Thứ Hai, 30 tháng 1, 2023

SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY. VAI TRÒ CỦA QUÂN ĐỘI.

 


Chủ nghĩa Mác với ba phát kiến vĩ đại là quan niệm duy vật về lịch sử, học thuyết giá trị thặng dư và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã chứng minh một cách khoa học rằng, với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản, những điều kiện vật chất và lực lượng xã hội đã được tạo ra, đó là nền sản xuất đại công nghiệp bảo đảm cho lực lượng sản xuất xã hội phát triển đến một trình độ rất cao khiến xã hội loài người có thể và tất yếu chuyển lên xã hội cộng sản văn minh. Gắn liền với điều kiện vật chất ấy, một lực lượng xã hội cũng đã hình thành và phát triển, có sứ mệnh lịch sử xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa cộng sản, đó là giai cấp công nhân. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân về thực chất là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức bóc lột, xây dựng xã hội cộng sản văn minh trên toàn thế giới. Như Ph. Ăng ghen đã viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phân tích một cách khoa học địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân hiện đại trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là hoàn toàn khách quan. Bởi vì: “… Cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều tất yếu như nhau”.

Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, làm cho bức tranh toàn cảnh của nền sản xuất và đời sống thế giới có những thay đổi lớn, trong đó giai cấp công nhân cũng không còn giống như mô tả của C.Mác trong thế kỷ XIX. Những kẻ chống phá chủ nghĩa xã hội khoa học được thể ra sức tấn công học thuyết  Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Các quan điểm chống cộng đã cố tình lập luận rằng, C. Mác đã gắn cho giai cấp công nhân cái sứ mệnh mà nó không có, bởi vì ông thương đó là giai cấp nghèo khổ. Rằng ngày nay, công nhân ở các nước tư bản không còn bị bóc lột nữa; giai cấp công nhân đã được trung lưu hóa, địa vị của họ đã có sự thay đổi căn bản, nên không còn sứ mệnh lịch sử. Rằng chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, trở thành chủ nghĩa tư bản nhân dân; nó không còn dựa trên sự bóc lột lao động làm thuê.... Thực chất những luận điểm đó là sự biện hộ cho địa vị thống trị, bóc lột của giai cấp tư sản, cho sự tồn tại “vĩnh hằng” của chủ nghĩa tư bản trên cơ sở phủ nhận vai trò lịch sử khách quan của giai cấp công nhân và tính tất yếu thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.

Để xem xét vai trò lịch sử của một giai cấp, phải dựa trên cơ sở địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó, chứ không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan của một cá nhân hoặc một lực lượng xã hội nào. Đó mới là phương pháp luận khoa học. Trong lịch sử, chế độ tư bản chủ nghĩa đã từng chiến thắng chế độ phong kiến, bởi vì giai cấp tư sản đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, đại diện cho phương thức sản xuất mới dựa trên nền đại công nghiệp, tiến bộ hơn hẳn phương thức sản xuất lạc hậu của chế độ phong kiến. Đối với giai cấp công nhân, trên cơ sở luận giải địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp này trong xã hội tư bản, C. Mác và Ph. Ăng ghen đã đưa ra kết luận khoa học: “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”. Trong xã hội tư bản, các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp; trái lại, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp, là lực lượng sản xuất tiên tiến, đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến - phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Đây là điều quyết định giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có sứ mệnh thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Lấy sự nghèo khổ làm cơ sở để luận giải sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một lập luận phản khoa học, là mưu đồ hòng xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin.

Trong lòng xã hội tư bản, đời sống của người lao động tuy có được cải thiện, nhưng số người bị hất ra hè phố, số người nghèo khổ vẫn ngày càng tăng. Sự phát triển của các tập đoàn tư bản, các công ty tư bản xuyên quốc gia cùng sự bòn rút tài nguyên và bóc lột nhân dân nhiều nước thuộc thế giới thứ ba; các cuộc chiến tranh đẫm máu chống các quốc gia có chủ quyền do chủ nghĩa đế quốc phát động... là nguyên nhân chủ yếu khiến cho hơn 500 triệu người bị đe dọa chết đói, 1,6 tỷ người sống trong cảnh khốn cùng, 600 triệu người thất nghiệp, hơn 800 triệu người mù chữ... Tất cả điều đó đã nói lên tính chất bóc lột, phản động của chủ nghĩa tư bản. Và tại Đại hội XI của Đảng ta đã chỉ rõ: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản”.

Đi từ kinh tế thị trường tự do đến chủ nghĩa tự do mới, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể tìm ra lối thoát. Cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008, tình hình nợ công ở các quốc gia châu Âu và Mỹ, những cuộc biểu tình ở các nước châu Âu tư bản đã chứng minh cho nhận định trên.

Rõ ràng, chủ nghĩa tư bản hiện đại dù có biến đổi, thích nghi thì về bản chất vẫn không thay đổi. Đó vẫn là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ở trình độ cao, là chế độ bóc lột, đầy rẫy bất công. Những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại mà chủ nghĩa tư bản đang lợi dụng để kéo dài tuổi thọ, đang dần vượt khỏi sự kiểm soát của chính nó. Phải chăng, việc lợi dụng những thành tựu khoa học - công nghệ để điều chỉnh và thích nghi chính là chủ nghĩa tư bản đang làm cái việc rèn dũa vũ khí sẽ giết mình thêm sắc nhọn hơn - điều mà C. Mác và Ph. Ăng ghen đã từng nói cách đây hơn 160 năm trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Và trong điều kiện đó, giai cấp công nhân càng nhận thức rõ hơn sứ mệnh lịch sử của mình là loại bỏ chủ nghĩa tư bản ra khỏi đời sống xã hội, xây dựng chủ nghĩa cộng sản văn minh, xác định rõ hơn con đường, biện pháp để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.

Quan điểm phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân còn được thể hiện ở góc độ khác, nhất là sau khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên xô sụp đổ, không ít người đã công khai cho rằng, luận điểm của Mác về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không còn đứng vững trong thời đại ngày nay. Theo họ, thời đại ngày nay là thời đại của “Văn minh trí tuệ”, của “Kinh tế tri thức”, thì trí thức mới là lực lượng tiên phong, có vai trò lãnh đạo cách mạng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Đó là quan điểm sai lầm cả về lý luận và thực tiễn.

Với trí thức, chúng ta luôn khẳng định rằng họ có vai trò rất quan trọng trong mọi thời đại, là lực lượng xã hội đi đầu trong việc phát triển các lý thuyết khoa học và công nghệ, nâng cao dân trí của một xã hội nhất định. Nhất là trong sự nghiệp xây dựng, phát triển xã hội mới, vai trò của trí thức ngày càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Song trí thức không thể đóng vai trò lãnh đạo thay thế giai cấp công nhân trong thời đại hiện nay từ những lý do cơ bản sau đây:

Thứ nhất, trong lịch sử nhân loại, trí thức chưa bao giờ và không bao giờ là một giai cấp, mà chỉ là một tầng lớp xã hội đặc biệt và không thuần nhất về nhiều mặt. Họ không đại biểu cho một phương thức sản xuất, không phải là một lực lượng kinh tế, chính trị độc lập trong xã hội. Trí thức luôn đi theo và chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng của giai cấp đã đào tạo và nuôi dưỡng nó. Do đó, trong xã hội có giai cấp, trí thức không thể là người lãnh đạo cách mạng, mặc dù các giai cấp thống trị trong lịch sử đều cần đến trí thức, sử dụng đội ngũ này để thực hiện vai trò thống trị của mình đối với xã hội.

Thứ hai, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, trí thức không có lợi ích đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Mặc dù, họ cũng là người làm thuê và bị bóc lột, nhưng lại là tầng lớp làm thuê đặc biệt, được giai cấp tư sản đào tạo, sử dụng, trong đó có bộ phận được chế độ tư bản ưu đãi, có lợi ích gắn liền với giai cấp tư sản và chế độ tư bản. Địa vị kinh tế - xã hội ấy đã quy định trí thức không phải là tầng lớp xã hội bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nên không thể có tinh thần cách mạng triệt để chống giai cấp tư sản, xoá bỏ áp bức bóc lột. Vì vậy, về mặt lý luận, đưa lực lượng trí thức lên vị trí tiên phong cách mạng trong thời đại ngày nay là xuyên tạc thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, một cách luận giải các quá trình xã hội theo quan điểm của duy tâm, đưa mâu thuẫn đối kháng cơ bản của xã hội tư bản ra khỏi lĩnh vực sản xuất vật chất.

Qua gần 35 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng: tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức; tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân đã đóng góp trực tiếp to lớn vào quá trình phát triển của đất nước, cùng với các giai cấp, tầng lớp và thành phần xã hội khác, giai cấp công nhân nước ta là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước; trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc làm và đời sống của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện.

Mặc dù vậy, giai cấp công nhân Việt nam hiện nay còn có những hạn chế: Phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ; tỉ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội; nhìn tổng quát, lợi ích một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Để xứng đáng vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giai đoạn mới, Nghị quyết chuyên đề “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” Đảng ta đã xác định rõ quan điểm, mục tiêu và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quan điểm chỉ đạo trong xây dựng giai cấp công nhân đó là:

Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

 Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng, phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, của tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc - động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước, đồng thời tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với giai cấp công nhân trên toàn thế giới.

Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hoá giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt quan tâm xây dựng thế hệ công nhân trẻ có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công nhân.

Về  mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân:

 Một là: Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hoá của dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết, hợp tác quốc tế;

 Hai là: Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; ngày càng được trí thức hoá: có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; có giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động cao.

* Đối với Quân đội ta

Quân đội nhân dân Việt Nam là một tổ chức xã hội - chính trị đặc thù - một tổ chức công cụ bạo lực của giai cấp công nhân Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục, rèn luyện và lãnh đạo. Với chức năng, nhiệm vụ của quân đội là đội quân vũ trang và lực lượng chính trị, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, để bảo vệ những thành quả cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân ta đã giành được; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Do đó, việc chăm lo xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt để hoàn thành xuất sắc chức năng, nhiệm vụ của mình là một vấn đề quan trọng thường xuyên của Đảng, Nhà nước và quân đội ta. Nhất là trong tình hình mới hiện nay, trước yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng quân đội ta theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở. Từ đó đặt ra cho quân đội ta là phải chăm lo xây dựng các đơn vị cơ sở và toàn quân vững mạnh, nhất là về chính trị, tư tưởng, quan điểm, lập trường giai cấp công nhân.

Hiện nay, công cuộc đổi mới của đất nước ta đang b­ước vào thời kỳ phát triển với tốc độ tăng trư­ởng ngày càng cao. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng n­ước ta. Một trong những mục tiêu mà chúng nhằm vào để chống phá đó là từng bư­ớc thực hiện “phi chính trị hoá”, tách rời sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội nhằm làm lẫn lộn giữa quân đội cách mạng và quân đội phản cách mạng hòng làm cho Quân đội ta mơ hồ về bản chất giai cấp của mình, xa rời mục tiêu, lý t­ưởng của Đảng. Bên cạnh đó n­ước ta đang thực hiện nền kinh tế thị tr­ường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, ngoài mặt tích cực thì yếu tố tiêu cực của nó đã tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần của không ít cán bộ, chiến sỹ, từ đó làm suy giảm bản chất giai cấp công nhân của quân đội. Trong bối cảnh phức tạp đó, để giữ vững kiên định mục tiêu, lý t­ưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng thì một vấn đề có tính “cốt tử” và cấp bách hiện nay là phải thư­ờng xuyên giữ vững và tăng c­ường bản chất giai cấp công nhân trong quân đội, bảo đảm cho quân đội ta là quân đội cách mạng, quân đội của dân, do dân, vì dân, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình bảo vệ Tổ quốc, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

Trên cương vị chủ trì hoạt động công tác Đảng, công tác Chính trị đơn vị bản thân luôn cùng với tập thể Đảng ủy, chỉ huy thường xuyên giáo dục cho 100% cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị về chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mọi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, về âm mư­u chiến lược “diễn biến hoà bình” nhằm “phi chính trị hoá quân đội” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch… để đội ngũ cán bộ, chiến sỹ nhận thức đúng đắn hơn về mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội, luôn giữ vững lập trư­ờng giai cấp công nhân, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ cấp trên giao. Chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức đảng cấp dưới hoạt động theo đúng thủ tục, nguyên tắc, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ theo kế hoạch; thường xuyên kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống trong xây dựng tổ chức đảng và kiên trì vai trò lãnh đạo của Đảng, chống lại những quan điểm, tư tưởng sai trái về sứ mệnh lệnh sử của giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam….

Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng ta về xác định đối tượng, đối tác của cách mạng: Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.      Dự báo trước mắt và lâu dài: Các thế lực phản động, hiếu chiến của chủ nghĩa đế quốc vẫn là đối tượng nguy hiểm của cách mạng Việt Nam. Bên cạnh đó, ta còn phải thường xuyên cảnh giác và đấu tranh với các cơ quan tình báo nước ngoài trực tiếp hoặc đội lốt các tổ chức quốc tế, các cơ quan đại diện nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ hoạt động làm phương hại đến an ninh quốc gia để có kế sách, phương án đối phó không để bị động, bất ngờ.

Nâng cao chất lượng huấn luyện và trình độ sẵn sàng chiến đấu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Tập trung huấn luyện cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng, dân quân, tự vệ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; có trình độ kỹ, chiến thuật, nghiệp vụ giỏi, năng lực tư duy sáng tạo, quyết đoán, khả năng thích ứng nhanh, hành động kiên quyết, hiệu quả trong xử lý các tình huống.

Xây dựng quân đội có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, sẵn sàng đánh thắng mọi thủ đoạn, kiểu loại chiến tranh của địch, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Quán triệt phương châm huấn luyện "Cơ bản - Thiết thực - Vững chắc", coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu; kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị, giữa giáo dục - đào tạo với huấn luyện chiến đấu; huấn luyện sát nhiệm vụ, đối tượng, địa bàn, sát thực tế chiến đấu; huấn luyện với cường độ cao, lấy thực hành làm chính.

Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đối với nhiệm vụ huấn luyện; làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức, trách nhiệm của người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên các cấp, các tổ chức và cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân về vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác huấn luyện trong tình hình mới. Khắc phục tư tưởng chủ quan, xem nhẹ, ngại khó, ngại khổ, hạ thấp yêu cầu, bớt xén nội dung, chương trình, thời gian huấn luyện và bệnh thành tích. Phải lấy kết quả huấn luyện làm tiêu chí cơ bản để đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ của cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên các cấp; để đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, bình xét, phân loại cán bộ, đảng viên và bình xét khen thưởng.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đảng, công tác chính trị trong huấn luyện. Coi trọng giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, giáo dục truyền thống, kinh nghiệm chiến đấu, xây dựng niềm tin chiến thắng; nâng cao ý thức phòng gian, giữ bí mật quân sự, bí mật quốc gia; nâng cao ý thức tự giác chấp hành nghiêm kỷ luật, quy tắc bảo đảm an toàn trong huấn luyện, diễn tập.

Tích cực đổi mới chương trình, nội dung, tổ chức và phương pháp huấn luyện, diễn tập; tăng tỉ lệ thời gian huấn luyện thực hành, huấn luyện đêm; tập trung huấn luyện nâng cao khả năng cơ động, huấn luyện dã ngoại dài ngày, diễn tập chiến đấu hiệp đồng quân binh chủng, diễn tập thực binh có bắn đạn thật; diễn tập vòng tổng hợp; diễn tập đối kháng..

Tập trung nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu cho bộ đội là một nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa quyết định đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ chính trị. Tất cả các cơ quan, đơn vị phải thường xuyên quán triệt, thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên về sẵn sàng chiến đấu; tăng cường luyện tập chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu theo quy định. Thường xuyên bám sát tình hình, nhiệm vụ để xây dựng, điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh quyết tâm, kế hoạch tác chiến theo các phương án; tổ chức huấn luyện, diễn tập theo tình huống, nhiệm vụ, sát thực tế, phù hợp với các phương án tác chiến khu vực phòng thủ trên địa bàn đứng chân.

Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về quốc phòng, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quân sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Hội nhập quốc tế về quốc phòng phải trên cơ sở quán triệt, tổ chức thực hiện đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo đường lối đối ngoại, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; phải coi đây là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược và là kế sách bảo vệ Tổ quốc từ xa bằng biện pháp hòa bình. Phải dựa trên cơ sở thực lực nền quốc phòng toàn dân, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Lấy việc giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa làm mục tiêu xuyên suốt của quá trình hội nhập quốc tế về quốc phòng. Thực hiện nguyên tắc "ba không": "Việt Nam không là đồng minh quân sự của nước nào; không để nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình; không liên minh với nước này để chống lại nước khác". Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với kinh tế; kinh tế với quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập. Vừa hợp tác, vừa đấu tranh, lấy hợp tác là chính, không để bị động, đối đầu trong quá trình mở rộng hội nhập quốc tế.

Quán triệt, cụ thể hóa, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và Nghị quyết 806-NQ/QUTW ngày 31 tháng 12 năm 2013 của Quân ủy Trung ương: Hội nhập quốc tế về quốc phòng. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền chủ trương hội nhập quốc tế về quốc phòng, chính sách quốc phòng vì hòa bình của Việt Nam, tạo sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện cơ chế quản lý, điều hành, cơ chế, chính sách và hệ thống văn bản pháp lý liên quan, bảo đảm các hoạt động hội nhập quốc tế về quốc phòng đúng đường lối, chính sách, pháp luật, đạt hiệu quả thiết thực. Chú trọng quan hệ quốc phòng với các nước láng giềng, các nước lớn, các nước ASEAN và các nước bạn bè truyền thống. Đưa các quan hệ giao lưu, hợp tác quốc tế của các quân khu giáp biên giới, hải quân, biên phòng, cảnh sát biển đi vào chiều sâu; mở rộng các cơ chế tuần tra chung, diễn tập chung, thiết lập đường dây nóng…

Củng cố, kiện toàn tổ chức, biên chế, chú trọng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại quốc phòng. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về đào tạo, làm tốt công tác chuẩn bị, đưa nguồn đi đào tạo ở nước ngoài. Nâng cao hiệu quả công tác tùy viên quốc phòng. Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, củng cố lực lượng bảo vệ an ninh quân đội, thường xuyên kiểm tra, giám sát, bảo vệ bí mật quân sự, ngăn ngừa các hành động lợi dụng hội nhập quốc tế về quốc phòng để móc nối, phá hoại.

Nắm chắc diễn biến tình hình, chủ động ứng phó với mọi tình huống, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, tích cực phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ.

Trong thời gian tới, các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng xu thế hội nhập quốc tế, toàn cầu hoá và những khó khăn của đất nước để đẩy mạnh các hoạt động chống phá ta, không loại trừ nguy cơ dẫn đến các cuộc chiến xung đột xâm chiếm biển, đảo, biên giới... Do vậy, phải:

Nêu cao tinh thần cảnh giác, phát huy vai trò các lực lượng an ninh, theo dõi nắm chắc diễn biến tình hình, dự báo chính xác các tình huống có thể xảy ra để chủ động tổ chức lực lượng, phương tiện ứng phó kịp thời, có hiệu quả. Tăng cường đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng và những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước. Đề cao cảnh giác, chủ động phòng ngừa, đấu tranh kiên quyết, liên tục trên mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực tư tưởng - văn hóa làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch./.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét