Nhà nước là một tổ
chức xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị được giai cấp thống trị
thành lập nhằm thực hiện quyền
lực chính trị của mình. Nhà nước vì thế mang bản chất giai cấp. Nhà
nước xuất hiện kể từ khi xã hội loài người bị phân chia thành những lực lượng
giai cấp đối kháng nhau; nhà nước là bộ máy do lực lượng nắm quyền thống trị (kinh tế, chính trị, xã hội) thành lập nên nhằm
mục đích điều khiển, chỉ huy toàn bộ hoạt động của xã hội trong một quốc gia do
vậy nhà nước mang vai trò xã hội, trong đó chủ yếu để bảo vệ các quyền lợi của
lực lượng thống trị. Nhà nước xuất hiện khi có chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất và xuất hiện những giai cấp đối kháng nhau do vậy mà nó cần một tổ chức
chính trị đứng ra để điều hòa những mâu thuẫn ấy và để quản lí xã hội. Nhà nước là vấn đề thực sự phức tạp bởi nó đụng chạm trực tiếp đến lợi ích
sống còn của các giai cấp. Quyền lực nhà nước còn là vấn đề trung tâm, xuyên
suốt trong lĩnh vực chính trị và chính quyền luôn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc
cách mạng. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, chính quyền nhà nước cũng là vấn
đề rất mấu chốt, rất cơ bản mà giai cấp vô sản cùng nhân dân lao động phải nhận
thức sâu sắc và giải quyết chính xác trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng khỏi
mọi ách áp bức, bóc lột giai cấp; cải tạo xã hội cũ và xây dựng thành công xã
hội mới.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng nhà nước sinh ra từ lực
lượng tinh thần. Hêghen cho rằng nhà nước sinh ra do sự tha hoá của ý niệm tuyệt
đối. Thuyết gia trưởng cho rằng nguồn gốc nhà nước ra đời từ gia đình. Chính vì
vậy nên trong xã hội nhà nước cũng như gia đình tồn tại là điều tất yếu. Quyền
lực của nhà nước giống như quyền lực của người đứng đầu trong gia đình. Thực chất
quan niệm này là duy trì quyền lực của giai cấp phong kiến. Các nhà triết học cận
đại đã đề cập đến nhà nước như là sản phẩm của khế ước xã hội. Theo Hốpxơ
(1588-1679), Lốccơ (1632-1704), Rútxô (1712-1778) nhà nước được xem như là một
sự thoả thuận và ý chí chung của nhân dân, nhưng những quan niệm của họ vẫn
chưa hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa duy tâm về vấn đề nhà nước.
Do hạn chế về mặt lịch sử và bị chi phối bởi lợi
ích giai cấp nên các quan niệm trên đều không giải thích một cách khách quan,
khoa học về nguồn gốc của nhà nước.
Vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện chứng
vào nghiên cứu lĩnh vực xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac- Lênin đã
chỉ rõ: Nhà nước là một tổ chức quyền lực
chính trị đặc biệt, do giai cấp thống trị tổ chức ra nhằm bảo vệ lợi ích của
nó, quản lý xã hội và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.
Đồng thời chủ nghĩa Mác-Lênin quan niệm rằng: Sự ra đời, tồn tại của nhà nước xét đến cùng
là do sự phát triển của lực lượng sản xuất đưa tới sự ra đời của chế độ tư hữu
và trực tiếp là do mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa.
Xã hội cộng sản nguyên thủy dựa trên chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất, mọi người sống bình đẳng, trong xã hội chưa có giai cấp,
chưa có nhà nước, kinh tế hết sức thấp kém, đứng đầu thị tộc, bộ lạc là các tộc
trưởng và hội đồng thị tộc do nhân dân bầu ra, họ không có đặc quyền , đặc lợi...
họ điều hành các công việc chung dựa vào sức mạnh của tập quán, của dư luận xã
hội và trên cơ sở đạo đức, uy tín cá nhân của họ đối với xã hội, điều hành công
việc không mang tính chất chính trị. Mặc dù trong xã hội cộng sản nguyên thủy
Nhà nước chưa ra đời, nhưng xã hội vẫn tồn tại trong vòng ổn định trật tự.
Nhận xét về xã hội đó Ănghen viết: “Với tất cả tính
ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết
bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc, vua chúa, tổng
đốc, trưởng quan và quan toà, không có nhà tù, không có những vụ xử án, thế mà
mọi việc đều trôi chảy”.
Đến cuối thời cộng sản nguyên thủy do sự phát triển
của lực lượng sản xuất dẫn tới hình thành chế độ tư hữu và sự phân hoá xã hội
thành những giai cấp có lợi ích khác nhau. Sự đối lập này dẫn tới đấu tranh
xung đột đến mức không thể điều hoà được. Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp
mình, giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế đã lập ra bộ máy bạo lực để trấn
áp tiêu diệt giai cấp đối lập. Cùng với thời gian, bộ máy ấy được hoàn thiện và
trở thành nhà nước. Đây là nhà nước xuất hiện đầu tiên trong lịch sử xã hội
loài người đó là Nhà nước chiếm hữu nô lệ.
V.I. Lênin khẳng định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu
hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc
nào và chừng nào về mặt khách quan những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà
được thì Nhà nước xuất hiện.”.
Từ
sự phân tích trên ta có thể khẳng định sự ra đời của nhà nước đầu tiên từ những
lý do sau: Do lực lượng sản xuất phát triển chế độ sở hữu chung bị thay thế bằng
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất; do đã có dư thừa sản phẩm trong xã hội; chiến
tranh ăn cướp giữa các thị tộc, bộ lạc xuất hiện; các cơ quan tổ chức của bộ lạc,
thị tộc dần dần thoát khỏi gốc rễ của nó trong nhân dân.
Chủ
nghĩa duy tâm tuyên truyền tính thần bí về bản chất của nhà nước. Các nhà lý luận tư sản đã đưa ra những
luận điểm rằng nhà nước không mang bản chất giai cấp. Họ cho rằng, Nhà nước tư
sản hiện nay đã thay đổi về bản chất, Nhà nước tư sản mang bản chất nhân dân;
nhà nước tự do; nhà nước phúc lợi chung… Tất cả những quan niệm ngoài Macxit
đều có điểm chung là che dấu bản chất giai cấp của nhà nước.
Chủ nghĩa Mác – Lênin
quan niệm: Bản chất của nhà nước là công cụ quyền
lực chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế dùng để thống trị, áp bức các
giai cấp khác trong xã hội. Ph.Ăngghen
chỉ rõ: "Nhà nước chẳng qua chỉ là bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối
với một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hoà dân chủ cũng hoàn toàn giống
như trong chế độ quân chủ vậy".
Đây
là vấn đề mấu chốt quan trọng, cơ bản nhất để làm rõ bản chất của nhà nước một
cách khoa học. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, giai cấp nào thống trị về mặt
kinh tế thì giai cấp đó tổ chức ra nhà nước và củng cố nhà nước của mình, dùng
nó như một công cụ sắc bén để duy trì địa vị và lợi ích kinh tế thực hiện quyền
lực chính trị, áp đặt hệ tư tưởng, hợp pháp hoá ý chí giai cấp của mình thành ý
chí của nhà nước. Do đó buộc các giai cấp khác phải tuân theo trật tự phù hợp với
lợi ích của giai cấp thống trị. Như vậy, bất kỳ một nhà nước nào cũng đều là một
tổ chức chính trị mang tính giai cấp, là một bộ máy đặc biệt phục vụ cho giai cấp
này đàn áp giai cấp khác.
Nhà
nước là một bộ máy bạo lực có hệ thống. Với tư cách là một bộ máy trấn áp của một
giai cấp này đối với một giai cấp khác, nhà nước của giai cấp thống trị bóc lột
không phải là kẻ công bằng bảo vệ lợi ích cho tất cả các giai cấp, mà nó là một
bộ máy quyền lực chính trị đặc biệt và được tổ chức chặt chẽ tác động vào mọi mặt
của đời sống xã hội. Tổ chức này do giai cấp thống trị thiết lập ra nhằm hợp
pháp hoá và củng cố sự áp bức của nó đối
với quần chúng nhân dân lao động. Trong hệ thống tổ chức thiết chế xã hội, nhà
nước là bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng. Tất cả những hoạt động
chính trị, văn hoá, xã hội do nhà nước tiến hành, xét cho cùng đều xuất phát từ
lợi ích của giai cấp thống trị.
Nhà
nước có một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp. Bộ máy quyền lực đó
bao gồm: quân đội, cảnh sát, nhà tù, toà án, viện kiểm sát… và hệ thống cơ quan
quyền lực này tạo thành bộ máy bạo lực của nhà nước để duy trì bảo vệ lợi ích
và địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội. Bộ máy bạo lực này dùng để đàn
áp giai cấp đối lập về kinh tế, cưỡng bức những thành viên trong xã hội phải tuân
theo luật pháp của nhà nước. Nhà nước là một tổ chức chính trị
khác với các tổ chức khác, sự khác đó thể hiện ở một số đặc trưng cơ bản. Đó là Nhà nước quản
lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định và đại diện cho một chủ quyền quốc
gia; Nhà nước có một hệ thống cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng
chế đối với mọi thành viên giai cấp trong xã hội; Nhà nước hình thành hệ thống thuế
khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị.
Chức năng của nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của
cả bộ máy nhà nước và mỗi cơ quan nhà nước đều phải tham gia thực hiện ở những
mức độ khác nhau. Tiếp cận nhà nước từ góc độ tính chất của quyền lực chính
trị, nhà nước có chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội.
Xem xét phạm vi tác động của quyền lực nhà nước có chức năng đối nội và chức
năng đối ngoại.
Nhà
nước xã hội chủ nghĩa ra đời là quy luật phổ biến của mọi quốc gia dân tộc khi
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do đặc điểm, điều kiện của mỗi gia cấp,
dân tộc khác nhau, vì vậy hình thức tổ chức nhà nước cũng hết sức phong phú và
đa dạng. Song dù hình thức tổ chức của nhà nước có phong phú đến đâu đi chăng nữa,
về bản chất chỉ là một- đó là nhà nước do giai cấp vô sản tổ chức ra và lãnh đạo.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới, khác về bản chất so với các nhà
nước của giai cấp bóc lột trước đây.
Đặc điểm của nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân,vì dân, là tổ chức thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân lao động do Đảng cộng sản lãnh đạo; nhà nước xã hội
chủ nghĩa có sự kết hợp hai chức năng trấn áp và tổ chức xây dựng, trong đó tổ
chức xây dựng là chủ yếu; Nhà nước xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất hữu cơ giữa
tính dân tộc và tính quốc tế và đó là nhà nước tự tiêu vong.
Trong
học thuyết chuyên chính vô sản, học thuyết về nhà nước kiểu mới của chủ nghĩa
Mác - Lênin, thuật ngữ nhà nước pháp quyền với ý nghĩa đầy đủ nhất chưa được
các nhà kinh điển sử dụng. Song những tư tưởng cốt lõi về nhà nước pháp quyền
đã được các ông đề cập đến trong những bối cảnh khác nhau. Tư tưởng cốt lõi của
nhà nước pháp quyền trong triết học Mác - Lênin tập trung vào một số điểm chính
sau:
Thứ
nhất, bản chất dân chủ trong nhà nước: Ở nhiều tác phẩm,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận bàn về dân chủ, về xã hội công dân với tư cách là
những tiêu chí của nhà nước, xã hội tiến bộ. C.Mac cho rằng dân chủ chính là
dân làm chủ thể quyền lực nhà nước, nhân dân tạo nên nhà nước chứ không phải
nhà nước tạo nên nhân dân. Chủ nghĩa Mác cho rằng, chế độ dân chủ hoàn toàn
khác với chế độ quân chủ chuyên chế, nó xứng đáng dành cho con người. Sự khác
biệt giữa chế độ dân chủ với chế độ chuyên chế, theo C.Mác chính còn là do chế
độ dân chủ có đặc trưng cơ bản là luật pháp tồn tại vì con người: “Dưới chế độ
dân chủ, không phải con người tồn tại vì pháp luật, mà pháp luật tồn tại vì con
người; ở đây sự tồn tại của con người là pháp luật, trong khi đó thì ở những
hình thức khác nhau của chế độ nhà nước, con người lại là tồn tại được bởi quy
định của luật pháp. Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ là như vậy”.
Thứ hai, chủ thể quyền lực nhà nước phải thuộc về đa số: không chỉ làm rõ sự khác biệt giữa chế độ dân chủ với
chuyên chế mà C.Mác còn chỉ ra sự khác biệt cơ bản giữa dân chủ vô sản và dân
chủ tư sản, phê phán sự hạn chế dân chủ trong nhà nước tư sản. C.Mác khẳng định
dân chủ chính là chế độ nhà nước do dân nắm quyền lực. Nhà nước luôn luôn mang
bản chất giai cấp, không có nhà nước chung chung, dân chủ phi giai cấp. Song do
dựa trên cơ sở kinh tế, chính trị - xã hội của nó, nhà nước tư sản chỉ là và
khi nào cũng vẫn là nhà nước của giai cấp bóc lột bảo vệ lợi ích của giai cấp
bóc lột, chống lại nhân dân, không phải là nhà nước do nhân dân nắm quyền, tổ
chức thực hiện và kiểm soát quyền lực.
Thứ
ba, bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân rộng rãi trong nhà nước pháp
quyền:
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, một mặt đã khẳng định bản chất
giai cấp công nhân trong nhà nước chuyên chính vô sản, mặt khác, do bản chất
dân chủ vô sản đòi hỏi, nhà nước XHCN phải mang tính nhân dân rộng rãi, lôi cuốn
đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà nước. Sau khi giành được chính quyền,
giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị duy nhất là phục vụ lợi ích cho đa
số.
Thứ
tư, những điều kiện cơ bản để xây dựng nhà nước vô sản:
Chủ nghĩa Mác, đặc biệt là V.I.Lênin
đã cho rằng để chống nguy cơ quan liêu đồng thời đảm bảo tính hiệu quả của bộ
máy nhà nước, muốn cho nhà nước không đứng trên nhân dân, cai trị nhân dân
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi nhiều điều kiện, trong đó là
yếu tố dân trí, xã hội công dân, cơ chế pháp luật đảm bảo quyền tự do cá nhân,
quyền làm chủ nhà nước, quyền tham gia vào các quyết sách của nhà nước, thực hiện
chính sách đối nội, đối ngoại hòa bình, hữu nghị hợp tác, xây dựng khối sức mạnh
liên minh công - nông trong quyền lực nhà nước. Lênin đặc biệt chú ý đến việc đảm
bảo tính hiệu quả trong hoạt động của bộ máy nhà nước, đề phòng và chống những
biểu hiện tiêu cực trong bộ máy nhà nước cũng như trong đội ngũ công chức.
Xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN ở nước ta hiện nay là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử.
Những đặc trưng của nhà nước và nhiệm vụ xây dựng nhà nước mà Đảng ta đặt ra
chính là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của học thuyết Mác - Lênin về nhà nước
kiểu mới với những tư tưởng cốt lõi về pháp quyền trong điều kiện cụ thể của Việt
Nam. Đảng ta khẳng định lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân là trọng trách của Đảng cầm quyền, là một tất yếu
khách quan và yêu cầu mà thực tiễn đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta
đặt ra.
Tính
tất yếu lịch sử của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam còn bắt nguồn từ
chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập và
trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã và luôn là một
nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các
quy định của Hiến pháp, pháp luật và luôn vận hành trong khôn khổ Hiến pháp và
pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ. Toàn án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở
Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013. Những lần Hiến
pháp được sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức
và hoạt động của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu
ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946, được định hướng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước. Quá trình này đã và đang được
tiếp tục đẩy mạnh trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Tính tất yếu khách quan
của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xuất phát từ định hướng XHCN với
mục tiêu “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng một chế
độ xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Chúng ta
ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy
thì công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và một nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tính tất yếu khách quan
ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế sau khi nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO) đòi hỏi chúng ta tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính Nhà nước,
cải cách pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để
giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hành dân
chủ, giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
Tư
tưởng về một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân do Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng khởi xướng, xây dựng đã được quán triệt thực hiện trong suốt quá
trình lãnh đọa cách mạng nước ta. Tinh thần dân chủ hóa đời sống xã hội mà Đảng
ta đề xuất từ Đại hội VI đã khơi nguồn sáng tạo cho nhân dân, trong lao động, sản
xuất tham gia xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tuy nhiên, khái niệm
“Nhà nước pháp quyền XHCN” lần đầu tiên được Đảng ta chính thức sử dụng trong
Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994). Tại Hội
nghị này, Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ và phương hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và đã được các
Đại hội VII, IX, X và XI của Đảng tiếp tục phát triển và hoàn thiện. Đại hội
VIII của Đảng đã dành sự chú ý, quan tâm nhiều đến vấn đề dân chủ và đã đặt ra
một cách dứt khoát mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, cải cách nền
hành chính quan liêu bao cấp trước đây. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm
2001) tiếp tục khẳng định mục tiêu xây dựng một chế độ dân chủ thông qua nhà nước
pháp quyền XHCN, cải cách các thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước, mở
rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, coi đoàn kết là động lực của
sự phát triển xã hội. Đến Đại hội X (năm 2006), nhà nước pháp quyền đã được Đảng
xác định là một trong tám đặc trưng chủ yếu của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân
xây dựng, đó là “có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”. Tinh thần này tiếp tục được Đảng ta
xác định trong văn kiện Đại hội XI và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) là một văn kiện
quan trọng có ý nghĩa chiến lược, định hướng cho sự phát triển lâu dài của đất
nước trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và nêu nên những đặc trưng
cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN. Đó là Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam là nhà nước thật sự của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân; Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực
nhà nước là thống nhất có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và nguyên
tắc tập trung dân chủ; Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước
tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân, tất cả vì hạnh phúc nhân dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa nhà
nước và công dân, thực hành dân chủ đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật;
Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ
các cam kết quốc tế; Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động
dưới sự giám sát của nhân dân, sự phân biệt xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Đất
nước ta sau hơn 35 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử; nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức đan xen. Điều đó
đặt ra những yêu cầu mới đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói
chung, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nói riêng. Đại hội XIII của Đảng chỉ
rõ: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch,
vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự
phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải
trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động
của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”. Quán
triệt, cụ thể hóa quan điểm của Đảng trong tiếp tục xây dựng, hoàn thiện, phát
huy hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN trong thời gian
tới, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, thống nhất trong nhận thức, hành động xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do
Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Xác định rõ
hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở nguyên tắc
pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành
mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ
thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh
bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp làm
trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật
với tuyên truyền pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp
luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật.
Hai là, đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội với vai trò là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân
chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Tiếp tục đổi mới,
nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế
phát triển đất nước, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; tôn
trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện cơ chế bảo
vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những
người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn; bảo đảm
tiêu chuẩn, cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu, theo hướng tăng hợp lý số
lượng đại biểu hoạt động chuyên trách; giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ
quan hành pháp, tư pháp. Thiết lập đồng bộ, gắn kết giữa cơ chế giám sát của cơ
quan dân cử với cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội và nhân dân.
Ba là, xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp
quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu
lực, hiệu quả; phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, tập
trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch;
tăng cường năng lực dự báo, phân tích và đề xuất chính sách dựa trên luận cứ
khoa học và thực tiễn trong tình hình mới. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác
định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ban, ngành; giữa Trung ương với
địa phương; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, bảo đảm quản lý nhà nước tập trung, thống nhất. Tập trung cải cách tiền
lương, chế độ, chính sách; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tinh,
gọn, mạnh, có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, đổi mới sáng tạo, phục vụ nhân
dân và sự phát triển của đất nước.
Bốn là, xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công
bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Thực hiện
tốt trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của tổ chức, cá nhân. Đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả
hoạt động, uy tín của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều
tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào hoạt động tư pháp,
giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các tranh chấp, khiếu kiện theo luật định;
phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp
luật.
Năm là, hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn
nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt theo luật
định; thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và
vận hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị thông minh, hiện đại, tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Gắn kết và đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp. Cải
cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân định, bảo đảm vai trò chủ đạo
của ngân sách trung ương, nâng cao tính chủ động, tự chủ của ngân sách địa
phương.
Sáu là, phát huy vai trò, sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị
và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, các lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt
trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Nhà nước pháp quyền XHCN trước những âm mưu, hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch từ bên trong, bên ngoài, bảo vệ an ninh
chính trị nội bộ, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, hướng tới
xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh. Nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước về an ninh, trật tự. Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng,
chủ trương, đường lối của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái,
xuyên tạc, thù địch về bản chất, mô hình, mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam. Ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kiên quyết, kiên
trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực gắn với tăng cường rèn
luyện đạo đức, tác phong, lề lối làm việc, “tự soi, tự sửa”, “tự phê bình và phê
bình” của cán bộ, đảng viên.
Trải qua 77 năm
chiến đấu và trưởng thành, quân đội nhân dân Việt Nam luôn được Đảng Cộng sản
Việt Nam, Bác Hồ kính yêu giáo dục, rèn luyện và được nhân dân đùm bọc giúp đỡ.
Trong suốt chặng đường lịch sử đó, quân đội ta luôn xứng đáng là lực lượng
chính trị tin cậy, lực lượng quân sự vững mạnh của Đảng, của Nhà nước,
của nhân dân và của chế độ xã hội mới. Để góp phần bảo vệ và xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong điều kiện hiện nay, quân đội ta cần tập
trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Một là: Quân đội nhận thức rõ
trách nhiệm của mình trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Nhà nước, nhất là trong
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Bảo vệ Nhà nước và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước luôn có mối quan hệ biện chứng, thống nhất
chặt chẽ với nhau. Trong đó, bảo vệ Nhà nước gắn liền với bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng và chế độ XHCN...Đây cũng chính
là nội dung của bảo vệ Tổ quốc và cũng là nội dung chính của bảo vệ và xây dựng
Nhà nước ta hiện nay.
Hiện nay kẻ thù của cách mạng đã bị đánh đổ nhưng chưa bị tiêu
diệt hoàn toàn, chúng vẫn còn lực lượng và âm mưu gây tội ác bằng nhiều thủ
đoạn nguy hiểm khác nhau nhằm xóa bỏ thành quả cách mạng, xóa bỏ nền hòa bình
và nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam nhằm khôi phục lại chế độ phản động... Chính
vì vậy quân đội không bao giờ được lơ là, buông lỏng vũ khí trong bất cứ điều
kiện hoàn cảnh nào. Phải luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến
đấu đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù, bảo vệ vững chắc nền hòa bình, an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ nhà nước và chế độ XHCN. Bởi vì
có giữ vững ổn định chính trị, xã hội chúng ta mới có hòa bình và phát triển.
Đó cũng là điều kiện tốt nhất để bảo vệ Đảng và bảo vệ Nhà nước ta.
Rõ ràng bảo vệ Tổ quốc nhất thiết phải gắn liền với bảo vệ Nhà
nước Việt Nam XHCN và bảo vệ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Để thực hiện thắng
lợi sự nghiệp vẻ vang này, quân đội ta phải đủ mạnh, phải thực sự xứng đáng là
công cụ bạo lực sắc bén của Nhà nước, đi đầu trong việc tổ chức, triển khai và
thực hiện tốt đường lối, chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát
triển kinh tế, xã hội...thực hiện tốt các pháp lệnh liên quan đến quốc phòng,
an ninh. Đồng thời, đấu tranh loại trừ mọi hành vi phá hoại sự nghiệp đổi mới
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước
giao cho...
Hai là: Quân đội tích cực tham
gia trên mặt trận chính trị - xã hội, bảo vệ và xây dựng Nhà nước trong tình
hình mới
Trong tình hình hiện nay, Đảng và Nhà nước ta xác định: Xây dựng
cơ sở vật chất- kỹ thuật, phát triển kinh tế, thực hiện CNH, HĐH là nhiệm vụ
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Với ý nghĩa đó, quân đội ta phải cùng
với Đảng, Nhà nước và nhân dân, tích cực đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ
đoạn của kẻ thù, thực hiện thắng lợi, thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân
tộc và CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn.
Để làm được điều đó, đòi hỏi chúng ta trong khi tập trung mọi
nguồn lực để phát triển kinh tế, thực hiện CNH, HĐH đất nước không được lơ là,
mất cảnh giác, buông lỏng trận địa quốc phòng- an ninh. Bằng bất cứ giá nào,
quân đội cũng phải bảo vệ được Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN, phải coi trọng sự
ổn định chính trị, kinh tế xã hội là sự đảm bảo vững vàng cho sự phát triển
kinh tế, văn hóa xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo
định hướng XHCN.
Trong tình hình hiện nay, quân đội nhân dân cần nêu cao bản chất
của quân đội cách mạng kiểu mới, là quân đội của nhân dân, từ nhân dân mà ra,
vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân mà phục vụ. Và ngược lại, nhân dân phải ra
sức chăm lo giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để quân đội hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao. Có như vậy sức mạnh quân sự của nhà nước mới được củng cố và phát
triển. Đó là tiền đề cơ bản để bảo vệ và xây dựng thành công Nhà nước pháp
quyền XHCN nước ta hiện nay.
Bên cạnh việc chống giặc " ngoại xâm", quân đội ta cần
tích cực chống giặc "nội xâm" cản trở sự nghiệp đổi mới xây dựng đất
nước, đó là tệ nạn tham nhũng, buôn lậu, và các tệ nạn xã hội... góp phần quan
trọng vào việc làm trong sạch bộ máy Nhà nước, ổn định đời sống kinh tế, chính
trị, trật tự kỷ cương, an toàn xã hội. Trong các công việc nêu trên, quân đội
phải là lực lượng xung kích đi đầu thực hiện nghiêm pháp luật của Nhà nước,
cùng Nhà nước tổ chức triển khai, phổ biến pháp luật sâu rộng trong quần chúng
nhân dân, giúp nhân dân sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật...
Ba là: Quân đội chủ động tham
gia lao động xản xuất, xóa đói giảm nghèo, làm kinh tế góp phần bảo vệ và xây
dựng Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đây là một nét đẹp của truyền thống quý báu của dân tộc ta có từ
ngàn năm dựng nước và giữ nước mà còn là biểu hiện bản chất của một quân đội
cách mạng, quân đội của nhà nước chuyên chính vô sản.
Thực tiễn đã chứng minh rằng, quân đội tham gia lao động xản xuất,
xóa đói giảm nghèo, làm kinh tế là một tất yếu khách quan, một nhiệm vụ mang
tính chiến lược, lâu dài được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó nhằm củng cố
quốc phòng- an ninh, nâng cao sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ
Tổ quốc, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống bộ đội, giải quyết các vấn đề
xã hội, giảm một phần ngân sách quốc phòng của Nhà nước... Đặc biệt trong điều
kiện hiện nay quân đội ta luôn phải xác định là một trong những lực lượng xung
kích đi đầu trong thực hiện thắng lợi chủ chương chính sách của Đảng và Nhà
nước trong việc xây dựng, củng cố, phát triển cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội
nhất là ở vùng sâu, vùng xa, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí,
từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo ra những cơ
sở xã hội cho việc xây dựng và củng cố chính quyền Nhà nước.
Bốn là: Quân đội tích cực, chủ
động, sáng tạo trong xây dựng nền khoa học - kỹ thuật quân sự và công nghiệp
quốc phòng hiện đại, góp phần xây dựng và củng cố tiềm lực quân sự của Nhà nước
ngày càng vững mạnh.
Đây được coi là một yêu cầu mang tính khách khách quan, một nhiệm
vụ vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách trước mắt, bởi sức mạnh của nhà nước phụ
thuộc một phần rất lớn vào sức mạnh của ngành khoa học kỹ thuật quân sự. Để
củng cố tiềm lực quân sự của nhà nước ngày càng vững mạnh có hiệu quả, trước
tiên chúng ta cần đáp ứng tốt các yêu cầu cơ bản như: Duy trì tốt vũ khí trang
bị kỹ thuật hiện có, cải tiến nâng cao tính năng kỹ chiến thuật, từng bước tạo
thêm nguồn dự trữ cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, vừa khai thác, thực hiện
chuyển giao khoa học công nghệ hiện đại để đi nhanh, rút ngắn khoảng cách tụt
hậu. Muốn vậy, trước mắt quân đội cần làm tốt công tác bảo đảm kỹ thuật, tập
trung bảo quản, bảo dưỡng, niêm cất, tăng hạn, sữa chữa vũ khí, trang bị kỹ
thuật góp phần ngăn chặn và hạn chế sự xuống cấp, mất đồng bộ của vũ khí trang
bị.
Về lâu dài, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học quân sự để
giải quyết những vấn đề của thực tiễn xây dựng quân đội. Trên cơ sở đó, từng
bước xây dựng và phát triển nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, đáp ứng yêu
cầu quốc phòng và an ninh, trong đó chú trọng vào nghiên cứu, chế tạo vũ khí
trang bị đối phó với vũ khí công nghệ cao của thế lực thù địch. Mặt khác cần
vận dụng những thành tựu khoa học - công nghệ quân sự để phát triển các ngành
kinh tế quốc dân, nhất là sản xuất một số mặt hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu
dân sinh như công nghiệp, điện cơ... Làm tốt vấn đề này là góp phần thiết thực
củng cố và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển gắn bó
chặt chẽ với Nhà nước ta, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào, nhất là trong điều kiện hiện nay, quân
đội nhân dân Việt Nam là một lực lượng quan trọng trong việc góp phần bảo vệ và
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Điều này
thể hiện qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội kiểu mới, và cũng
chính thông qua quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình mà tiếp tục
khẳng định bản chất giai cấp công nhân của quân đội.
Tóm lại đất nước ta sau hơn 35 năm đổi mới đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn,
thách thức đan xen. Việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN đã được đây mạnh; tổ chức bộ máy ngày càng hoàn thiện hơn;
phương thức hoạt động của Nhà nước được đổi mới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong
những năm qua còn một số hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu lớn nhằm đẩy mạnh xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam. Điều đó đang đặt ra những
yêu cầu mới đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN nói riêng. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của
đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát
quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và
của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”. Vì vậy tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đáp ứng những yêu cầu đang
đặt ra của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế là một nhân tố mang ý nghĩa
quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn
hiện nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét