Thứ Hai, 30 tháng 1, 2023

BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH; NHẬN DIỆN, ĐẤU TRANH VỚI CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC BẢN CHẤT CÁCH MẠNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 


Chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Vì vậy, nhận diện và đấu tranh với các luận điểm sai trái phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nhằm bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng củng cố và tăng cường niềm tin khoa học vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội và niềm tin của nhân dân với Đảng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trước những diễn biến mới của tình hình và nhiệm vụ cách mạng, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, phản bác những luận điệu xuyên tạc, những quan điểm sai trái, thù địch ngày càng diễn biến phức tạp. Nhưng bằng sự chủ động, tích cực của toàn Đảng, toàn dân, công tác đấu tranh phản bác thời gian qua đã đạt được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, thẳng thắn nhìn lại trong cuộc đấu tranh này vẫn còn không ít những hạn chế, bất cập. Điều này được thể hiện qua các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, XII, XIII đó là: Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao”.

 Ngoài những yếu tố khách quan từ những tác động tiêu cực của tình hình thế giới và trong nước, một nguyên nhân mà mỗi chúng ta cần nhận rõ, đó là sự chống phá ngày càng quyết liệt của các thế lực thù địch thông qua đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình”. Chúng thường lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” và khoét sâu những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để bóp méo, xuyên tạc tình hình; tung ra những quan điểm sai trái hòng gây ra sự hoài nghi, lung lay trong tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong khi đó, có lúc, có nơi việc nhận thức chưa đầy đủ, chưa chủ động, nhạy bén và thiếu các giải pháp phù hợp để định hướng thông tin, trên cơ sở đó tổ chức đấu tranh có hiệu quả với các thông tin sai lệch, phản bác lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và công nghệ thông tin, mạng xã hội phát triển ngày càng mạnh mẽ, các thế lực thù địch tăng cường móc nối, cấu kết với những phần tử cơ hội chính trị, ra sức xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng, phủ nhận mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chúng tung ra nhiều luận điệu xuyên tạc hết sức tinh vi, xảo trá hòng làm chao đảo, lung lay nhận thức, tư tưởng, niềm tin của quần chúng nhân dân vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng ta. Theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”, chúng ra sức tuyên truyền xuyên tạc hòng làm suy giảm niềm tin, tạo ra trong nhân dân ta, nhất là thế hệ trẻ một “khoảng trống” về mục tiêu lý tưởng, lịch sử truyền thống và thành tựu của cách mạng. “Nội công, ngoại kích” là chiêu bài rất nham hiểm mà các thế lực thù địch phản động thường xuyên sử dụng nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Để áp dụng chiêu thức này hiệu quả, chúng tìm mọi cách tiếp cận, móc nối, lôi kéo, kích động, tiếp sức cho những phần tử thoái hóa, biến chất, bất mãn với chế độ,… để sử dụng làm công cụ, tay sai, phủ nhận thành quả cách mạng, phóng đại những khuyết điểm, yếu kém nhằm tạo ra những bức xúc trong dư luận, những điểm nóng trong xã hội. Chúng coi những phần tử thoái hóa, biến chất “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là lực lượng nòng cốt đi đầu để chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam.

Cùng với phủ nhận lịch sử truyền thống dân tộc, phủ nhận thành quả cách mạng, chúng triệt để lợi dụng chiêu bài xuyên tạc, bôi nhọ lãnh tụ của Đảng, của dân tộc. Vào dịp đất nước ta tổ chức các sự kiện lớn, đặc biệt là chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, chiêu trò này tiếp tục được chúng sử dụng. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước và nhân dân cũng bị chúng lợi dụng để chống phá. Chúng xuyên tạc rằng đó là cuộc thanh trừng, đấu đá nhằm tranh giành lợi ích giữa các phe, nhóm trong nội bộ Đảng. Mặc dù cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của ta đạt được những kết quả rất quan trọng nhưng các thế lực thù địch luôn xuyên tạc rằng “Đảng Cộng sản không thể chống tham nhũng thành công” vì chế độ độc đảng cầm quyền sẽ thủ tiêu đấu tranh... Muốn chống tham nhũng thành công thì phải mở rộng dân chủ, bằng cách thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập... Những chủ trương, chính sách và các thành quả quan trọng mà chúng ta đã đạt được trên mặt trận ngoại giao cũng bị chúng xuyên tạc, phủ nhận hòng chia rẽ mối quan hệ giữa nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế, làm giảm vị thế của Việt Nam trong khu vực và thế giới.

Nhìn lại lịch sử từ khi Học thuyết Mác ra đời, đặc biệt sau khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thành công đến nay, các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội, xét lại không lúc nào ngừng công kích, chống phá chủ nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội. Vậy vì sao các thế lực thù địch lại hết sức hoảng sợ, luôn tìm trăm phương ngàn kế để phản bác chủ nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội hiện thực như vậy?

Sau sự kiện sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu những năm 90 của thế kỷ XX, trong hàng ngũ cộng sản và nhân dân, có người đã nhiễm phải những luận điệu tuyên truyền hết sức tinh vi và thâm độc của các thế lực thù địch, từ đó nảy sinh tư tưởng bi quan, dao động, thậm chí đánh mất niềm tin vào chủ nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội. Trước thực tế đó, những người cộng sản chân chính cần phải bình tĩnh, tăng cường đoàn kết thống nhất để bảo vệ các giá trị đích thực của chủ nghĩa Mác- Lênin và toàn bộ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác- Lênin với tinh thần cách mạng và khoa học, với tư duy đổi mới và sáng tạo, trên quan điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Trong bảo vệ chủ nghĩa Mác- Lênin, cần nhận thấy có một số luận điểm được Mác, Ăng- ghen đưa ra trước đây là đúng đắn, song trong điều kiện lịch sử mới có những vấn đề không còn phù hợp, có những vấn đề cần được nghiên cứu bổ sung và phát triển.

Trong nhiều thập kỷ qua, các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội, xét lại liên tục công kích, chống phá quyết liệt chủ nghĩa Mác- Lênin cả về lý luận và thực tiễn. Trên bình diện lý luận, chúng tìm mọi cách bác bỏ từng luận điểm riêng lẻ, từng bộ phận của Học thuyết, rồi đi đến phủ nhận toàn bộ chủ nghĩa Mác- Lênin. Trên bình diện thực tiễn, chúng vin cớ sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô để suy diễn một cách lố bịch rằng “mô hình đổ thì học thuyết đổ theo”; rằng nội dung thời đại ngày nay đã thay đổi?

Hiện nay, các thế lực thù địch cùng các phần tử cơ hội, xét lại vẫn không ngừng công kích, phủ bác chủ nghĩa Mác- Lênin, ra sức tán dương các quan điểm ngoài mác- xít. Nhưng trong lịch sử nhân loại từ trước đến nay, liệu đã có học thuyết nào mang tính nhân văn, nhân đạo cao cả, có sức cổ vũ, thuyết phục, tập hợp được hàng trăm các dân tộc cùng hàng tỷ người trên thế giới đứng lên đấu tranh để xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột, lệ thuộc, như học thuyết Mác- Lê nin? Nếu không có Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, không có chủ nghĩa xã hội được xây dựng và phát triển trên đất nước Nga Xô- viết, thì làm sao loài người có thể tiêu diệt được những con “quái vật” chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới thứ hai? Nếu không có một hệ thống xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, thì nhân loại sẽ ra sao? Và chắc chắn nhân loại sẽ còn phải chứng kiến không ít cuộc chiến tranh tàn khốc do các thế lực hiến chiến gây ra...

Trong những thập kỷ tới của thế kỷ 21, chủ nghĩa xã hội còn gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Song, cần khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác- Lênin vẫn có ảnh hưởng rất sâu sắc trong đời sống nhân loại, vẫn đứng vững trong cuộc đấu tranh của những người cộng sản và nhân dân lao động, kể cả ở những nước mà chế độ xã hội chủ nghĩa tan rã. Hình ảnh các nước xã hội chủ nghĩa còn lại như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba...luôn vững vàng, hiên ngang trước mọi sự tấn công ác hiểm của các thế lực thù địch và bọn phản động quốc tế, là bằng chứng hùng hồn về sức sống hiện thực của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đây chính là nguồn cổ vũ lớn lao cho những người cộng sản chân chính và nhân dân các dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa cao đẹp của nhân loại.

Đối với cách mạng Việt Nam, sức sống của chủ nghĩa Mác- Lênin đã thể hiện trong toàn bộ tiến trình vận động, phát triển của cách mạng từ khi thành lập Đảng 3-201930 đến nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người có công truyền bá và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –Lênin, làm cho chủ nghĩa Mác- Lênin luôn tràn đầy sức sống hiện thực. Thực tiễn của cách mạng Việt Nam trong hơn 76 năm, đặc biệt những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước trong hơn 20 năm qua, càng củng cố vững chắc niềm tin, niềm tự hào cho mỗi đảng viên, cán bộ và nhân dân ta vào chủ nghĩa Mác- Lênin, vào con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Gần đây, ở trong nước và nước ngoài, một số người nêu danh “nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh”, đã truyền bá luận điểm Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là chủ nghĩa dân tộc. Họ giải thích tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc, không có tư tưởng đấu tranh giai cấp, không có tư tưởng về cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Các thế lực thù địch chúng xuyên tạc với các nội dung như:

- Tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin vì tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa dân tộc, còn chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận đấu tranh giai cấp.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam vì tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa dân tộc, còn đường lối của Đảng là theo tư tưởng đấu tranh giai cấp “tả khuynh” của Quốc tế Cộng sản và của lãnh tụ các Đảng cộng sản lớn.

Thông qua quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh cùng những điều chỉnh Người nói về tư tưởng của mình, chúng ta hãy xem luận điểm trên có phải là “tìm tòi sự thật” hay là sự xuyên tạc lịch sử?

Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, nghĩa tình nhân đức và thiết tha yêu nước. Người được chứng kiến sự tàn bạo của thực dân, phong kiến và bản thân cũng lớn lên trong khổ đau, hoạn nạn. Vì thế, Hồ Chí Minh sớm có lòng yêu nước, thương dân. Hồ Chí Minh khâm phục tinh thần xả thân vì nước của các bậc tiền bối trong cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám, trong phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh... nhưng với nhãn quan chính trị độc lập và sáng suốt, Người không tán thành con đường cứu nước của các cụ vì mỗi con đường đó đều có hạn chế, khó có thể đi đến thành công. Hồ Chí Minh đi tìm con đường cứu nước mới với hành trang chỉ là chủ nghĩa yêu nước truyền thống và một trí tuệ mẫn tiệp. Trải qua gần mười năm bôn ba khắp bốn biển năm châu, nung nấu chí hướng cứu nước cứu dân, vừa lao động cùng những người anh em chung cảnh ngộ, vừa hoạt động cách mạng, vừa học hỏi các tư tưởng mới..., nhận thức của Hồ Chí Minh chuyển biến từng bước. Mùa thu năm 1920, Hồ Chí Minh được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Luận cương của Lênin chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Đó là chân lý của thời đại, là giải đáp tuyệt vời điều Hồ Chí Minh đang trăn trở, tìm tòi. Từ đây, Hồ Chí Minh xác định muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Cũng từ đây, Hồ Chí Minh tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết bất hủ chỉ ra con đường giải phóng giai cấp vô sản và các giai cấp lao động khác, giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng con người, trở thành một trong những nhà sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên.

Sự chuyển biến tư tưởng từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước theo lập trường giai cấp vô sản là một quá trình hợp quy luật. Đúng như đồng chí Phạm Văn Đồng coi việc chủ nghĩa yêu nước truyền thống Hồ Chí Minh bắt gặp chữ nghĩa Mác - Lênin là cuộc “hẹn gặp lịch sử”, hoàn toàn không phải như có người cố tình xuyên tạc rằng đó là một sự lai ghép cưỡng bức, vội vàng giữa cái cây truyền thống với cái mầm ngoại nhập”, tạo thành một “ảo ảnh”, mang “tính chất huyễn diệu”... !

Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết về quá trình đó như sau:

Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác- Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.

Tiếp thụ chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh không thụ động, mà dùng lập trường, quan điểm, phương pháp Mác - Lênin, vận dụng và phát triển những nguyên lý, quy luật chung của cách mạng thế giới vào đặc điểm tình hình các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Những luận điểm về chủ nghĩa đế quốc như một con đỉa có hai vòi, tính chủ động và khả năng thành công trước của cách mạng thuộc địa, nội dung chủ yếu của cách mạng thuộc địa, quy luật thành lập Đảng ở các nước thuộc địa, v.v...là những cống hiến lý luận to lớn của Hồ Chí Minh đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới.

Ngay từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã khẳng định đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Phải chỉ rõ rằng Hồ Chí Minh đánh giá cao động lực của chủ nghĩa dân tộc, nhưng chủ nghĩa dân tộc theo quan niệm của Hồ Chí Minh không phải là chủ nghĩa dân tộc theo lập trường phong kiến hay tư sản, mà đây là chủ nghĩa dân tộc theo lập trường vô sản.

Hồ Chí Minh đã nghiên cứu kỹ các cuộc cách mạng trên thế giới, đánh giá tính chất từng cuộc cách mạng ở từng nước, để tìm con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Với cách mạng Mỹ, Người cho rằng: “Trong lời tuyên ngôn của Mỹ có câu rằng, giời sinh ra ai cũng có quyền tự do, quyền giữ tính mệnh của mình, quyền làm ăn cho sung sướng... Hễ Chính phủ nào mà có hại cho dân chúng phải đạp đổ Chính phủ ấy đi, và gây nên Chính phủ khác. Nhưng bây giờ Chính phủ Mỹ lại không muốn cho ai nói đến cách mạng, ai đụng đến Chính phủ. Về cách mạng tư sản Pháp, Người chỉ rõ: “tư bản nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng, Đồng bào để lừa dân, xúi dân đánh đổ phong kiến. Khi dân đánh đổ phong kiến rồi, thì nó lại thay phong kiến mà áp bức dân. Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mạng không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kì thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Với Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mạng Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ, rồi lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mạng để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới. Người xác định cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười. Với tác phẩm Đường cách mạng thì đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh đã được xác định về cơ bản.

Trong những năm 20 thế kỷ XX, Hồ Chí Minh ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước để chuẩn bị cho việc thành lập Đảng. Cùng với việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã chuẩn bị về đường lối cho cách mạng Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, nước ta từ khi Pháp xâm lược đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Trong xã hội đó, chứa đựng cả mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp nhưng mâu thuẫn dân tộc nổi lên gay gắt nhất, giải phóng dân tộc là mục tiêu cơ bản và trước hết, chống đế quốc và tay sai giải phóng dân tộc đã đã bao hàm nội dung giải phóng giai cấp nhưng chưa triệt để. Muốn củng cố thành quả của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng con người, phải thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” và chủ trương: “chúng ta đã hy sinh làm cách mạng, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một số ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là một xã hội mọi người dân đều có cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do; đất nước được hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung nổi bật và nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định rằng: con đường hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống, được kết hợp với tư tưởng cách mạng tiên tiến Mác - Lênin trở thành tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người ở Việt Nam theo lập trường giai cấp công nhân.

Đầu năm l930, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng. Người trình bày dự thảo Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, được Hội nghị của Đảng thông qua, trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Tuy còn “vắn tắt” nhưng cương lĩnh đã nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.

Cương lĩnh đầu tiên của Đảng tuy mới là “vắn tắt”, nhưng đã bao quát được những vấn đề có ý nghĩa định hướng về chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam. Nội dung Cương lĩnh vừa thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa phù hợp với hoàn cảnh và yêu cầu của cách mạng Việt Nam.

Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã lấy chủ nghĩa - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Song có thời gian do hạn chế về nhận thức, nên một số đồng chí không quán triệt đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng của Hội nghị thành lập Đảng. Từ năm 1936, nhất là từ Hội nghị Trung ương sáu tháng 11 - 1939 đến Hội nghị Trung ương tám tháng 5 - 1941, đường lối cách mạng của Đảng ta đã trở lại quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và từ đó đường lối của Đảng ta luôn luôn thấm nhuần tư tưởng của Người.

Những sử liệu trên, dù mới chỉ được dẫn ra chưa đầy đủ và còn sơ lược, cũng đã chứng tỏ những luận điệu như: tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là chủ nghĩa dân tộc, không có nội dung đấu tranh giai cấp; tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam... chỉ là một sự bóp méo sự thật, xuyên tạc lịch sử của những kẻ có mưu đồ chính trị đen tối.

Có thể thấy các thế lực thù địch không từ bất cứ âm mưu, thủ đoạn nào nhằm chống phá Việt Nam trên mọi lĩnh vực. Trước tình hình ấy, Ðảng ta đã xác định đấu tranh, phản bác có hiệu quả với luận điệu xuyên tạc, các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên của toàn bộ hệ thống chính trị, của mỗi cán bộ, đảng viên và của mọi công dân. Chúng ta phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh tính chủ động. 

Tính chủ động trước hết trong nhận thức. Hiện nay một số lượng rất lớn  các trang mạng xã hội của nhiều tổ chức, hội nhóm phản động lưu vong được chúng huy động để tuyên truyền bóp méo, xuyên tạc tình hình nhằm chống phá Việt Nam. Từ thực tế ấy, vấn đề đặt ra là chúng ta phải chủ động đẩy mạnh tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ những luận điệu xuyên tạc, những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Chỉ khi nào nhận thức rõ, được cập nhật thường xuyên về tình hình và những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; tính chất nguy hiểm, phức tạp của cuộc đấu tranh thì mọi người dân mới đề cao cảnh giác, không bị động, lúng túng trước những luận điệu và âm mưu, thủ đoạn chống phá; ý thức rõ trách nhiệm xây dựng thế trận chủ động đấu tranh.

Những năm qua, các hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để khẳng định tính cách mạng khoa học của mục tiêu lý tưởng, của đường lối, chủ trương, chính sách và những thành tựu của cách mạng chưa được quan tâm đúng mức. Tính thuyết phục trong tuyên truyền đấu tranh phản bác còn hạn chế. Để khắc phục, đòi hỏi chúng ta phải chủ động hơn nữa trong tổ chức các hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Kết quả của hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chính là cơ sở khoa học để chúng ta nâng cao tính thuyết phục trong phản bác các luận điệu xuyên tạc và những âm mưu, thủ đoạn chống phá.

Sự chủ động của các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị trong đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, các quan điểm sai trái, thù địch cũng giữ một vai trò rất quan trọng. Tính chất phức tạp, cam go và quyết liệt của cuộc đấu tranh đòi hỏi phải huy động được sức mạnh tổng hợp. Điều này chỉ được tạo ra khi các cấp, các ngành, các địa phương, các cơ quan, đơn vị và cả hệ thống chính trị có sự chủ động phối hợp với nhau một cách chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất. Thực tế thời gian qua cho thấy trong từng nhiệm vụ, từng nội dung đấu tranh cần tránh hô hào chung chung mà phải phân rõ trách nhiệm chủ trì, trách nhiệm phối hợp của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, từng cơ quan, đơn vị trong cơ chế, quy chế phối hợp thống nhất.

Cùng với đó là sự chủ động của các cơ quan chức năng trong công tác theo dõi, thanh tra, kiểm tra, định hướng với các tổ chức, cá nhân hoạt động trong những lĩnh vực nhạy cảm dễ bị móc nối, lôi kéo, để họ không tiếp tay cho kẻ xấu, không mắc mưu các thế lực thù địch. Sự chủ động trong quản lý, nắm bắt tình hình, phối hợp cung cấp, trao đổi thông tin, nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm đấu tranh của các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là các cơ quan, đơn vị chức năng cũng rất cần được quan tâm. 

Chủ động đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục của các tổ chức, đoàn thể là rất cần thiết nhưng quan trọng và quyết định hơn vẫn là sự chủ động trong rèn luyện bản lĩnh chính trị, tích cực học tập nâng cao trình độ, tu dưỡng phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân. Bởi đó chính là yếu tố cơ sở nền tảng để mỗi cán bộ, đảng viên và từng người dân chủ động, tích cực, tự giác tham gia có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, các quan điểm sai trái, thù địch vốn ngày càng phức tạp, khó khăn, lâu dài và cam go.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét