Sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu diễn ra vào cuối thập niên 1980 – đầu thập niên 1990 được coi là “một chấn động chính trị khủng khiếp nhất thế kỷ XX”, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin bị thách thức nghiêm trọng từ cả hai phía bên ngoài và bên trong, gây xáo trộn mạnh về tư tưởng không chỉ đối với các đảng Cộng sản mà còn với nhiều đảng phái chính trị khác.
Trước biến cố thảm họa địa chính trị, các thế lực đế quốc
phương Tây và các phần tử cơ hội chính trị, phản động hí hửng tuyên bố “chủ
nghĩa xã hội đẻ non, chết yểu”, “chủ nghĩa xã hội đã cáo chung”, “chủ nghĩa Mác
– Lê Nin đã chết” hoặc cho rằng chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là sự kết
thúc của CNXH trong thế kỷ XX.
Để vạch trần những quan điểm sai trái,
xuyên tạc nêu trên, chúng ta cần khẳng định quan điểm trên là sai lầm về lý luận, phản động
về thực tiễn…. Mục đích phủ nhận học thuyết Mác-Lênin, phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
Lịch sử đã chứng minh mô hình CNXH hiện thực của Liên Xô trên
thực tế đã mang lại cuộc sống tốt đẹp cho một phần to lớn của nhân loại. Nó đã
tạo nên một sức mạnh to lớn mà trước đó không thể tưởng tượng về nguồn lực vật
chất và tinh thần, đủ sức để động viên sức người, sức của, tạo thành lực lượng
chủ yếu đánh thắng cả những lực lượng to lớn của liên minh các thế lực tư bản
trong Chiến tranh thế giới thứ nhất cũng như đội quân phát xít tàn bạo của trục
ma quỷ trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Bằng thực tế sinh động tốt đẹp trên
các đất nước xây dựng CNXH, nó đã động viên, thúc đẩy cuộc đấu tranh vì tự do,
dân chủ, hòa bình, giải phóng dân tộc trên toàn trái đất. Hàng loạt dân tộc bị
áp bức đã giành được độc lập tự do dưới ảnh hưởng và sự giúp đỡ vô tư của các
nước XHCN do Liên Xô dẫn đầu.
Sự sụp đổ của
Liên xô và Đông Âu không có nghĩa là sự cáo chung của
CNXH, mà đó là sự đổ vỡ chế độ XHCN ở Liên
Xô và Đông Âu phản ánh khúc quanh của lịch sử; đó chỉ là sự đổ vỡ của một mô
hình xã hội cụ thể, CNXH trên thế giới vẫn tồn tại, đây chỉ là sự sụp đổ của một
mô hình CNXH chưa khoa học, chưa nhân văn và một bước lùi tạm thời của CNXH;
tính chất của thời đại ngày nay vẫn không thay đổi, loài người đang trong thời
đại quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, nhằm cải tạo xã hội TBCN hoặc tiền TBCN thành xã hội, XHCN;
mâu thuẫn của thời đại vẫn tồn tại, chỉ thay đổi hình thức biểu hiện và đặt ra
yêu cầu mới phải giải quyết. Sự sụp đổ ấy không phải là từ bản chất của chủ
nghĩa xã hội hay những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học, mà do những
nguyên nhân của nó.
Phân tích
trên chứng tỏ rõ ràng rằng, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu vào cuối thập niên
1980- đầu thập niên 1990 không bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác-Lênin, mà trái lại,
có nguyên nhân sâu xa và trực tiếp từ những sai lầm và vi phạm nghiêm trọng các
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trên cả hai khía cạnh: máy móc, giáo
điều và bóp méo, xuyên tạc, những sai lầm, khuyết điểm
to lớn, chậm được phát hiện và khắc phục, gây ra tình trạng trì trệ về kinh tế - xã hội kéo dài.
Nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là do
các vấn đề sau:
Một là, Trong cải tổ, các
Đảng Cộng sản đã mắc phải sai lầm rất nghiêm trọng về đường lối chính trị,
tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác - Lênin ở
một số người lãnh đạo cao nhất; sai lầm trong bước đi của việc giải quyết mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị...
Trong
quá trình tiến hành cải tổ, cải cách chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu,
các Đảng Cộng sản đã xa rời chủ nghĩa
Mác - Lênin dẫn đến sai lầm về chiến lược cải tổ, cải cách, vi phạm các nguyên
tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học; chung sống hoà bình một cách vô
nguyên tắc với chủ nghĩa đế quốc, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ, thừa
nhận đa nguyên, đa đảng, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; từ bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với
đời sống xã hội; giải quyết không đúng mối quan hệ giữa cải tổ kinh tế và cải tổ
chính trị.
Cải tổ kinh tế chưa có kết quả đã vội vàng đẩy
nhanh cải tổ chính trị. Hậu quả là xã hội rối loạn, mất phương hướng chính trị.
Việc đánh giá lịch sử không tuân theo nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử
- cụ thể đã dẫn đến tình trạng đào bới lịch sử, bôi đen lịch sử, phủ nhận toàn
bộ giá trị mà chủ nghĩa xã hội đã đạt được.
Sai lầm
trong công tác tổ chức và cán bộ dẫn đến tình trạng loại những cán bộ có kinh
nghiệm, trung kiên, trung thành với chủ nghĩa xã hội; đưa những phần tử cơ hội,
thực dụng vào ban lãnh đạo cao nhất, thậm chí để cho kẻ địch cài cắm nội gián
vào tận Bộ Chính trị để thực hiện phá từ trong ra, từ trên phá xuống.
Hai là, Sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực thù địch, phản động đối với chủ nghĩa xã hội. Lợi dụng những khó khăn
và sai lầm trong cải tổ, cải cách của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch đã đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình” cực kỳ thâm độc, nguy hiểm,
can thiệp toàn diện, tinh vi và trắng trợn vào nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa
để gây mất ổn định và xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa mà không cần đến chiến
tranh.
Hai nguyên nhân này quan hệ chặt chẽ với nhau,
tác động cùng chiều, tạo nên một cơn lốc chính trị phá sập chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu.
Các nước
XHCN còn lại tiến hành cải cách, mở cửa, đổi mới và ngày càng đạt được những
thành tựu to lớn, chứng minh sức sống mãnh liệt của lý tưởng XHCN, của CNXHKH
và thu được nhiều thành tựu rất quan trọng, chế độ XHCN vẫn đứng vững và chứng
tỏ tính ưu việt và sức sống của mình.
Những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới,
cải cách ở Việt Nam, Trung Quốc trong những thập niên qua là sự minh chứng cho
sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học và đó là kỳ vọng
của các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới đối với chủ nghĩa xã hội,
báo hiệu chủ nghĩa xã hội hoàn toàn có khả năng vượt qua thử thách bước vào thời
kỳ phát triển mới trong thế kỷ XXI.
Những
bài học kinh nghiệm được rút ra từ sự kiện lịch sử đau đớn ngoài ý muốn của những
người cộng sản chân chính đã có ý nghĩa to lớn đối với các nước XHCN, trong đó
có Việt Nam để tiếp tục đạt được nhiều thành tựu hơn nữa trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm
sau:
Một là, phải
thường xuyên chăm lo xây dựng đảng để giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng, bộ
máy chính quyền trong sạch vững mạnh và gắn bó với nhân dân. Xây dựng đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, luôn luôn gắn bó mật thiết với nhân dân,
nắm chắc quần chúng và động viên được sức mạnh của nhân dân.
Hai là, vấn
đề then chốt có ý nghĩa quyết định là xây dựng và thực hiện tốt chiến lược công
tác cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì và xây dựng nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý kế
cận, kế tiếp ở các cấp từ Trung ương đến địa phương.
Ba là, xây
dựng nền kinh tế ổn định và phát triển vững chắc, giữ được độc lập tự chủ trong
hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và sự quản
lý của Nhà nước đối với nền kinh tế.
Bốn là, tăng
cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và bản lĩnh
chính trị của cán bộ, đảng viên, nhân dân; phòng, chống có hiệu quả chiến lược
“diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Năm là, Đảng
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội, đặc biệt chăm lo xây
dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân thực sự trung thành, tin cậy về
chính trị, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, làm nòng cốt trong
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Với tư cách là một thế giới quan và phương pháp luận khoa học,
học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là chân lý, có giá trị vượt
thời đại, có sức sống mãnh liệt. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống tư
tưởng ở tầm đỉnh cao lý luận, vì đã không chỉ dừng lại ở việc mô tả hiện tượng
của chủ nghĩa tư bản mà còn phát hiện ra những quy luật cơ bản của chủ nghĩa tư
bản nói riêng và sự phát triển xã hội loài người nói chung. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể của Việt Nam; là ngọn cờ tư tưởng và kim chỉ nam dẫn dắt sự nghiệp giải
phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chính vì
vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán chủ trương kiên định, vận dụng, phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn liền với cuộc đấu tranh
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản.
Cuộc đấu tranh tư tưởng,
lý luận không khoan nhượng
Tư
tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh ngay từ khi xuất hiện đã bị
các thế lực thù địch và phản động không ngừng xuyên tạc, phê phán, bác bỏ và
chống phá quyết liệt. Trên phạm vi thế giới chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin là một
học thuyết phê phán chủ nghĩa tư bản sâu sắc nhất, triệt để nhất. Ở Việt Nam,
mặc dù có nhiều nhà cách mạng, nhiều nhà tư tưởng, song cũng chỉ có Hồ Chí Minh
phê phán trực tiếp và đúng bản chất chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa đế quốc cũng như các lực lượng thù địch với dân tộc Việt Nam. Sự vạch
trần và phê phán đến tận cốt tuỷ này đã khiến chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch luôn thù hận và tìm mọi thủ đoạn chống phá chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Các thế lực thù địch
dùng “trăm phương nghìn kế” để bôi nhọ, phủ định sạch trơn chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ nhất, cố tình xuyên
tạc, hạ thấp vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin, tuyên truyền rằng tư tưởng
của C.Mác, Ph.Ăngghen cách ngày nay 150 năm, của V.I.Lênin cách ngày nay hơn 100
năm, thời gian đã quá xa, những tư tưởng này không còn phù hợp để lý giải một
xã hội phát triển như hiện nay. Hơn nữa, họ còn cho rằng cả C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin đều xuất phát từ bối cảnh lịch sử của phương Tây, vì vậy, không thể
hiểu và không thể giải quyết vấn đề của phương Đông, đặc biệt là của Việt Nam.
Lập luận này sai về cả lôgíc lẫn lịch sử. Thực tiễn cho thấy, không phải cứ
thời gian càng trôi xa thì học thuyết, tư tưởng càng mất đi giá trị. Có những
học thuyết, tư tưởng càng qua thời gian thì càng khẳng định giá trị của mình.
Tri thức khoa học xã hội, khoa học nhân văn mang đặc trưng tích luỹ chứ không
mang đặc trưng thay thế như kỹ thuật, công nghệ, vì thế mà có những học thuyết
tồn tại hàng nghìn năm qua vẫn còn giá trị.
Thứ hai, tập trung tấn
công tư tưởng Hồ Chí Minh với hai thái cực khác nhau: một là, hạ thấp
tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh chỉ nhắc lại tư tưởng của C.Mác,
PhĂnghen, V.I.Lênin và các nhà tư tưởng vĩ đại khác chứ không có tư tưởng của
riêng mình hoặc tư tưởng không trở thành một hệ thống; hai là, đề cao tư tưởng
Hồ Chí Minh, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng
Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản.
Cả hai quan niệm này đều sai, vì tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử Việt Nam. Người đã kết hợp nhuần
nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng truyền thống dân tộc và các giá trị
tinh hoa của nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lênin ở Hồ Chí Minh không phải là những
luận điểm sáo rỗng, giáo điều mà đã chuyển hóa thành hệ thống thế giới quan,
phương pháp luận, nhân sinh quan khoa học, thực tiễn, trực tiếp chỉ đạo thành
công của cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, phủ nhận tính
hợp pháp và tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các thế lực thù địch,
phản động cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đã hết vai trò lịch sử. Đảng
cầm quyền là không chính đáng, vì không được bầu lên; con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội là sai lầm, sẽ thất bại giống như Liên Xô và một số nước Đông
Âu,... Chúng cố tình quên rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã giành chính quyền từ
tay ngoại xâm để xây dựng một nước Việt Nam mới độc lập, tự chủ. Đảng Cộng sản
Việt Nam không chỉ lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi qua các cuộc chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc mà còn cả trong xây dựng đất nước. Thành tựu của sự nghiệp đổi
mới, đời sống của người dân được cải thiện và nâng cao… là minh chứng sinh động
nhất cho việc Đảng là đại diện cho ý nguyện và lợi ích của nhân dân. Nhân dân
thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng, gọi Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng ta.
Thứ tư, phủ nhận mục
tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; cho rằng tất yếu phải
đi theo con đường của chủ nghĩa tư bản. Những luận điệu đó bắt nguồn từ việc vô
tình hoặc cố ý lẫn lộn giữa hiện tượng với bản chất, giữa tính đặc thù với tính
phổ biến, giữa cái riêng với cái chung. Họ đã rêu rao tư bản chủ nghĩa là con
đường duy nhất để phát triển, cố tình biến những khuyết điểm của chủ nghĩa tư
bản thành ưu điểm, thần thánh hóa chủ nghĩa tư bản; khoét sâu những hạn chế,
khuyết điểm trong quá trình phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội, quy kết
thành bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Những nhân tố tác động
đến công tác bảo vệ Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay
Cuộc đấu tranh bảo vệ
chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh diễn ra trong bối cảnh phức tạp,
vừa có thuận lợi, vừa không ít khó khăn.
Về thuận lợi
Một là, tăng trưởng kinh tế
trong những năm qua đã thể hiện rõ nét những thành tựu đổi mới, nâng cao đáng
kể chất lượng đời sống nhân dân. Những thành quả của tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội đã khẳng định đường lối xây dựng và phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là đúng đắn. Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân
loại đã cho thấy, không có con đường nào chỉ có thuận lợi mà không có khó khăn,
hay nói cách khác - không bao giờ có con đường chỉ đầy hoa hồng. Chính vì vậy,
không thể vì những khó khăn trước mắt mà hoài nghi con đường chân chính - đi
lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, nhân dân Việt Nam đã chọn.
Hai là, chính trị, xã hội ổn
định, dân trí ngày càng cao, các quyền tự do, dân chủ ngày càng được thực hành
rộng rãi trong xã hội. Những giá trị này hoàn toàn phù hợp với lý tưởng của
Mác, với tâm nguyện của Hồ Chí Minh. Coi trọng tự do và dân chủ, quá trình dân
chủ hóa trong Đảng và dân chủ hóa trong xã hội chính là thành công của tất cả
cán bộ, đảng viên, của mọi người dân Việt Nam. Đây là nền tảng để có được sự ổn
định của đất nước, đại đoàn kết dân tộc, là tiền đề để thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội.
Ba là, nhân dân Việt Nam có
lòng yêu nước nồng nàn, thiết tha quan tâm đến tình hình đất nước. Khác với một
số xã hội người dân có thể lãnh cảm với chính trị, chỉ quan tâm đến cá nhân mà
không quan tâm đến cái chung thì ngược lại, ở Việt Nam trên nhiều phương diện,
tinh thần trách nhiệm xã hội của người dân rất cao. Người dân không chỉ biết
đến quyền lợi, mà còn thấu hiểu trách nhiệm, nghĩa vụ công dân của mình; không
chỉ biết đến cá nhân mà còn biết đến cộng đồng, đến cái chung; không chỉ quan
tâm đến bản thân mình mà còn quan tâm đến người nghèo, người yếu thế trong xã
hội. Điều này hoàn toàn phù hợp với chủ nghĩa nhân đạo của Mác - Lênin và Hồ
Chí Minh.
Bốn là, quá trình hội nhập
quốc tế mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội mới, biết được nhiều kinh nghiệm quốc
tế, học được từ nhiều tấm gương của thế giới, tiếp xúc với các hệ giá trị, các
tinh hoa văn hóa nhân loại, qua đó vươn lên để khẳng định vị thế Việt Nam. Việt
Nam là một quốc gia đa dạng văn hóa, rộng mở, bao dung, truyền thống này rất
thích hợp với yêu cầu hội nhập của xã hội hiện đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin ăn
sâu bám rễ được ở Việt Nam, hòa quyện với văn hóa Việt Nam chính nhờ tinh thần
bao dung này.
Những khó khăn, thách
thức
Một là, niềm tin của dân đối với
Đảng, đối với chế độ có sự giảm sút. Nguyên nhân trực tiếp của thách thức trên
chính là tệ nạn nhóm lợi ích, tham nhũng. Đặc biệt là “tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn;
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên
có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ
không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng
công ty... Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo
của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”.
Hai là, đã xuất hiện hiện tượng
một bộ phận đảng viên, cán bộ và quần chúng nhân dân lơi là, thậm chí coi
thường việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Xuất hiện khuynh hướng đề cao,
tuyệt đối hóa tăng trưởng kinh tế, ít chú ý đến củng cố nền tảng tư tưởng. Tính
chiến đấu về mặt tư tưởng chưa được đề cao. Xuất hiện tâm lý ngại đấu tranh
trên phương diện tư tưởng, lý luận. Một số người coi thường lý luận, chỉ quan
tâm đến thực tiễn mà không hiểu rằng lý luận và thực tiễn gắn bó chặt chẽ với
nhau không thể tách rời.
Ba là, sự tấn công của các thế
lực thù địch và phản động ngày càng tinh vi hơn. Trước đây, các thế lực thù
địch và phản động thường xuyên tạc, phủ nhận trực tiếp nền tảng tư tưởng của
Đảng, hoặc tấn công cá nhân, bôi nhọ đời tư các nhà kinh điển và các lãnh tụ
thì trong thời gian qua, bên cạnh các phương thức cũ, chúng tấn công về mặt lý
luận ngày càng nhiều hơn. Ngày càng có nhiều bài viết dài, sâu, đứng trên lập
trường, cách tiếp cận phương Tây, trái ngược với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, ở một mức độ tinh vi hơn, nhiều lý thuyết được
dịch, truyền bá vào Việt Nam nhằm pha loãng hoặc nhằm dần thay thế cho hệ tư
tưởng chính thống.
Một số kẻ cơ hội chính
trị hết lời ca ngợi chủ nghĩa xã hội dân chủ và chủ nghĩa dân chủ xã hội, cho
rằng chủ nghĩa xã hội không nhất thiết phải đạt được thông qua đấu tranh giai
cấp và cách mạng vô sản. Một số người đã phản bác khái niệm nhà nước xã hội chủ
nghĩa, phản đối chuyên chính vô sản; phê phán những luận điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, như chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận giá trị thặng dư,...
Một số khác lại cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống chưa hoàn chỉnh,
các lý luận về mặt triết học, kinh tế, chính trị, xã hội còn nhiều điểm lạc
hậu. Tất cả mưu toan thâm hiểm và tinh vi đó của các thế lực thù địch và phản
động cần phải bị bóc trần và đấu tranh ngăn chặn.
Những giải pháp cơ bản
để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới
Một là, dùng thực tiễn
để bảo vệ lý luận, lấy thành tựu đổi mới, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
người dân làm chỗ dựa vững chắc cho tư tưởng.
Bản chất của chủ nghĩa
Mác - Lênin chính là thực tiễn như Mác đã từng nói “Các nhà triết học đã chỉ
giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế
giới”. Không một lý thuyết nào có thể đứng vững nếu lý thuyết đó không giúp làm
thay đổi thực tiễn theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Cũng như vậy, với tư cách là
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, trong điều kiện mới của đất
nước, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng ngày càng được khẳng định
bằng chính thực tiễn sinh động của Việt Nam.
Hai là, tiếp tục đẩy
mạnh nghiên cứu, học tập, giáo dục và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một thứ tín ngưỡng hay giáo điều cứng
nhắc, mà là một học thuyết mang tính mở, sáng tạo, gắn liền với sự phát
triển của thực tiễn, hay nói cách khác, là thế giới quan và phương pháp
luận khoa học. Muốn bảo vệ một cách đúng nghĩa nhất phải thực sự sử dụng vũ khí
tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải phát huy sức
mạnh thế giới quan và phương pháp luận của nền tảng tư tưởng trong hoạt động
thực tiễn, nghĩa là phải có ích cho việc phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề
của thực tiễn Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải được
nuôi dưỡng, bổ sung và phát triển bằng thực tiễn cuộc sống. Học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là để vận dụng vào chỉ đạo hoạt động
thực tiễn. Nói cách khác, thực tiễn hằng ngày chính là nguồn sống của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, do đó, tách rời thực tiễn đất nước khỏi nền
tảng tư tưởng vừa khiến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên
giáo điều, vừa làm chậm quá trình phát triển bền vững của đất nước.
Ba là, phê phán nền tảng
tư tưởng của thế lực thù địch và phản động.
Nhiều nhà tư tưởng
phương Tây, từ các góc độ của mình đã tập trung phê phán chủ nghĩa Mác - Lênin
trên nhiều khía cạnh khác nhau.
Bên
cạnh việc thảo luận học thuật, chống lại các luận điệu sai trái, thù địch, việc
chống lại các nền tảng tư tưởng của các luận điệu sai trái đó, đấu tranh với
các hệ tư tưởng thấm đẫm trong các trào lưu chính trị cũng là một việc làm hết
sức quan trọng. Để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta
cần quan tâm và đấu tranh với các hình thức cực đoan của các loại chủ nghĩa
khác, như chủ nghĩa tự do mới, chủ nghĩa dân tộc dân túy, chủ nghĩa bảo hộ, chủ
nghĩa đế quốc,... Cụ thể, chủ nghĩa tự do mới phản đối sự can thiệp của nhà
nước vào nền kinh tế, cực đoan hóa vai trò của thị trường tự do, quá thiên về
chủ nghĩa cá nhân; chủ nghĩa dân tộc dân túy cực đoan hoá chủ nghĩa dân tộc, đe
dọa đến hòa bình và thịnh vượng chung…
Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh vốn được đúc kết từ tinh hoa trí tuệ dân tộc và nhân loại,
vì vậy phải được sử dụng để đối thoại với các trào lưu tư tưởng tiến bộ hiện
nay, để hấp thụ, chuyển hóa và sử dụng những giá trị hợp lý phục vụ cho dân tộc
và cộng đồng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh không tách rời kho tàng trí tuệ nhân loại, không quay lưng
với thế giới, không “một mình một kiểu”. Chủ nghĩa Mác - Lênin không xa lạ với
những giá trị của thế giới phương Tây đương đại, như tôn trọng nhân phẩm, tôn
trọng tự do, bình đẳng, dân chủ, bác ái, bao dung,... vì những giá trị này cũng
chính là những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chúng ta không nên chỉ
tập trung vào những điểm khác biệt của chủ nghĩa Mác - Lênin so với các học
thuyết khác mà còn phải nhìn thấy những điểm tương đồng, dù cho cách tiếp cận
có thể khác nhau. Có như vậy, chúng ta mới có thể xuất phát từ cao độ của chủ
nghĩa Mác - Lênin để lý giải các học thuyết khác, phê phán và tiếp thu các học
thuyết ấy nhằm làm phong phú thêm cho hệ tư tưởng mácxít và giải quyết tốt hơn
những vấn đề do thực tiễn đặt ra./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét