Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
đánh giá vai trò của lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong thời
gian qua đã “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự,
an toàn xã hội; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước”1. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến
tranh, xung đột từ sớm, từ xa và triệt tiêu các yếu tố bất lợi, nhất là các yếu
tố có thể gây ra đột biến. Lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân dưới
sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất tập
trung của Nhà nước đã xây dựng, củng cố và nâng cao nền quốc phòng toàn dân,
thế trận quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân
và khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố được củng cố ngày càng vững chắc.
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong thời gian qua
đã phát triển theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại;
một số quân chủng, binh chủng, lực lượng có mặt tiến nhanh lên hiện đại đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đóng góp vào hoạt động duy
trì hoà bình ở khu vực và trên thế giới; là lực lượng nòng cốt, xung kích trong
công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội,
phòng, chống thiên tai, thảm họa, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ; giúp đỡ nhân dân
xoá đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hoá và nông thôn mới, nhất là ở vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Hệ thống quy phạm
pháp luật liên quan đến lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đã bước
đầu hình thành hệ thống pháp luật, hoàn thiện các chiến lược, đề án về quốc
phòng, an ninh và cơ sở vật chất cho việc bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông
tin quốc gia, không gian mạng quốc gia. Để đạt được những thành tựu trên, Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trên các mặt:
Một là, về chính trị, tư tưởng. Sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Ðảng, quản lý thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân là quan điểm nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách
mạng Việt Nam, được thể hiện sinh động trong thực tiễn xây dựng các lực lượng
về chính trị và tư tưởng. Sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Ðảng là nhân tố
quyết định sự vững mạnh, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của các lực
lượng vũ trang Việt Nam. Ðảng ta luôn trung thành và nắm vững bản chất khoa
học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng
tạo các quy luật vận động, phát triển của xã hội, các quy luật của thực tiễn để
đề ra đường lối chính trị, đường lối quân sự, quốc phòng, đường lối chiến tranh
nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy
tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Sự lãnh đạo của Ðảng không chỉ quyết định bản
chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và mục tiêu, lý tưởng
chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của lực lượng Quân đội, Công
an mà còn quyết định các nguyên tắc tổ chức hoạt động, các mối quan hệ của các
lực lượng này đối với Ðảng, Nhà nước, với Tổ quốc và nhân dân. Văn kiện Đại hội
XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong Quân đội và Công an tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,
với Đảng, Nhà nước và nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng ,
bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
trong mọi tình huống”1. Ðảng trực tiếp giáo dục, rèn luyện, xây
dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng; bảo đảm cho mọi cán bộ,
nhân viên, chiến sĩ luôn kiên định, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Ðảng. Thông qua cơ chế,
phương thức lãnh đạo của Ðảng và tiến hành công tác đảng, công tác chính trị,
Ðảng giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của mình đối với Quân đội và Công an,
bảo đảm cho các lực lượng luôn quán triệt và thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương, chính sách của Ðảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, sẵn sàng
chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh
phúc của nhân dân. Nhờ đó, trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân cũng đều tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Ðảng,
quyết tâm chiến đấu hy sinh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Ðảng, Nhà nước
và nhân dân giao phó.
Hai là, về công tác tổ chức, cán bộ. Đảng Cộng sản Việt
Nam là tổ chức duy nhất lãnh đạo Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt
Nam. Sự lãnh đạo về tổ chức cán bộ đối với Quân đội và Công an không thể phân
chia cho bất kỳ một cá nhân nào, một lực lượng chính trị nào khác. Nhà nước
quản lý Quân đội, Công an thống nhất chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung
dân chủ, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp
luật. Vì vậy, tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với các lực lượng vũ trang
về mặt tổ chức cán bộ đặt trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng về mặt tổ chức. Dưới sự lãnh đạo tập trung của Đảng, Công an
nhân dân và Quân đội nhân dân đã tiến hành kiện toàn hệ thống tổ chức, nâng cao
năng lực, trình độ lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu và tính năng động của các
tổ chức đảng, đặc biệt là tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Các cấp ủy thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo
gắn với phân công cá nhân phụ trách; coi trọng việc xây dựng và triển khai quy
chế làm việc, quy chế lãnh đạo các mặt công tác trọng yếu; tích cực đổi mới,
nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nâng cao tính chiến đấu, tăng cường đoàn
kết, thống nhất trong từng tổ chức đảng và đơn vị; chủ động triển khai thực
hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát trong từng nhiệm kỳ sát với yêu cầu nhiệm vụ
và thực tiễn của từng tổ chức. Tăng cường công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán
bộ theo hướng số lượng gắn liền với cơ cấu, bố trí, sắp xếp cán bộ hợp lý, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Nhà nước quản lý Quân đội và Công an trên cơ sở
thể chế hóa đường lối, nghị quyết của Đảng (về quân sự, quốc phòng, chiến lược
bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực lượng vũ trang) thành luật pháp, chính sách, kế
hoạch; đồng thời cải tiến tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước
từ Trung ương đến địa phương. Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, các bộ và cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
chính phủ và địa phương cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước đối với Quân
đội nhân dân và Công an nhân dân. Cải tiến phương thức, lề lối làm việc của các
cơ quan, đơn vị của lực lượng, xác định rõ nguyên tắc làm việc và quy chế phối
hợp vận hành của bộ máy lãnh đạo, quản lý, chỉ huy của các đơn vị Quân đội và
Công an.
Ba là, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý Quân đội nhân dân
và Công an nhân dân trên các nhiệm vụ và mặt công tác chuyên môn. Bên cạnh việc
chỉ đạo của Đảng trực tiếp đối với lực lượng Quân đội và Công an trên mặt chính
trị, tư tưởng và tổ chức cán bộ, Đảng lãnh đạo trên các mặt công tác và nhiệm
vụ chuyên môn như: chiến lược xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân
dân; công tác giáo dục đào tạo Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; công tác
nghiên cứu khoa học; công tác huấn luyện, chiến đấu, dự bị động viên; phát
triển kinh tế quốc phòng; tình báo chiến lược… Nhà nước quản lý thống nhất lực
lượng vũ trang đối với các mặt công tác chuyên môn trên cơ sở thể chế hóa đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng luật pháp; đồng
thời, không ngừng cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước
từ Trung ương đến địa phương. Kịp thời điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, các Bộ và cơ quan ngang Bộ khác,
cơ quan thuộc Chính phủ và địa phương có liên quan đến các mặt công tác chuyên
môn cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước đối với lực lượng vũ trang; không
ngừng củng cố, hoàn thiện, hoàn chỉnh hệ thống chỉ huy các cấp trong các cơ
quan, đơn vị trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam, Dân
quân tự vệ. Nỗ lực cải tiến phương pháp, lề lối làm việc; xác định rõ nguyên
tắc làm việc và quy chế phối hợp vận hành của các cơ quan chuyên môn, bộ máy
lãnh đạo, quản lý, chỉ huy các cấp của các cơ quan, đơn vị trong lực lượng vũ
trang. Duy trì nghiêm cơ chế lãnh đạo để Đảng luôn nắm chắc được lực lượng vũ
trang trong mọi tình huống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét