập quyền con người với quyền dân tộc, cũng không thể mượn cớ “vì nhân
quyền”, vì quyền con người để xâm phạm độc lập chủ quyền của các quốc gia dân tộc.
Vì thế, luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, từ trong bản chất đã là một
luận thuyết sai lầm và phản động, thực chất là nhằm biện minh cho những hành động
xâm lược, phi nhân tính của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực hiếu chiến.
Thứ
hai, những kẻ rêu rao “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “nhân quyền không biên giới”.
Chúng cho rằng “cộng đồng
quốc tế có quyền tiến công vào bên trong lãnh thổ một quốc gia dân tộc để bảo vệ
nhân quyền”, có thực sự vì nhân quyền hay không? Câu trả lời ở đây rõ ràng không
phải là vì nhân quyền, không phải là để “bảo vệ nhân quyền” như chúng đã từng tuyên
bố. Chính nhà báo - nhà văn nổi tiếng người Mỹ, Uy-li-am Blum, trong cuốn sách
“Nhà nước đỏ: Đường lối siêu cường duy nhất của
thế giới”, đã “trả lời giúp”: Kể từ năm 1945 Mỹ đã toan tính lật đổ 40 chính phủ,
đàn áp hơn 30 phong trào quốc gia, làm cho hàng chục triệu người chết, gây ra biết
bao cảnh tang tóc cho các dân tộc. Trong các cuộc chiến tranh, Mỹ đã nhẫn tâm sử
dụng cả những loại vũ khí đã bị Liên hợp quốc cấm, như ném hai quả bom nguyên tử
xuống hai thành phố Hi- rô- si- ma và Na-ga-sa-ki của Nhật Bản năm 1945, giết hại
cùng một lúc hàng chục vạn người dân vô tội; sử dụng vũ khí hoá học và chất
độc da cam/đi-ô-xin trong chiến tranh xâm lược Triều Tiên và Việt Nam.
Để tiến công Nam Tư và
Irắc, chủ nghĩa đế quốc đã rêu rao tổng thống và chính phủ của những nước này là
“vi phạm nhân quyền”, “đàn áp sắc tộc”, là “độc tài”, cần phải trừng phạt, “để cứu
nhân dân thoát khỏi thảm hoạ nhân đạo, nhân quyền”. Thế rồi, bom, đạn, các loại
vũ khí công nghệ cao với sức huỷ diệt và sự tàn phá ghê gớm ngày đêm chúng bắn phá,
tàn sát các trường học, bệnh viện, khu dân cư, reo rắc sự chết chóc và đau thương
cho người dân vô tội, phụ nữ và trẻ em và biết bao gia đình ở những nước này. Bằng
hành động chiến tranh xâm lược dã man đó, những kẻ rêu rao “nhân quyền cao hơn chủ
quyền” đã tự tước bỏ cái mặt nạ giả nhân, giả nghĩa, lộ rõ nguyên hình là kẻ hiếu
chiến. Điều đó không những đã vi phạm một cách trắng trợn độc lập, chủ quyền, quyền
dân tộc tự quyết của các quốc gia dân tộc đã được chính Liên hợp quốc thừa nhận
trong các tuyên ngôn và công ước của mình; mà còn vi phạm nghiêm trọng quyền sống
và quyền tự do của con người.
Quyền
được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc trong một đất nước độc lập, tự do của người
dân là vô cùng quý giá, độc lập chủ quyền của các quốc gia dân tộc là vô cùng thiêng
liêng. Sự vi phạm đó của chủ nghĩa đế quốc đối với những điều quý giá và thiêng
liêng ấy là không thể biện minh được, không thể bào chữa được. Không thể áp đặt
“giá trị nhân quyền” của mình cho các quốc gia dân tộc khác. Nhân quyền là giá trị
nhân loại, nhưng biểu hiện cụ thể trong mỗi quốc gia dân tộc có sự khác nhau. Không
ai có thể tự cho mình cái quyền can thiệp, có quyền giải quyết các vấn đề nhân quyền
trong nội bộ của các quốc gia khác, càng không thể có quyền thực hiện sự can thiệp
đó bằng bom đạn. Sự tự cho đó là trái đạo lý, trái đạo đức, là phản tiến bộ.
Rõ ràng, luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền” không
phải vì nhân quyền nào cả; thực chất đó là cơ sở lý luận cho chính sách hiếu chiến,
cường quyền và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, là vì lợi ích chính trị, kinh tế
của chúng mà thôi, là sự phản ánh tập trung bản chất phản động, phi nhân quyền,
phi đạo lý, phản nhân đạo của các thế lực đế quốc hiếu chiến trong điều kiện lịch
sử mới. Chính những hành động dã man, tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc đối với nhân
dân các quốc gia dân tộc trên thế giới và sự bóc lột đối với chính nhân dân nước
mình đã làm lộ rõ tính chất phi nhân quyền của luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ
quyền”.
Thứ ba, trong bối cảnh lịch sử mới của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc.
Hiện nay, so sánh lực lượng trên thế giới có lợi cho
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, bất lợi đối với các lực lượng cách mạng,
hoà bình và tiến bộ, thì luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền” mà các thế lực
hiếu chiến đem ra thực thi trên thực tế càng trở nên nguy hiểm. Tính chất nguy hiểm
đó biểu hiện ở chỗ, nó dễ gây nên sự ngộ nhận, sự nhầm lẫn ở một số người trong
việc xem xét bản chất chính trị, tính chất của chiến tranh. Bằng sức mạnh kinh tế,
quân sự của mình, với sức mạnh và áp lực của liên minh đế quốc khổng lồ, luận thuyết
“nhân quyền cao hơn chủ quyền” của chủ nghĩa đế quốc có vẻ càng có “sức thuyết phục”
hơn. Việc chủ nghĩa đế quốc phát động tiến công xâm lược chống một quốc gia độc
lập có chủ quyền nào đó lại có thể bị ngộ nhận đó là hành động vì “hoà bình”, vì
sứ mạng cao cả “cứu nhân dân ra khỏi thảm hoạ nhân quyền”; còn các quốc gia dân
tộc bị tiến công bị xem là những người tạo ra “nguyên cớ”, là nguyên nhân chủ yếu
gây ra chiến tranh. Vì thế, người ta cố tình và ráo riết yêu cầu các quốc gia dân
tộc phải “giải quyết các vấn đề dân chủ, nhân quyền”, nếu không thì sẽ bị cấm vận,
phong toả, sẽ bị tiến công bằng quân sự. Tất nhiên, việc giải quyết các vấn đề dân
chủ, nhân quyền ấy, thậm chí cả những vấn đề nhân sự trong giới lãnh đạo của các
nước là phải theo những “giá trị” dân chủ, nhân quyền và lập trường, quan điểm của
chủ nghĩa đế quốc, mà trong nhiều trường hợp lại được mượn danh, đại diện cho cả
cộng đồng quốc tế, cho Liên hợp quốc.
Tình hình đó làm cho cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo
vệ độc lập chủ quyền, bảo vệ những giá trị dân chủ, nhân quyền của mình, bảo vệ
cuộc sống yên lành của nhân dân ở các nước càng trở nên khó khăn, phức tạp. Nếu
không vạch rõ tính chất phản động, phản tiến bộ của luận thuyết “nhân quyền cao
hơn chủ quyền”, nếu không làm cho nhân dân thấy rõ bản chất phản động, hiếu chiến
của chủ nghĩa đế quốc, thấy được tính chất phi nghĩa của cuộc tiến công xâm lược
của chúng, thấy được tính chất chính nghĩa cao cả, vì đạo lý của cuộc chiến tranh
chống xâm lược của nước mình, thì các quốc gia dân tộc không thể giành được thắng
lợi.
Không thể đối lập nhân quyền với chủ quyền, mượn danh
“vì nhân quyền” để xâm phạm chủ quyền, cũng không thể mượn danh “vì chủ quyền” mà
vi phạm nhân quyền. Cố tình lợi dụng vấn đề nhân quyền mà vi phạm độc lập chủ quyền
của quốc gia dân tộc khác; hoặc cố tình mượn danh nghĩa bảo vệ “lợi ích, chủ quyền
quốc gia” ngoài biên giới để đem bom đạn và chết chóc, đau thương cho dân tộc khác,
giết hại dân lành của quốc gia khác đều là những hành động phi nhân quyền, phản
nhân loại, và nhất định sẽ bị thất bại.
Cho dù luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền” có
được che dấu kín đáo và tinh vi đến đâu, nhưng chắc chắn rằng, nhân loại tiến bộ
sẽ ngày càng nhận rõ bộ mặt thật của chủ nghĩa đế quốc, càng thấy rõ bản chất hiếu
chiến, xâm lược và phản động của chúng và càng đoàn kết hơn trong mặt trận đấu tranh
chung chống cường quyền, chống chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ độc lập chủ quyền và những
giá trị nhân quyền đích thực của mình./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét