Bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số cùng với đấu tranh chống lợi
dụng vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay là những vấn đề lý luận - thực tiễn vừa
cơ bản, vừa cấp bách, cần được nhận thức thấu đáo và tổ chức thực hiện
đồng bộ, toàn diện, kiên trì. Đây là một bộ phận hữu cơ của sự nghiệp phát
triển toàn diện các dân tộc, bảo vệ và phát triển các quyền con
người chân chính, góp phần xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn
với xây dựng thế trận an ninh nhân dân ở vùng dân tộc thiểu số.
Sự tác động qua
lại giữa bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số và đấu tranh chống lợi dụng
vấn đề dân tộc
Quyền của các dân tộc
thiểu số nhìn chung được chia thành hai nhóm: nhóm các quyền cá nhân thông
thường áp dụng với từng thành viên của mỗi dân tộc và nhóm các quyền tập thể
áp dụng cho cộng đồng các dân tộc thiểu số. Bảo đảm quyền con người ở
vùng dân tộc thiểu số có hiệu quả là bằng chứng thực tiễn - pháp lý
sinh động phản bác mọi luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch;
là cách làm tốt nhất để bảo vệ chân lý, lẽ phải của Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta trong sự nghiệp bảo vệ và chăm lo quyền con người chân chính; là
sự chủ động phòng ngừa, ứng phó với mọi nguy cơ phát sinh từ vấn đề dân
tộc, không tạo cớ cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá; là môi trường
giúp các dân tộc (đa số và thiểu số) phát triển lành mạnh, định hình ý thức
dân tộc chân chính, xây dựng quan hệ dân tộc đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng,
giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển;
là hình thức tự đề kháng của các dân tộc thiểu số trước mọi luận điệu
của các thế lực thù địch hòng xuyên tạc, chống phá, chia rẽ khối đoàn kết
dân tộc. Đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân
tộc có hiệu quả sẽ tạo môi trường ổn định cho các dân tộc xây dựng khối đoàn
kết, bình đẳng, giúp nhau cùng phát triển. Đấu tranh trên lĩnh vực tư
tưởng có vai trò đập tan ngay từ nguồn gốc tư tưởng - lý luận của chủ nghĩa
dân tộc cực đoan, chủ nghĩa ly khai, giúp bản thân các dân tộc định hình ý
thức dân tộc chân chính, thống nhất giữa quyền con người và quyền công
dân, quyền và nghĩa vụ, quyền cá nhân của thành viên dân tộc với quyền
tập thể dân tộc, giữa quyền của tập thể dân tộc với quyền của cộng
đồng quốc gia - dân tộc. Đấu tranh có hiệu quả giúp Đảng, Nhà nước khẳng
định được tính chính nghĩa, lẽ phải trên các diễn đàn đa phương, song phương,
củng cố vị thế, uy tín, nhờ đó vừa tranh thủ được dư luận và nguồn lực quốc
tế, vừa tập trung được nguồn lực trong nước để đầu tư cho phát triển các dân
tộc. Còn xung đột, chia rẽ không những làm cho các dân tộc thiếu môi
trường ổn định và không tập trung được nguồn lực đầu tư để phát triển,
mà còn dẫn tới phân tán nhân lực, vật lực, gây xáo trộn các quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bỏ lỡ các cơ hội phát triển. Đấu tranh
còn mang hàm ý đấu tranh trong nội bộ nhân dân, nhất là với những nhận thức
chưa đúng đắn, những hành vi lệch lạc, sai trái của một bộ phận cán bộ
và người dân trong bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số. Nhờ đó bảo
đảm cho việc thực thi chính sách dân tộc được triển khai một cách
đồng bộ, đầy đủ, nhất quán với ý thức và trách nhiệm tự giác cao
của toàn bộ hệ thống chính trị, của đồng bào các dân tộc đa số và
thiểu số, của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Bảo đảm quyền của các
dân tộc thiểu số và đấu tranh chống âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc có sự
thống nhất ở mục tiêu chung, ở chủ thể lãnh đạo - quản lý chung, ở phục vụ
lợi ích quốc gia - dân tộc thống nhất, ở sử dụng chung nhiều lực lượng. Mục
tiêu chung của bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số và đấu tranh
chống lợi dụng vấn đề dân tộc đều nhằm xây dựng một xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc - dân tộc; bảo vệ
môi trường hòa bình và ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội cho phát triển đất nước; bảo vệ bản sắc văn hóa của dân tộc
Việt Nam. Bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số và đấu tranh chống
lợi dụng vấn đề dân tộc ở Việt Nam đều do Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, cùng cả hệ thống chính trị tham gia, bao gồm từ hoạch định
đường lối đến tổ chức thực hiện; thống nhất ở đặt lợi ích quốc
gia - dân tộc làm tối thượng, lợi ích bộ phận không thể thoát ly lợi
ích của quốc gia - dân tộc.
Tuy nhiên, bảo
đảm và đấu tranh, mỗi vấn đề có nội dung riêng do khác nhau về mục
tiêu cụ thể, đối tượng tác động, lực lượng chuyên trách và phương
pháp công tác chuyên biệt. Về mục tiêu cụ thể, nếu tính hướng
đích của bảo đảm quyền các dân tộc là tôn trọng và bảo vệ quyền
chân chính của các dân tộc thiểu số, thì đấu tranh có mục tiêu là
làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn, hoạt động của các thế lực thù
địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền để phá hoại khối
đoàn kết dân tộc, kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa ly
khai. Về đối tượng, nếu đối tượng của bảo đảm quyền các
dân tộc là đồng bào các dân tộc thiểu số, gồm cả tập thể dân tộc
và thành viên của từng cộng đồng dân tộc, thì đối tượng của đấu tranh
là các thế lực thù địch bên ngoài hòng lợi dụng vấn đề dân tộc
thiểu số để chống phá, là các phần tử phản động trong nước tiếp tay
cho các thế lực thù địch bên ngoài thực hiện các hành vi chống phá
lợi ích quốc gia - dân tộc, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Về
lực lượng chuyên trách, bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số do
các tổ chức và cá nhân có nhiệm vụ tổ chức và thực thi các chính
sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ quốc phòng, an
ninh, chính sách đối ngoại, bảo vệ môi trường sinh thái...; mỗi lực
lượng có vai trò, vị trí riêng khi thực thi các chính sách đa/liên
ngành, trong đó cơ quan chuyên trách công tác dân tộc có vai trò rất quan
trọng. Đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc tuy cũng cần lực lượng
đa/liên ngành rộng lớn, nhưng đội ngũ nòng cốt chuyên trách là công an
nhân dân, quân đội nhân dân, các nhà tư tưởng lý luận, nhà báo đấu
tranh trên địa hạt tư tưởng - lý luận. Về biện pháp công tác
chuyên biệt, nếu bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số được
thực hiện bằng các biện pháp kinh tế, hành chính, dân sự, thông qua
các chính sách và luật pháp tôn trọng, bảo vệ, chăm lo quyền con
người, thông qua các chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế -
xã hội, củng cố hệ thống chính trị, bảo vệ và phát huy bản sắc văn
hóa, bảo vệ môi trường sinh thái, ... thì đấu tranh chống lợi dụng
vấn đề dân tộc đòi hỏi phải kết hợp cả biện pháp vũ trang và phi vũ
trang, kể cả sử dụng nghiệp vụ chuyên biệt của lực lượng vũ trang để
đập tan các hoạt động móc nối, gây dựng cơ sở, tập hợp lực lượng hòng chia
rẽ khối đoàn kết dân tộc, kích động bạo loạn lật đổ, thực hiện chủ
nghĩa ly khai.
Bảo đảm quyền
của các dân tộc thiểu số và đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân
tộc: Vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc
Để nâng cao hiệu quả
trong giải quyết vấn đề này cần chú ý mấy vấn đề sau đây:
Thứ nhất, cần nhận thức
đầy đủ vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của việc bảo đảm quyền
các dân tộc thiểu số trong giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam .
Bảo đảm quyền của
các dân tộc thiểu số có tầm quan trọng đặc biệt đối với ổn định và
phát triển của đất nước. Nó được chế định bởi điều kiện địa - chính
trị, kinh tế, nhân văn, môi trường của vùng dân tộc thiểu số; bởi tính
chất khó khăn, phức tạp của vấn đề dân tộc do di tồn lịch sử, giới hạn
nguồn lực đầu tư, rào cản của phong tục, tập quán và trình độ phát triển, đặc
biệt là hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Vì vậy, bảo
đảm quyền của các dân tộc thiểu số không thể thực hiện nhanh chóng bằng một
vài chương trình, dự án hoặc chỉ bằng can thiệp hành chính, mà phải thông qua
giải pháp tổng hợp, thực hiện theo các bước phát triển ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn, giai đoạn trước tạo tiền đề phát triển cho giai đoạn sau. Đây
là sự nghiệp lâu dài, gian khổ; cần nhiều nguồn lực đầu tư lớn, gồm
cả nhân lực, tài lực, vật lực; cần sự tham gia của cả hệ thống
chính trị, của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; cần
sự tương trợ, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc; cao nhất vẫn
là khơi dậy ý thức tự lực, tự cường của bản thân đồng bào các dân
tộc.
Thứ hai, bảo đảm quyền
của các dân tộc là vấn đề liên ngành/đa ngành, từ kinh tế, chính trị, văn hóa
- xã hội, môi trường - sinh thái, quan hệ quốc tế, quốc phòng - an ninh.
Quyền kinh tế là vấn đề
trước hết cần được quan tâm, vì nó liên quan đến quyền an sinh và phát triển,
quyền tiếp cận các nguồn lực một cách bình đẳng. Quyền chính trị được thể hiện
ở quyền bình đẳng của công dân trong bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý
nhà nước, tham dự các nghị trình chính sách, mà ở đó tạo nguồn,
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và cơ cấu hợp lý cán bộ dân tộc thiểu
số trong các cơ quan hệ thống chính trị chiếm một vị trí đặc biệt
quan trọng. Quyền văn hóa không chỉ có ý nghĩa bảo tồn, phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, mà còn liên quan đến những vấn đề cốt lõi nhất cho duy trì và
phát triển một cộng đồng dân tộc. Các vấn đề môi trường, sinh thái liên
quan rất chặt chẽ đến quyền của các dân tộc trong bảo vệ không gian sinh tồn và
phát triển của cộng đồng. Vấn đề quyền của các dân tộc thiểu số trong thế giới
hiện đại không còn bó hẹp trong biên giới quốc gia mà mang tính xuyên quốc gia,
kể cả chế định trong các văn kiện chính trị - pháp lý quốc tế. Chẳng
hạn, Tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền của người thuộc về các nhóm thiểu số
về ngôn ngữ, tôn giáo, chủng tộc (năm 1992)(1), Công ước khung của Hội đồng
châu Âu về bảo vệ dân tộc thiểu số (năm 1995)(2), Hiến chương về ngôn ngữ vùng
hoặc thiểu số của châu Âu (năm 1994)(3), Bản khuyến nghị Lund về sự tham gia có
hiệu quả của các dân tộc thiểu số trong đời sống công cộng (năm 1999)(4)...
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (năm 1966) đã ghi nhận rõ
việc bảo vệ quyền con người và quyền của dân tộc thiểu số tại các điều 2, 4,
27. Ở các nước có nhiều nhóm thiểu số về dân tộc, tôn giáo và ngôn ngữ thì
những cá nhân thuộc các dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ thiểu số đó, cùng các thành
viên khác của cộng đồng mình, không thể bị tước bỏ quyền có đời sống văn hóa
riêng, quyền được theo và thực hành tôn giáo riêng, hoặc quyền được sử dụng tiếng
nói riêng (Điều 27)...
Bảo đảm quyền của các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam là công việc của nhiều chủ thể, từ Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội,
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và toàn cộng đồng xã hội. Đó còn là
việc xử lý mối quan hệ giữa tôn trọng các giá trị phổ quát được ghi nhận
trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã cam kết với tính toán đầy đủ
những đặc thù trong bảo đảm quyền cho các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (năm 1966) ghi: “Tại những nước có
nhiều nhóm dân tộc thiểu số, tôn giáo và ngôn ngữ cùng chung sống, thì những cá
nhân thuộc các dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ và các thiểu số đó, cùng với những
thành viên khác của cộng đồng mình, không thể bị tước bỏ quyền được thụ hưởng
nền văn hóa riêng, quyền được thể hiện và thực hành tôn giáo riêng hoặc quyền
được sử dụng tiếng nói riêng của họ” (Điều 3).
Phù hợp với các Công ước
quốc tế về quyền con người, pháp luật Việt Nam đã ghi nhận và bảo đảm đầy đủ
quyền của dân tộc thiểu số. Hiến pháp Việt Nam
năm 2013 đã ghi nhận: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng
sinh sống trên đất nước Việt Nam .
Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm
cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các
dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy
phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực
hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số
phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước” (Điều 5); Các quy định về quyền
bình đẳng giữa các dân tộc trong Hiến pháp được thể chế bằng chế định về Hội
đồng Dân tộc (Điều 75). Ngoài ra, quyền bình đẳng giữa các dân tộc còn được ghi
nhận và cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật khác của Việt Nam, như Luật
Quốc tịch năm 2008 (Điều 1) khẳng định sự bình đẳng về quyền có quốc tịch của
các dân tộc thiểu số; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (Điều 29), Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 (Điều 20), Luật Tố tụng hành chính 2015 (Điều 17, Điều 21)
quy định về quyền bình đẳng của mọi công dân trong tiến hành tố tụng và quyền
được sử dụng tiếng nói, chữ viết của các dân tộc trong quá trình tiến hành tố
tụng. Đây chính là những quy định bảo vệ quyền của người dân tộc thiểu số trong
việc bảo đảm sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật và tòa án. Bộ luật
Hình sự năm 1999 (Điều 1) xác định một trong những nguyên tắc của luật hình sự
là bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc. Luật Bầu cử Quốc hội và
Hội đồng nhân dân năm 2015 (Điều 8, Điều 9) quy định về sự tham gia bình đẳng
của các dân tộc thiểu số vào việc bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng
nhân dân... Về quyền giữ gìn bản sắc văn hóa, Hiến pháp năm 2013 (Điều 5) ghi
rõ: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc,
phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình; Điều 42
cũng ghi nhận: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ
mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”. Trong nhiều văn bản pháp luật khác, trong
đó bao gồm Bộ luật Dân sự năm 2015 (các điều 5, 7, 26, 29) quy định về việc áp
dụng tập quán, chính sách đối với quan hệ dân sự, quyền có họ, tên, quyền xác
định, xác định lại dân tộc. Pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận quyền được Nhà
nước hỗ trợ để phát triển về mọi mặt. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước,
xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của nhân dân, thực
hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khỏe cho đồng
bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế
- xã hội đặc biệt khó khăn” (Điều 58); “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở
miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế
- xã hội đặc biệt khó khăn...” (Điều 61). Luật Giáo dục năm 2005 (Điều 61,
Điều 82) quy định về việc Nhà nước thành lập các trường phổ thông dân tộc nội
trú, dân tộc bán trú, dự bị đại học cho con em dân tộc thiểu số và chính sách
luân chuyển cán bộ quản lý giáo dục công tác ở các vùng dân tộc thiểu số được
học tiếng dân tộc thiểu số để nâng cao chất lượng dạy và học; Luật Khám, chữa
bệnh năm 2009 (Điều 4) quy định về chính sách của Nhà nước về khám, chữa bệnh
cho đồng bào dân tộc thiểu số, được ưu tiên bố trí ngân sách đáp ứng nhu cầu
khám bệnh, chữa bệnh cơ bản của nhân dân... Luật Hộ tịch năm 2014 quy định về
thẩm quyền đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc,
thủ tục đăng ký thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc
(Điều 46, Điều 47). Bộ luật Lao động năm 2012 nghiêm cấm hành vi phân biệt đối
xử về dân tộc (Điều 8)... Đó là những bằng chứng thực tiễn - pháp lý
sinh động cho thấy quyền của các dân tộc thiểu số đã được tôn trọng,
ghi nhận, thực thi và bảo vệ.
Thứ ba, mối quan hệ giữa
quyền của thành viên dân tộc và quyền tập thể dân tộc. Đây là mối quan hệ rất
cơ bản trong quá trình bảo đảm quyền dân tộc và đấu tranh chống lợi dụng vấn
đề dân tộc của các thế lực thù địch. Quyền cá nhân con người thuộc mọi dân
tộc đều bình đẳng trước pháp luật, thống nhất giữa quyền cá nhân và
quyền tập thể cộng đồng dân tộc được đặt chung trong quyền của quốc gia
- dân tộc. Bình đẳng về quyền con người đã được Hiến pháp năm 2013 và các
luật ghi nhận đầy đủ. Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, điều kiện địa lý
cách biệt, các rào cản về ngôn ngữ, nên khả năng thực hiện quyền của đồng
bào dân tộc thiểu số thường bị hạn chế. Bởi vậy, bảo đảm quyền này phải
được ưu tiên trong các chính sách phát triển. Các quyền đều có thể
được thực hiện thông qua hai hình thức: trực tiếp và gián tiếp, từ
quyền chính trị, quyền văn hóa, quyền tiếp cận các nguồn lực phát triển,
quyền an sinh và phát triển,... Quyền chính trị được thực hiện bằng hình thức
dân chủ trực tiếp hoặc hình thức dân chủ đại diện. Trong điều kiện đa tộc
người cư trú phân tán và xen kẽ, các dân tộc có trình độ và quy mô dân số khá
cách biệt,... thì dân chủ đại diện đóng vai trò rất quan trọng nhằm bảo đảm
quyền chính trị của các dân tộc thiểu số, thông qua lựa chọn cơ cấu những
người thật sự tiêu biểu của các dân tộc vào hệ thống chính trị các
cấp. Dân chủ đại diện có ưu thế trong lựa chọn được những đại biểu ưu tú tham
gia các cơ cấu chính trị mà dân chủ trực tiếp không thể thay thế được và nhờ đó
khắc phục những hạn chế của trình độ và quy mô dân số quá chênh lệch giữa các
dân tộc, thậm chí những dân tộc có dân số rất ít, dưới 10.000 người.
Thông qua phát huy hình thức dân chủ đại diện mà các dân tộc thiểu số, đặc biệt
là các tộc người thiểu số có dân số ít, thực hiện quyền tham dự chính trị,
qua đó phản ánh ý chí của đồng bào các dân tộc, đưa lợi ích, nguyện vọng
của đồng bào vào các nghị trình, hoạt động hoạch định chính sách cũng như
tổ chức thực thi chính sách có hiệu quả.
Kết quả các cuộc
bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân những kỳ gần đây cho thấy việc
bảo đảm quyền tham dự chính trị của đại diện cộng đồng các dân tộc
thiểu số. Ngày 9-6-2016, Hội đồng Bầu cử quốc gia đã công bố Nghị quyết về
kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV. Theo đó, có 86/496 đại biểu trúng
cử, tương ứng 17,30% tổng số đại biểu trúng cử, là người dân tộc thiểu số.
Trong 4 nhiệm kỳ Quốc hội gần đây, tỷ lệ đại biểu Quốc hội là người dân tộc
thiểu số chiếm từ 15,6% đến 17,27% (so với tỷ lệ dân số các dân tộc thiểu
số chiếm 14,3% trong tổng dân số cả nước). Trong tổng số 500 đại biểu
Quốc hội khóa XIII, có 78 đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số thuộc 29
dân tộc khác nhau, đến từ 26 tỉnh, thành phố (chiếm tỷ lệ 15,6%). Đại biểu là
người dân tộc thiểu số tham gia Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nhiệm kỳ 2011 - 2016
là 688 người, chiếm 18%; cấp huyện là 4.237 người, chiếm 20,1%; cấp xã là
62.383 người, chiếm 22,46%. Số lượng đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu
số khóa XII là 87, chiếm 17,6%. Số lượng đại biểu Quốc hội là người dân tộc
thiểu số khóa XI là 86, chiếm 17,2%. Như vậy, đại biểu là người dân tộc thiểu
số luôn chiếm một phần tỷ lệ lớn trong tổng số các đại biểu nói chung xét trên
tổng dân số. Theo điều tra dân số cả nước tại thời điểm ngày 1-4-2009, dân số
Việt Nam có 85.846.997 người, trong đó có 54 dân tộc và người nước ngoài cùng
sinh sống, dân tộc Kinh có 73.594.427 người, chiếm 85,7%, các dân tộc thiểu
số chiếm 14,3 % tổng dân số.
Thứ tư, về giải
quyết mối quan hệ giữa quyền con người với quyền công dân, quyền dân
tộc - tộc người với quyền quốc gia - dân tộc của đồng bào các dân tộc
thiểu số.
Đây là mối quan hệ rất cơ bản, quan trọng cần được nhận thức thấu
đáo và tổ chức thực hiện nghiêm túc trong quá trình bảo đảm quyền
của các dân tộc thiểu số và đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân
tộc. Không ít cư dân các dân tộc thiểu số, nhất là các nhóm cư dân
thường di cư xuyên biên giới chỉ xem trọng ý thức dân tộc - tộc người,
quyền dân tộc - tộc người mà xem nhẹ ý thức công dân và quyền của
quốc gia - dân tộc. Điều này thường bị các thế lực thù địch lợi dụng,
cường điệu hóa ý thức dân tộc - tộc người, hạ thấp hoặc phủ nhận
ý thức công dân, kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa ly
khai. Trong lịch sử nước ta, trong đồng bào các dân tộc đều đã hình
thành và phát triển ý thức quốc gia - dân tộc, “đều là con cháu
Việt Nam, đều là anh em ruột thịt”, đều xác định “nước Việt Nam là
nước chung”(5) như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Thư
gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Plâycu (tháng
4-1946). Đó là chất keo gắn bó, đoàn kết các dân tộc trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước, cùng chung sức xây dựng nên nước Việt Nam có
hình thái lãnh thổ và kết cấu đa dân tộc như ngày nay. Vì vậy, giáo
dục ý thức công dân, tinh thần quốc gia - dân tộc cho các dân tộc
thiểu số là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong quá trình bảo đảm
quyền của các dân tộc. Bởi vì, cư dân thuộc bất cứ thành phần dân tộc
nào trong thời đại ngày nay cũng đều phải định cư, sinh sống, hoạt
động kinh tế trong lãnh thổ quốc gia nhất định, thực hiện quyền và
nghĩa vụ với một nhà nước - dân tộc nhất định. Chính trên lãnh thổ
quốc gia - dân tộc và nằm dưới sự quản lý của nhà nước quốc gia -
dân tộc mà thành viên của dân tộc đó trở thành công dân, có điều
kiện thực hiện các quyền và nghĩa vụ chính đáng của mình. Do đó,
thống nhất giữa ý thức dân tộc - tộc người với ý thức công dân, giữa
quyền con người và quyền công dân, giữa quyền và nghĩa vụ là những vấn
đề rất cơ bản trong quá trình bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu
số.
Thứ năm, về mối quan
hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù trong bảo đảm quyền của các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Tính phổ biến xuất phát từ các giá
trị phổ quát của quyền con người, bất luận đó là người thuộc dân
tộc thiểu số hay dân tộc đa số, dân tộc thiểu số dân số lớn hay dân
tộc thiểu số dân số ít, nhất là các quyền an sinh và phát triển.
Tính đặc thù xuất phát từ đặc điểm vấn đề dân tộc và quan hệ dân
tộc - tộc người, từ trình độ phát triển của từng dân tộc và của
quốc gia - dân tộc, từ bản sắc văn hóa các tộc người thiểu số ở
nước ta. Tính đặc thù có thể xem xét ở cả cấp độ quốc gia - dân
tộc, cấp độ vùng và cấp độ địa phương. Ở cấp độ quốc gia, Nhà
nước ghi nhận đầy đủ quyền dân tộc trong Hiến pháp, pháp luật; cơ
cấu hợp lý đại diện các dân tộc trong Quốc hội, Chính phủ, các
bộ/ngành; bảo đảm quyền tham gia của các dân tộc thiểu số trong
hoạch định và thực thi chính sách. Tuy nhiên, chính ở cấp độ vùng
và địa phương mới có điều kiện thể hiện tính đa dạng của dân tộc -
tộc người, của nhóm địa phương trong quá trình triển khai thực thi
các chính sách bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số. Trong điều
kiện mô hình nhà nước đơn nhất, cần thiết phải có sự phân cấp hợp
lý cho các địa phương trong hoạch định các chủ trương mang tính địa
phương, để bảo đảm thể hiện được đầy đủ tính địa phương và
tính dân tộc - tộc người trong mỗi chính sách quản lý và
phát triển, trong cơ cấu hệ thống chính trị địa phương, sâu xa là bảo
đảm tốt hơn quyền của các dân tộc thiểu số. Tại địa phương, tùy quy mô
dân số dân tộc - tộc người, mức độ xen cài giữa các dân tộc thiểu
số và dân tộc đa số, giữa dân tộc thiểu số tại chỗ và dân tộc mới
đến, giữa dân tộc thiểu số có dân số lớn với dân tộc thiểu số có
dân số ít... mà lựa chọn những mô hình quản lý và phát triển phù
hợp. Hiện nay, ở tất cả các xã và thôn, làng dân tộc thiểu số, thể chế nhà
nước đã được thiết lập với bộ máy khá hoàn bị. Nhưng không vì thế mà xem nhẹ
vai trò của luật tục, thiết chế xã hội truyền thống trong quản lý
xã hội, bản sắc văn hóa địa phương. Các thiết chế xã hội truyền thống
luôn tồn tại song hành với thiết chế nhà nước, thậm chí ở nhiều nơi các thiết
chế xã hội truyền thống có ảnh hưởng rất sâu đậm trong đời sống đồng
bào các dân tộc. Trong bộ máy quản lý nhà nước hiện nay thôn, làng được coi
là đơn vị dân cư, đơn vị xã hội cơ sở nhưng không phải là một cấp hành chính.
Mỗi thôn, làng có một người đứng đầu với chức danh là “trưởng thôn”, “trưởng
bản”, vừa tuân thủ luật pháp nhà nước, vừa điều hành theo luật tục
trong quản lý các đơn vị dân cư, thậm chí người dân thường tự nguyện
chấp hành luật tục hơn là chế tài của pháp luật. Vì thế, chú ý đầy đủ tính
địa phương và tính tộc người trong mỗi chính sách quản lý
và phát triển bên cạnh tăng cường tính thống nhất quản lý của chính
quyền Trung ương là những vấn đề lớn cần quan tâm trong chính sách dân
tộc.
Bảo đảm quyền của
các dân tộc thiểu số và đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc là
những vấn đề lớn cần được nhận thức, xử lý đầy đủ, thấu đáo trong
thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay./.
Bài viết rất ý nghĩa
Trả lờiXóa