Việt Nam
có vị thế địa - chính trị đặc thù. Điều đó thể hiện rõ trong các cuộc chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc trong thế kỷ XX. Sang thế kỷ XXI, vị thế này của Việt Nam ngày càng
có ảnh hưởng đến trật tự địa - chính trị khu vực và thế giới. Về phía Việt Nam , phương
thức để giải bài toán địa - chính trị đặc thù này chỉ có thể là các chiến lược
có tầm lịch sử và văn hóa. Thách thức rất lớn, nhưng cơ hội là không nhỏ. Với
nền văn hóa có bề dày lịch sử mấy nghìn năm, nội lực văn hóa cần phải tính đến
là sức mạnh của lòng dân, là ý chí của dân tộc, là chủ nghĩa yêu nước, khát
vọng phát triển và bản sắc văn hóa,... Đó là “sức mạnh mềm” trong chiến lược
phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Và đó là khẳng định của khoa học xã hội Việt Nam ở trình độ
hiện nay.
Về quan hệ
giữa khoa học xã hội, nhân tố văn hóa và sự phát triển
Nói tới khoa học xã
hội là nói tới con người, xã hội và văn hóa. Hay chính xác hơn, con
người, xã hội và văn hóa là khách thể, đối tượng nghiên cứu của khoa
học xã hội và nhân văn. Khi nghiên cứu các đối tượng đặc thù của mình, khoa học
xã hội và nhân văn đã làm sâu sắc thêm sự bí ẩn của nhân tố con người với tính
cách là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Chính con người và sự phát
triển tự do của con người (chứ không phải những con số ấn tượng về GDP, tốc độ
tăng trưởng hay những tiện nghi hiện đại về văn minh vật chất) mới là mục tiêu
tối thượng, mới giữ vị trí là trung tâm của sự phát triển. Ngày nay, khoa học
xã hội khẳng định rằng, con người với trí tuệ của mình là nguồn lực càng được
khai thác lại càng giàu thêm không gặp trần giới hạn, trong khi các nguồn
lực khác càng khai thác thì càng nhanh bị cạn kiệt và luôn là hữu hạn.
Dựa vào thành tựu của
các nghiên cứu định lượng và một số khoa học chính xác, khoa học xã hội cung
cấp những công cụ lý thuyết giúp các chính phủ lựa chọn phương án tối ưu để
phát triển, tránh theo đuổi bằng mọi giá để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế
mà bỏ quên con người. Khoa học xã hội tư vấn ai là chủ thể hợp lý và có thẩm
quyền để giải quyết hữu hiệu các vấn đề xã hội, như việc nào là của chính
phủ, việc nào là của gia đình,...
Trong hoạt động kinh
tế, khoa học xã hội dù vẫn còn không ít hạn chế, nhưng đã đạt tới trình độ rất
cao về chiến lược và sách lược huy động các nguồn lực, về những nguyên nhân
đích thực của tăng trưởng, những kiểu tăng trưởng không lành mạnh, dự báo các
bẫy tăng trưởng, những giải pháp kết hợp giữa “bàn tay vô hình” của thị trường
với sự điều tiết vĩ mô có chủ đích của nhà nước... Trong quan hệ với giấc mơ
thịnh vượng của các quốc gia, tiếc rằng, khá nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại
mà kinh tế học và các khoa học xã hội khác đã chỉ ra, vẫn chưa được chú ý thỏa
đáng. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân vẫn là nhận thức yếu kém hoặc bị cám dỗ
bởi mục đích vụ lợi mà các chính sách đôi khi lại “vác đá tự ghè chân mình”,
còn quốc gia thì bỏ lỡ cơ hội thành công.
Bài học lịch sử và
bài học kinh nghiệm, trong cái nhìn của khoa học xã hội, luôn gợi ý các giải
pháp và cung cấp những tư vấn sáng suốt cho hiện tại, nhất là các hiện tại nóng
bỏng. Tiếng chuông cảnh báo của khoa học xã hội vẫn đang vang lên gióng giả
rằng, rất nhiều bài học của quá khứ mà con người hiện tại vẫn quên một cách “vô
tình”, hay “vẫn không thuộc bài” và rồi lại phải trả giá đắt hơn.
Với văn hóa, khoa học
xã hội ngày nay nhận thức về nó với quan điểm cách mạng. Khái niệm văn hóa có
từ rất sớm, nhưng văn hóa học, xã hội học văn hóa và quan điểm coi văn hóa là
nhân tố bên trong của sự phát triển, có khả năng quy định diện mạo của tương
lai,... thì mới xuất hiện chưa lâu. Đầu thế kỷ XXI, khoa học xã hội còn nhìn ra
vị thế của văn hóa với tính cách là “sức mạnh mềm” của các quốc gia. “Sức mạnh
mềm” có thể thua súng đạn hay thậm chí sự xâm lược (“sức mạnh cứng”) trong việc
giải quyết các vấn đề tình huống, tức thời, nhưng “sức mạnh mềm” lại có khả
năng mang lại sự phát triển bền vững. Văn hóa không chỉ là sản phẩm của sản
xuất xã hội, mà còn là cái nằm ở tầng sâu của đời sống xã hội. Nó quy định
chiều hướng, cách thức và diện mạo của sự phát triển. Nghĩa là dù phát triển
đến trình độ nào, con người và cộng đồng của mỗi xã hội vẫn chỉ có thể cảm thấy
an toàn và tiến bộ khi phát triển không thoát ly khỏi bản sắc truyền thống,
không đứt gãy với lịch sử, không quay lưng lại với giá trị chung toàn nhân loại
và không xa rời những khuynh hướng nhân đạo. Các quốc gia thành công đều là các
xã hội vừa hiện đại, vừa truyền thống; vừa bứt phá, vừa kế thừa, vừa độc đáo,
vừa không ngoại lệ... “Không giống ai” và “không còn là mình” đều là các thái
cực nguy hiểm.
Với những điều vừa
nêu, chúng tôi muốn lưu ý rằng, văn hóa và khoa học xã hội là những nhân tố
ngày càng có quan hệ hữu cơ với sự phát triển của các quốc gia. Các quốc gia
hưng thịnh và phát triển, nhất là các quốc gia có bề dày truyền thống, đều
không xem nhẹ nhân tố văn hóa, không đánh giá thấp tiếng nói của khoa học xã
hội. Các trung tâm chiến lược, các nhóm tư vấn mạnh (think tank) được tin dùng
hiện nay đều là các cỗ máy trí tuệ về khoa học xã hội. Bởi lẽ, nhờ khả năng
trực tiếp định hướng cho hành động, khoa học xã hội thường là chỗ dựa tinh thần
và tâm lý, trang bị sức mạnh tư tưởng và văn hóa, cung cấp luận cứ khoa học có
chiều sâu lịch sử,... để các quốc gia kịp thời hoạch định được chiến lược hay
các quyết sách, ứng phó với tình huống, từ giải pháp chính trị đến đột phá phát
triển kinh tế hay chiến lược bảo vệ chủ quyền quốc gia. Ngày nay, dù chọn
phương thức phát triển nào, các quốc gia cũng đều coi các giá trị về
con người và bản sắc văn hóa là lý do tồn tại đầu tiên của mình.
Vị thế địa -
chính trị của Việt Nam trong thế kỷ XXI
Việt Nam có bề dày
văn hóa truyền thống mấy nghìn năm. Dưới lăng kính của các khoa học xã hội và
nhân văn, điều được thừa nhận này có ý nghĩa là cái quy định sự phát triển tiếp
theo của đất nước. Quán tính lịch sử, khuôn mẫu văn hóa, bản lĩnh dân tộc, thói
quen tư duy, cách thức kiếm sống, phương thức ứng xử,... với tất cả thế mạnh và
những hạn chế của nó, chắc chắn sẽ không tách rời hiện tại và tương lai. Và, sự
phát triển tối ưu hay hợp lý sẽ đến với chủ thể nào biết phát huy thế mạnh về
văn hóa, nhận ra được những khuyết tật cố hữu của mình để nắm bắt và khống chế
cơ hội trong thế giới toàn cầu hóa.
Trong so sánh với các
dân tộc - quốc gia xung quanh và xa hơn ở bên ngoài, Việt Nam trước nay
luôn được đánh giá tích cực ở nhân tố văn hóa. Không phải ngẫu nhiên, cố lãnh
đạo Xin-ga-po Lý Quang Diệu từng nhận xét: “Việt Nam là một trong những dân tộc
nghị lực và có khả năng nhất Đông Nam Á. Sinh viên Việt Nam đến Xin-ga-po theo
diện học bổng ASEAN rất nghiêm túc với việc học hành và thường đạt điểm số cao
nhất”.
Tuy vậy, điều khó
khăn khi vận dụng lý thuyết văn hóa trong phát triển là ở chỗ, những ảnh hưởng,
tác động của văn hóa thường không sát sườn, không trực tiếp và lợi ích trước
mắt mà văn hóa đem lại cho các chủ thể thường không đủ thu hút, thậm chí đôi
khi còn làm giảm lợi ích kinh tế, hy sinh các lợi ích khác. Thêm vào đó, văn
hóa, ở phạm vi tư vấn chính sách, phần lớn lại là những đại lượng khó tính
toán; đã có những trường hợp khi thỏa mãn được lợi ích văn hóa này, người ta
lại vô tình hy sinh lợi ích văn hóa khác, có khi căn bản hơn.
Về phương diện địa -
chính trị, trong thế kỷ XXI Việt Nam là quốc gia có vị thế rất đặc biệt trên
bàn cờ chính trị khu vực và thế giới, là nhân tố có ý nghĩa chi phối trật tự
địa - chính trị khu vực và thế giới.
Trong thế kỷ XX, các
cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước, giải phóng dân tộc đều có nguyên nhân không
tách rời vị thế địa - chính trị của đất nước. Ngày nay, trong tương quan với
chiến lược của Mỹ xoay trục về châu Á - Thái Bình Dương và trong tương quan với
tham vọng “Giấc mộng Trung Hoa” của Trung Quốc, vị thế địa - chính trị của
Việt Nam một lần nữa lại trở nên quan trọng, nằm ngoài ý muốn của tất cả các
bên.
Vấn đề là ở chỗ, nếu
xem nhẹ vị thế địa - chính trị đặc biệt của Việt Nam , việc mưu cầu và theo đuổi lợi
ích của một số nước lớn có thể bị vi phạm. Những năm gần đây, các đầu óc chiến
lược của nhiều nước lớn đều đã nhận ra tính thực tế của điều này. Và, không hề
ngẫu nhiên, sách lược của các nước lớn đều công nhiên thể hiện khá rõ phương
thức ứng xử có tính đến yếu tố Việt Nam .
Giữ vị trí giao điểm
của các luồng văn minh, Việt Nam
xưa nay luôn là mảnh đất dừng chân, lập nghiệp và hội tụ của nhiều tôn giáo,
nhiều phương thức sống, nhiều dạng văn minh. Văn minh Đông Sơn, văn hóa Sa
Huỳnh, văn hóa Óc Eo, văn minh Đại Việt từ thời Đinh, Lê đến tận thế kỷ XX,
trong tương quan với các nền văn minh - văn hóa bên ngoài đương thời, đều không
hề thua kém về trình độ phát triển.
Nhìn lại lịch sử, có
thể thấy cha ông ta đã xử lý rất hiệu quả nhân tố đặc thù văn hóa địa - chính
trị ngặt nghèo này. Những bài học kinh nghiệm phong phú đã một phần được ghi
lại trong sử sách. Việc tìm kiếm những gợi ý thông minh cho hiện tại và tương
lai là trách nhiệm phải đúc kết của thế hệ hôm nay.
Bài học kinh nghiệm
gợi ý tìm phương thức phát triển cho tương lai, mà thế hệ hôm nay có trách
nhiệm phải đúc kết, trước hết và cũng rất căn bản là bài học về phương diện văn
hóa. Cùng với vị thế địa chiến lược quan trọng, Việt Nam còn có cả một bề dày văn hóa
được tạo dựng và tôi luyện qua mấy nghìn năm lịch sử và cũng vừa mới sử dụng
trong gần trọn thế kỷ XX. Bài học từ quá khứ còn nóng hổi. Chủ nghĩa yêu nước
sâu sắc, bền bỉ. Ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Tư tưởng “Vì dân”.
Tinh thần “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn”. Sách lược “Dĩ bất biến ứng vạn
biến”... Đó là những sức mạnh văn hóa có thực nếu thế hệ hôm nay biết tôn
trọng, khai thác và vận dụng.
Để văn hóa
thực sự là nền tảng tinh thần, là mục tiêu và là động lực của sự phát triển
Thứ nhất, để văn hóa phát huy
được vai trò là nhân tố thúc đẩy đất nước phát triển, văn hóa phải thực sự là
nền tảng tinh thần, là mục tiêu và là động lực của sự phát triển - điều này
không mới về mặt lý luận, nhưng đặc biệt cấp thiết về phương diện quản lý vĩ
mô, hoạt động thực tiễn và hoạch định chính sách.
Nói không mới về mặt
lý luận vì từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước đến nay, khá nhiều cuốn
sách chuyên khảo và không ít hội thảo khoa học tầm cỡ bàn khá kỹ về các nội
dung này. Mặc dầu vậy, trong thực tế, sự tôn trọng vai trò của văn hóa dường
như có phần giảm đi. Nhiều đề án kinh tế - xã hội đã công nhiên hy sinh văn hóa
vì mục tiêu kinh tế. Để khắc phục tình trạng này Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 9 khóa XI đã nhấn mạnh: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với
kinh tế, chính trị, xã hội”. Tính văn hóa của nhiều hoạt động văn hóa cũng rất
thấp. Các chính sách có liên quan đến văn hóa đôi khi cũng vi phạm tiêu chuẩn
văn hóa. Văn hóa làm người “ở một bộ phận không nhỏ” có phần bị vấy bẩn trong
nhiều quan hệ: bệnh nhân và thầy thuốc, công dân và cơ quan công quyền, công an
và các bên đối tượng, thậm chí cả thầy giáo và học trò... Tham nhũng lớn tăng,
vi phạm pháp luật nghiêm trọng hơn, thói vô cảm phổ biến,... Tình trạng này
không thể cứ tiếp tục, nếu muốn đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Thứ hai, trong tình huống
phức tạp của sự nghiệp bảo vệ chủ quyền đất nước hiện nay, nhân tố văn hóa cần
phải tính đến là sức mạnh của nhân dân, là ý chí của dân tộc, là lòng yêu nước
của mỗi người, là tính chính nghĩa của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc... Đó là “sức
mạnh mềm” trong chiến lược bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
bên cạnh sức mạnh quân sự, chính trị. Bài học văn hóa đầu tiên của các cuộc
kháng chiến vĩ đại của dân tộc là, sức mạnh của nhân tố con người bao giờ
cũng mạnh hơn vũ khí.
Thứ ba, là nền tảng tinh
thần của xã hội, văn hóa đòi hỏi phải được tồn tại như là linh hồn của mọi kế
sách vĩ mô, phải thấm sâu vào mọi hoạt động, phải “soi đường cho quốc dân đi”
(Chủ tịch Hồ Chí Minh). Nghĩa là, không thể để bất cứ chiến lược, sách lược,
chủ trương, đề án, hoạt động nào không chú ý thấu đáo đến khía cạnh văn hóa của
vấn đề, không đặt văn hóa đúng tầm mức của nó, không đạt tới trình độ nhất định
về văn hóa. Văn hóa phải được coi là tiêu chuẩn đánh giá kết quả hoạt động, bên
cạnh những tiêu chuẩn kinh tế - xã hội. Dư luận xã hội, đạo đức xã hội và khung
khổ pháp lý phải đủ mạnh để ngăn chặn tất cả những gì là phi văn hóa, thiếu
văn hóa, vô văn hóa... Bên cạnh tốc độ của sự phát triển, tính nhân văn của sự
phát triển và trình độ lành mạnh của đời sống xã hội là thước đo của việc văn
hóa đã đóng vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội đến đâu.
Thứ tư, là mục tiêu của sự
phát triển, văn hóa phải có mặt trong kết quả của mọi chiến lược, sách lược,
chủ trương, đề án và hoạt động. Mọi mục tiêu vĩ mô chưa thể được coi là hợp lý,
nếu mục tiêu văn hóa trong đó được thể hiện mờ nhạt hoặc thiếu hụt. Nếu cần
thiết, phải hy sinh kinh tế cho văn hóa. Người dân đồng thuận và có chỉ số
hạnh phúc cao, đó là sự biểu hiện của việc văn hóa đã đóng vai trò là mục tiêu
của sự phát triển.
Hiện nay, việc chủ
động hy sinh kinh tế cho văn hóa trong các chương trình, dự án rất ít xảy ra,
mà thường là ngược lại. Dĩ nhiên, phát triển văn hóa không nhất thiết phải lãng
phí hàm lượng kinh tế của hoạt động. Nhưng tại các dự án, công trình về văn hóa
truyền thống, về đặc thù bản sắc Việt Nam , về các hành lang phát triển
cho thế hệ tương lai... nếu cứ tuyệt đối chú ý đến lợi nhuận, thu nhập, thì ý
nghĩa văn hóa của vấn đề rất dễ có khả năng bị quên lãng. Ở đây, vai trò của
quản lý vĩ mô, của tầm nhìn vượt thời gian và của ý chí phát triển,... vô cùng
quan trọng. Các quốc gia thành công thường không thiếu những chính khách có tầm
nhìn xa, dám “đứng mũi chịu sào”.
Thứ năm, là động lực của sự
phát triển, văn hóa cần thực sự là chất kích thích, thúc đẩy sự tiến bộ trong
từng chính sách, trong mọi hoàn cảnh, ở khắp các địa phương. Trong mọi tình
huống của đất nước, tiềm năng con người luôn phải được giải phóng, tự do sáng
tạo được tôn trọng, dân chủ xã hội được bảo đảm. Sự phát triển xã hội chưa thể
được coi là hợp lý, nếu trong đó các tiềm năng chưa được bộc lộ và còn để lãng
phí, lòng dân chưa yên.
Hiện nay, trình độ
thực của sự phát triển và hầu hết các chỉ số phát triển ở Việt Nam đều ở mức
chưa phát huy hết tiềm năng, bên cạnh tình trạng thực sự thiếu tiềm năng, đặc
biệt thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Nếu tiềm năng đã có chưa được giải
phóng, chưa được phát huy và tiềm năng thiếu hụt chưa được chú ý đào tạo hoặc
thu hút, thì sự phát triển khó có thể coi là hợp lý. Muốn giải phóng để tránh
lãng phí các tiềm năng, muốn các nguồn lực bên trong và bên ngoài được đào tạo,
được thu hút để đáp ứng tốt nhu cầu phát triển, muốn văn hóa thực sự đóng vai
trò là động lực của sự phát triển thì việc tạo cơ chế, chính sách, môi trường
tự do sáng tạo cho con người giữ vai trò quan trọng.
Thứ sáu, khi nói đến văn hóa
và phát triển ở phạm vi một quốc gia, người ta thường chú ý đến bầu không khí
tinh thần chung của quốc gia đó - khái niệm “tâm quyển” đôi khi cũng được dùng
để diễn đạt và đánh giá trình độ này của dân trí, dân sinh và dân quyền.
Thực tế phát triển
được coi là thần kỳ của một số quốc gia NICs (các nước công nghiệp mới)
trong thế kỷ XX cho thấy, văn hóa sẽ thực sự là nhân tố thúc đẩy sự phát triển
khi khát vọng phát triển là tâm lý không thể nguội dần ở các tầng lớp cư dân và
ở chính phủ. Các quốc gia đã “hóa rồng” đều là những xã hội mà chính phủ tâm
huyết với kế sách vĩ mô, trí thức cháy bỏng niềm tin với từng bước đi của đất
nước. Ở Việt Nam ,
khát vọng phát triển lâu nay luôn được thế giới đánh giá cao. Tâm thức phát
triển đầy nhiệt huyết, từ hàng chục năm nay, có thể bắt gặp ở bất cứ đâu, từ
người dân bình thường đến các nhà lãnh đạo đầy trách nhiệm. Đó là một vốn văn
hóa quý. Nhưng cũng đã có những nước, sau nhiều năm tăng trưởng nhanh, chuẩn bị
“cất cánh” nhưng lại tuột mất cơ hội vì khát vọng phát triển bị nguội dần.
Phi-líp-pin, Bra-xin, Pê-ru,... là những trường hợp như vậy.
Làm thế nào để giữ
được ngọn lửa khát vọng cho phát triển là điều không quá khó. Nhưng điều này
lại trực tiếp phụ thuộc vào sự đồng thuận vĩ mô, vào tầm nhìn của nhà lãnh đạo,
vào sự minh bạch của các kế sách và vào triển vọng ẩn giấu sau các bước đi thực
tế của việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội. Những năm gần đây, mặc dù
Việt Nam phải qua giai đoạn đầy khó khăn khi những vấn đề kinh tế - xã hội
không dễ dàng trong nước và quốc tế liên tiếp nảy sinh, nhưng sự khởi sắc trở
lại của nền kinh tế, sự tường minh của các quyết sách, sự xuất hiện của những
công trình thế kỷ,... đã lấy lại niềm tin cho xã hội. Khát vọng phát triển vẫn
không hề nguội dần. Hy vọng về tương lai là có cơ sở./.
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa