Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (United Nations Convention on the Law of the Sea - UNCLOS 1982) (gọi tắt là Công ước luật Biển 1982). Là một văn kiện pháp lý đa phương đồ sộ, bao gồm 320 điều khoản và 9 Phụ lục, với hơn 1000 quy phạm pháp luật.
Công ước luật Biển năm 1982 được coi là hiến
pháp của thế giới về các vấn đề biển và đại dương bởi đã xác định một cách toàn
diện quy chế pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của
các quốc gia ven biển cũng như quy chế pháp lý của vùng biển quốc tế và đáy
biển quốc tế. Đồng thời Công ước cũng quy định thành lập một loạt cơ chế quốc
tế quan trọng liên quan đến hoạt động ở biển và đại dương như: Tòa án quốc tế
về luật Biển, Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương, Ủy ban Ranh giới thềm
lục địa và Hội nghị các quốc gia thành viên công ước. Đặc biệt, liên quan đến
các tranh chấp có thể nảy sinh giữa các thành viên, Công ước luật Biển năm 1982
đòi hỏi các quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh chấp liên quan đến việc
giải thích hoặc áp dụng Công ước bằng các biện pháp hòa bình theo đúng quy định
của Hiến chương Liên Hợp Quốc, đồng thời nêu rõ các cơ chế giải quyết tranh
chấp mang tính triệt để.
Nằm ven Biển Đông và là một trong những quốc
gia có bờ biển dài trong khu vực (khoảng 3.260km), theo các quy định của
UNCLOS, Việt Nam được thừa nhận có vùng lãnh hải rộng 12 hải lý, vùng đặc quyền
kinh tế rộng 200 hải lý, thềm lục địa rộng ít nhất 200 hải lý và có thể mở rộng
tới 350 hải lý tính từ đường cơ sở. Diện tích các vùng biển và thềm lục địa mà
Việt Nam được hưởng theo quy định của Công ước khoảng gần một triệu km2, rộng
gấp ba lần diện tích lãnh thổ đất liền. Là thành viên UNCLOS, Việt Nam có nghĩa
vụ phải giải quyết các tranh chấp theo các quy định của UNCLOS. Cụ thể, Việt
Nam có quyền xác định các vùng biển và thềm lục địa theo UNCLOS nhưng đồng thời
cũng có nghĩa vụ tiến hành phân định các vùng biển và thềm lục địa ở những khu
vực chồng lấn với các nước láng giềng.
Việt Nam là một trong 130 nước bỏ phiếu thông
qua và sau đó cùng 118 nước khác ký UNCLOS năm 1982 tại Vịnh Montego (Jamaica).
Ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam đã chính thức phê chuẩn và trở thành thành viên
thứ 63 của UNCLOS; Điểm 1 trong Nghị quyết nêu rõ: "Bằng
việc phê chuẩn Công ước của LHQ về Luật Biển 1982, nước CHXHCN Việt Nam biểu
thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng,
khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển". Quốc hội khẳng định chủ
quyền của Việt Nam đối với các vùng nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và
quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa Việt Nam trên cơ sở các quy định của Công ước và các nguyên tắc của
pháp luật quốc tế, yêu cầu các nước khác tôn trọng các quyền nói trên của Việt
Nam. Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời cũng tuyên bố rõ lập trường của Nhà nước
ta là giải quyết hòa bình các bất đồng liên quan đến Biển Đông trên tinh thần
bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc
biệt là Công ước Luật Biển năm 1982, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán của các nước ven Biển Đông đối với vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa.
Trước tình hình các tranh chấp trên biển Đông ngày một phức tạp, Việt Nam càng cần tỏ ra bình tĩnh nhưng cương quyết, sử dụng những biện pháp hòa bình theo đúng Luật biển và luật pháp quốc tế, tránh gây xung đột và căng thẳng không cần thiết. Trong bối cảnh phức tạp như hiện nay, UNCLOS còn là một công cụ pháp lý chính thống và hữu hiệu trong việc kiềm chế, quản lý các mối đe dọa với an ninh, an toàn ở Biển Đông cũng như bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên biển./HNH
Tác giả: Dẫn tin từ Hạnh Quyên - T29
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét