Thứ Hai, 30 tháng 1, 2023

NHẬN DIỆN ĐẤU TRANH CHỐNG NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Tác phẩm tham gia dự thi viết chính luận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch lần thứ hai năm 2022 với chủ đề: “Nhận diện đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Tác phẩm dự thi đã phân tích làm rõ những nội dung cơ bản về bản chất, chức năng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đồng thời tác phẩm cũng đã đề cập đến một số vấn đề về tính tất yếu, nội dung, giải pháp cơ bản và trách nhiệm của Quân đội ta trong tham gia xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.


Trong lịch sử phát triển của các quốc gia, dân tộc trên thế giới, dù là nước lớn hay bé, giàu hay nghèo, phát triển hay đang phát triển, đều xây dựng cho mình những chủ thuyết, bao gồm hệ thống các quan điểm, nhận thức, tư tưởng mang tính lý thuyết nhằm định hướng cho sự phát triển của quốc gia.

Yếu tố cơ bản, bất biến và có ý nghĩa phổ biến của một nhà nước pháp quyền là: Hiến pháp và thượng tôn hiến pháp; tính minh bạch của pháp luật và của việc thực hiện pháp luật; pháp luật phải dễ tiếp cận và được thực hiện kịp thời; phân quyền, phân công, phối hợp quyền lực nhà nước; sự độc lập của Tòa án. Tuy nhiên, một yếu tố cơ bản, đi đôi và gắn liền nữa đó là, sẽ không có và không thể xác lập và khẳng định được chế độ pháp quyền nếu ở một quốc gia có các yếu tố phổ biến và yếu tố đặc thù loại trừ, vô hiệu lẫn nhau, đối nghịch với nhau với tính cách là những giá trị xã hội. Theo đó, cùng với tính phổ biến, tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được lịch sử và hiện tại xác nhận trên cả lý thuyết và hiện thực ở vấn đề sau:

Nhà nước pháp quyền ở mỗi nước về thực chất là sự phản ánh mối liên hệ giữa tính phổ biến với tính đặc thù của nhà nước pháp quyền. Đây là mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng; cái chung bao giờ cũng tồn tại trong những cái riêng, và cái riêng, cái đặc thù thì luôn luôn cụ thể và đa dạng hơn nhiều so với cái chung - ở đây chính là những giá trị cốt lõi, những nguyên tắc và đòi hỏi của nhà nước pháp quyền.

Ngay từ khi manh nha ra đời, nhà nước pháp quyền đã có hai phiên bản gắn liền với đặc thù địa chính trị, văn hóa, tư tưởng. Đó là hai kiểu nhà nước pháp quyền ở phương Tây và phương Đông đã tồn tại và gắn liền với những tư duy, quan niệm về chúng. Tiếp đó, dưới ảnh hưởng của Luật La Mã, về sau này là ảnh hưởng của tư tưởng pháp luật thực chứng của Hans Kelsen (1881-1973) đã coi bất kỳ một nhà nước có pháp luật nào cũng đều là nhà nước pháp quyền nếu pháp luật được quy định bởi nhà nước và nhà nước được đảm bảo tồn tại theo một trật tự pháp luật nhất định. Quan điểm này không chú ý đến nội dung thực chất của pháp luật, phủ nhận mối quan hệ giữa pháp luật với văn hoá, với đạo đức.

Xa hơn Kelsen một chút và gần hơn với học thuyết pháp luật tự nhiên, quan niệm ở Hoa Kỳ về “thủ tục pháp lý chặt chẽ” cũng đề cao nhà nước pháp quyền theo hướng coi trọng thủ tục chặt chẽ, có thể lường trước được, mặc dù quan niệm Rule of Law của Hoa Kỳ là thiên về pháp luật tự nhiên, khi pháp luật được hiểu là sự công bằng, là giá trị quyền con người. Trong khi đó, quan niệm khác gắn nhà nước không chỉ với pháp luật mà cả với văn hoá và đạo đức xã hội. Đó là mô hình Nhà nước pháp quyền khoan dung, mềm dẻo. Mô hình này cũng thừa nhận các chuẩn mực pháp lý. Tuy nhiên, điều cốt lõi trong quan hệ giữa nhà nước, pháp luật và đạo đức là ở chỗ các cơ cấu pháp lý là cơ sở để cá nhân hành động vừa theo pháp luật vừa theo cả các nguyên tắc đạo đức để rồi cuối cùng phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi của mình. Như vậy, pháp luật và đạo đức đều trở thành chuẩn giá trị cho hành vi, nhưng trách nhiệm pháp lý vẫn là thước đo cuối cùng. Nền tảng đạo đức của chế độ pháp trị ở đây chính là các giá trị khoan dung và công bằng. Pháp luật không chỉ dựa trên sự phục tùng đơn thuần mà là một chế độ, một trật tự tự giác và tự chịu trách nhiệm trên cơ sở tự do tham gia vào các quá trình và quan hệ xã hội.

Về thực tiễn, ở phương Tây và ở phương Đông, tư tưởng Nhà nước pháp quyền đều gắn với pháp luật, nhưng tư tưởng nhà nước pháp quyền ở phương Đông chịu ảnh hưởng to lớn bởi tư tưởng pháp trị coi pháp luật thuần túy là công cụ trong tay nhà nước, nên bước chuyển sang tư duy nhà nước phải chịu sự ràng buộc của pháp luật là rất khó khăn và là thách thức thực sự trên con đường xây dựng chế độ pháp quyền. Thêm vào đó, những điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội khó khăn đã nuôi dưỡng quan niệm coi trọng lợi ích của cộng đồng to hơn lợi ích cá nhân con người nên ở đó có không nhiều những cơ chế pháp lý hữu hiệu và ổn định để bảo vệ quyền con người. Từ đó dẫn đến việc người có chức quyền thiếu ý thức tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của con người và ngay cả người dân cũng ít có ý thức về quyền.

Như vậy, nền chính trị ở mỗi nước khác nhau, truyền thống văn hóa và đặc điểm dân tộc khác nhau trong từng thời kỳ lịch sử đã dẫn đến những sự khác nhau trong cách hiểu và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước cũng như cách thức vận dụng các đặc trưng chung của nhà nước pháp quyền vào thực tiễn. Trong số đó, việc đưa các giá trị đạo đức vào tiêu chí pháp luật nội dung và pháp luật thủ tục được coi là một xu hướng rất rõ nét của nhà nước pháp quyền hiện đại, tạo nên tính tất yếu, đặc thù, riêng có của nhà nước pháp quyền, không những không loại trừ tính phổ biến mà còn tạo thêm cơ sở để dần làm rõ hơn tính phổ biến của nó.

Trong đời sống pháp lý của thế giới hiện đại ngày nay đã cho thấy, nhà nước pháp quyền ở mỗi quốc gia luôn có tính đặc thù riêng biệt, có tính pháp quyền riêng biệt; tôn trọng tính riêng biệt của nhà nước và chế độ chính trị khác nhau giữa các quốc gia thành viên LHQ là pháp lý và là nguyên cớ căn bản nhất để LHQ tồn tại; không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác cũng là điều căn bản nhất được ghi nhận trong Hiến chương LHQ.

Từ những chứng cứ về lý luận và thực tiễn trên đây cho thấy, những ai lấy pháp quyền và pháp lý của LHQ để làm tiêu chí đánh giá về pháp quyền và nhà nước pháp quyền của nước khác là “chỉ biết một mà không biết mười”, chỉ thấy hiện tượng mà không thấy được bản chất của pháp luật và “trò chơi” pháp luật trong một thế giới mà sự bất bình đẳng do chủ nghĩa tư bản và nhà nước tư sản gây nên. Bất cứ ai tuyệt đối hóa hoặc tính phổ biến, hoặc tính đặc thù của nhà nước pháp quyền đều là sai lầm, nếu quá nhiệt tình với tư tưởng này thì sẽ trở thành “phản động về chính trị”. Người hiểu biết, chính đảng và nhà nước sáng suốt chính là ở việc biết lược chọn, kết hợp và thực thi một cách phù hợp tính phổ biến và tính đặc thù của nhà nước pháp quyền

Những tư tưởng cơ bản của nhà nước pháp quyền đã được V.I.Lênin đề cập và vận dụng vào thực tiễn xây dựng và củng cố nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) đầu tiên trên thế giới-nhà nước kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, bao gồm các vấn đề cơ bản như: Xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, dân chủ; nhà nước có một hệ thống pháp luật đầy đủ và pháp luật được thực hiện nghiêm minh, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nhà nước là công cụ của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là quá trình đúc kết, kế thừa có chọn lọc và vận dụng sáng tạo tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại và quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật kiểu mới vào thực tiễn xây dựng nhà nước kiểu mới ở nước ta. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là nguyên tắc hiến định mang tính giai cấp sâu sắc, bảo đảm thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện ở các khía cạnh: Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành hiến pháp, pháp luật, chính sách cụ thể và lãnh đạo tổ chức nhân dân thực thi Hiến pháp, pháp luật, chính sách; Đảng lãnh đạo Nhà nước tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức; Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra việc quán triệt, tổ chức thực hiện đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước làm tham mưu cho Đảng; phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và nhân dân trong việc tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước và bảo vệ Nhà nước.

Xây dựng và hoàn thiện nhà nước là vấn đề tất yếu và xuyên suốt của mọi giai cấp thống trị nhà nước. Không có bất cứ nhà nước nào trong lịch sử ngay từ lúc sinh ra đã hoàn thiện về mọi mặt. Lợi dụng việc Đảng, Nhà nước ta chủ trương xây dựng Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”. Thời gian qua, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đưa ra nhiều quan điểm, luận điệu hòng bác bỏ, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với Nhà nước và xã hội, họ rêu rao rằng, ở Việt Nam không có “pháp trị”, chỉ có “đảng trị” hay Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thiếu dân chủ, là nhà nước của một bộ phận cán bộ có chức, có quyền. Để xuyên tạc về chính trị và bịa đặt về thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là âm mưu, thủ đoạn chính trị đen tối của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội về chính trị. Những luận điệu đó cần phải được vạch trần và lên án và đấu tranh bác bỏ trên một số vấn đề chủ yếu sau:

Tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi trọng, đề cao việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, được thể hiện rõ nét trong các văn kiện Hội nghị thành lập Đảng, Đại hội Đảng lần thứ I, đặc biệt, được cụ thể hóa trong bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1945). Đó là một Nhà nước với tinh thần xuyên suốt là: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”. Tư tưởng này cũng được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta với việc hiến định quyền lực nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, để phụng sự lợi ích của nhân dân. Theo đó, bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân; đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là “các ông quan cách mạng” mà là “công bộc của nhân dân”, chăm lo cho sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân; pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ để bảo vệ, thực hiện lợi ích vì con người.

Quan điểm về xây dựng và hoàn thiện nhà nước tổ chức và hoạt động theo pháp luật trong các văn kiện Đại hội II, III, IV, V, nhất là Đại hội VI, VII của Đảng được đề cập, phát triển và thể chế hóa trong các bản Hiến pháp các năm: 1959, 1980, 1992, cho dù thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” chưa được sử dụng. Đất nước bước vào giai đoạn đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế, nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta đã có bước phát triển mới trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, theo đó, tại Hội nghị Trung ương 2 khóa VII (tháng 11-1991), lần đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” chính thức được Đảng ta đề cập và được khẳng định rõ hơn tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994), đồng thời, tiếp tục được bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội Đảng tiếp theo. Đây là cơ sở chính trị để Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), thể chế hóa tại Điều 2: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Tiếp đó, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) với quan điểm kế thừa, phát triển, Điều 2, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy, có thể thấy rằng, trên phương diện lập hiến, Hiến pháp năm 2013 đã quy định một cách toàn diện những vấn đề căn cốt của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam về bản chất, nguyên tắc, tổ chức, hoạt động, chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước; phân quyền giữa các cơ quan quyền lực nhà nước, vị trí của pháp luật đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam; vấn đề quyền con người, quyền công dân; vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền XHCN.

Từ cơ sở chính trị, pháp lý và nghiên cứu thực tiễn xây dựng, vận hành cho thấy: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ XHCN là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều chỉnh tối thượng của Hiến pháp và hệ thống pháp luật bảo đảm công khai, tính minh bạch, khả thi, hiệu quả, nguyên tắc bình đẳng, bảo vệ quyền con người, tính thượng tôn pháp chế XHCN. Nhà nước pháp quyền XHCN vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc; hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn “dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội”. Trong đó, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích với cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; mọi chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước “đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”.

 Trên phương diện thực tiễn, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đạt nhiều thành tựu quan trọng. Hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước cơ bản, bảo đảm yêu cầu quản lý, ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao có nhiều đổi mới, chất lượng và hiệu quả được nâng cao. Vai trò, quyền làm chủ của nhân dân được củng cố, phát huy, bảo đảm và lan tỏa tinh thần tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, cơ chế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở dựa trên phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bộ máy nhà nước bước đầu được sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực. Trong đó, vai trò, trách nhiệm của đại biểu dân cử thể hiện rõ hơn, hiệu quả hơn. Hoạt động cơ quan hành pháp chủ động, tích cực, tập trung vào quản lý, điều hành, tháo gỡ rào cản, phục vụ, hỗ trợ phát triển. Cải cách hành chính, tư pháp có bước đột phá; chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức và cá nhân; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Những kết quả này được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.

Tuy nhiên, Đảng ta cũng chỉ rõ: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới”. Trong đó, hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, thiếu tính thực tiễn, còn có kẽ hở, chồng chéo. Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của nhân dân còn có những mặt hạn chế. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương một số nơi chưa đổi mới mạnh mẽ; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa rõ ràng; hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm; kỷ cương phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước. Đội ngũ cán bộ, viên chức chưa tinh gọn; phẩm chất, năng lực, uy tín ở một bộ phận còn hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hóa, xã hội; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước có một số mặt còn lúng túng.

 Đất nước ta sau hơn 35 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức đan xen. Điều đó đặt ra những yêu cầu mới đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nói riêng. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”. Quán triệt, cụ thể hóa quan điểm của Đảng trong tiếp tục xây dựng, hoàn thiện, phát huy hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, thống nhất trong nhận thức, hành động xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tuyên truyền pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật.

Hai là, đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội với vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển đất nước, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn; bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu, theo hướng tăng hợp lý số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách; giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp. Thiết lập đồng bộ, gắn kết giữa cơ chế giám sát của cơ quan dân cử với cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân.

Ba là, xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; tăng cường năng lực dự báo, phân tích và đề xuất chính sách dựa trên luận cứ khoa học và thực tiễn trong tình hình mới. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ban, ngành; giữa Trung ương với địa phương; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, bảo đảm quản lý nhà nước tập trung, thống nhất. Tập trung cải cách tiền lương, chế độ, chính sách; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tinh, gọn, mạnh, có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, đổi mới sáng tạo, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.

Bốn là, xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Thực hiện tốt trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động, uy tín của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào hoạt động tư pháp, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các tranh chấp, khiếu kiện theo luật định; phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật.

Năm là, hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt theo luật định; thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị thông minh, hiện đại, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Gắn kết và đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp. Cải cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân định, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương, nâng cao tính chủ động, tự chủ của ngân sách địa phương.

Sáu là, phát huy vai trò, sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, các lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Nhà nước pháp quyền XHCN trước những âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch từ bên trong, bên ngoài, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, hướng tới xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh, trật tự. Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc, thù địch về bản chất, mô hình, mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực gắn với tăng cường rèn luyện đạo đức, tác phong, lề lối làm việc, “tự soi, tự sửa”, “tự phê bình và phê bình” của cán bộ, đảng viên./.

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét